Mê Tông Chi Quốc

Chương 23: hồi thứ tám: rắn thiêng hiện thân



Hồi thứ tám: Rắn thiêng hiện thân

Đúng lúc đoàn thám hiểm bị vực sâu cản đường, trong lúc tưởng chừng sự việc giậm chân tại chỗ thì đột nhiên phát hiện trên vách núi xuất hiện hình thù con hắc xà khổng lồ, dài ngoằn ngoèo cả mấy chục mét. Trên vách đá phủ đầy rêu xanh và các loại thực vật khác nhau, dưới sự phản chiếu của màu xanh lục đậm, con rắn càng trở nên mờ ảo, quái dị như thể vong hồn u uất. Vì khoảng cách ở quá xa, nên mọi người cũng không phân biệt rõ nó là rắn hay trăn.

Đám lính vũ trang Miến Điện nhìn thấy cảnh tượng ấy đều kinh hãi quỳ rạp xuống đất, miệng không ngừng lẩm bẩm tụng niệm Phật hiệu, hướng về phía vực núi dập đầu liên tiếp.

Ngọc Phi Yến cũng không khỏi kinh ngạc, cô ả cầm ống nhòm, nghé mắt nhìn kỹ, một hồi sau mới bàng hoàng tỉnh ngộ, đoạn nói với mọi người rằng không cần hoảng sợ, bóng đen hình con rắn treo trên vách đá thực ra chẳng phải mãng xà gì hết, chẳng qua chỉ là một bầy kiến đỏ đang di chuyển mà thôi.

Thì ra địa thế núi Dã Nhân là một vòng tròn khép kín, tứ bề núi cao trập trùng nhấp nhô, đa phần đều là sản vật từ quá trình tạo sơn của dãy Himalaya thời cổ đại; khí hậu quanh năm ổn định bất biến, gió bão nhiệt đới thông thường cũng khó lòng chạm tới ảnh hưởng đến đất này. Nhưng năm nay, lại là cơn bão nhiệt đới đến từ Ấn Độ Dương có cường độ mạnh khủng khiếp mà mấy chục năm hiếm gặp. Sự biến đổi khí tượng khắc nghiệt này, từ sau khi được dự báo đến nay đã thu hút sự quan tâm chú ý của đông đảo nhân dân các khu vực trên khắp thế giới, còn theo phân tích của khí tượng, vùng núi Dã Nhân ở miền bắc Miến Điện cũng chịu sự công kích mãnh liệt của cơn bão. Giờ đây, cơn bão nhiệt đới mang mưa lớn sắp tiến đến gần, khiến các con sông con suối vốn hiền hòa nằm im lìm dưới các khe núi thấp bỗng chốc trở nên hung dữ, dòng hồng thủy cuồn cuộn chảy xiết.

Dường như các sinh vật trong rừng già núi sâu đều cảm nhận được cái oi bức khác thường của khí hậu, hàng ngàn vạn con kiến đỏ buộc phải di chuyển lên chỗ cao hơn để tránh nguy cơ chẳng may tổ kiến bị lũ quét, số lượng kiến đỏ trong rừng rậm nguyên sinh nhiều đến khiếp người. Tuy gọi là kiến đỏ nhưng toàn thân nó đen sì sì, chỉ có một chút ở phần đuôi là điểm màu đỏ thẫm, con to nhất phải gần bằng ngón tay người, con bé cũng cỡ hạt gạo, chúng lúc nhúc tụ tập thành từng đoàn bò dọc vách đá hướng dần lên trên. Người đứng ở nơi xa nhìn vào sẽ thấy chúng chẳng khác nào một con rắn dài. Có lẽ từ hàng triệu năm trước từng có người tận mắt nhìn thấy hiện tượng tự nhiên thần bí này, nên mới lưu lại truyền thuyết ly kỳ khiến người ta khó lòng tin nổi.

Tuy Ngọc Phi Yến đã nói bóng đen ngoằn ngoèo trên vách đá không phải mãng xà, nhưng nhóm người Miến Điện, bao gồm cả Karaweik, vẫn không thể lý giải được làm sao kiến đỏ trong rừng rậm lại biết chủ động leo lên chỗ cao tránh mưa bão, nên họ cứ một mực cho rằng rắn thiêng mượn xác bầy kiến để hiện thân, rồi ai nấy mặt vàng như nghệ, miệng không ngớt lầm rầm tụng niệm.

Ngọc Phi Yến giải thích với mọi người, kiến đỏ sinh tồn trong rừng rậm nhiệt đới còn gọi là kiến vống, chúng biết nhả ra “chất tín hiệu chỉ đường” khi nhai nuốt thức ăn trên những nơi mà chúng đã hành quân qua. Bởi vậy mỗi lần di chuyến ở khoảng cách xa, chúng đều bò theo một tuyến đường nhất định cùng nhau, đợi khi thời tiết ổn định, thì sẽ quay lại đường cũ để trở về đáy vực, cùng nhau xây dựng lại chiếc tổ đã bị mưa gió cuốn trôi. Nhìn số lượng khổng lồ của đàn kiến đang tụ tập trên vách đá thật khiến người ta khiếp hãi, và có thể đoán định nội trong mười mấy dặm xung quanh chắc không còn đàn kiến nào có quy mô vĩ đại như thế. Đã có người từng tận mắt nhìn thấy kỳ quan sinh vật của giới tự nhiên ở gần cổng đường hầm của con đường U Linh, thì đường hầm xuyên núi đó chắc hẳn cũng chỉ ở đâu đây mà thôi.

Ngọc Phi Yến móc một sợi dây chuyền vàng trong người ra bảo phiên dịch nói với mọi người: “Ai tìm được lối vào núi, sợi dây chuyền vàng trên tay tôi sẽ thuộc về người đó.”

Tư Mã Khôi vốn còn cho rằng cô ả Ngọc Phi Yến có chiêu thức đặc biệt làm lung lạc lòng người, hóa ra cũng chỉ là hạng mang tiền ra nhử mồi câu, không có gì mới mẻ cả. Có điều, người ta vẫn thường nói: “Mang tiền trọng thưởng, tất có dũng phu”, mấy người Miến Điện này tuy khiếp sợ núi Dã Nhân đến tận xương tận tủy, nhưng hơn hết, bọn chúng là lũ thổ phỉ hung hãn nên chỉ cần tiền, chẳng cần mạng. Dưới sự dụ dỗ của cái lợi to lớn trước mắt, ban đầu chúng còn hoảng loạn mất một lúc nhưng sau đó dưới lệnh của thủ lĩnh trong đội, chúng lần lượt leo xuống vực sâu tìm kiếm lối ra của con đường hầm.

Đội thám hiểm lùng sục theo hình thức đan rào một hồi, cuối cùng cũng phát hiện thấy cổng đường hầm của con đường U Linh, nhưng phần chóp cổng đã bị sụt lở hoàn toàn, một lượng đất đá lớn đã sụp xuống bịt kín lối ra, dường như nó bị con người dùng thuốc nổ phá hủy. Có lẽ quân Mỹ trước khi rút khỏi đường hầm tuyến đường B, muốn phong tỏa vĩnh viễn khu vực nguy hiểm này nên đã tiến hành kích nổ nhiều lần, khiến lối ra hoàn toàn đổ sụp, không thể tiếp tục đi về phía trước được nữa.

Có điều, vẫn là đám lính vũ trang Miến Điện giàu kinh nghiệm đã tìm thấy một khe núi bí ẩn bị thảm thực vật um tùm che phủ, nằm ở mặt bên của vực thẳm, nơi lũ kiến vống đang bò. Trên tầng nham thạch nhẵn nhụi ở cổng vào khe núi vẫn còn lưu giữ những bức tranh đá nguyên thủy mô tả cảnh tượng chết chóc của một bầy voi rừng lớn.

N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o…c.o.m. Lòng sơn cốc thâm u, khúc khuỷu, không gian tĩnh mịch, nặng nề, hai bên mọc đầy cây cổ thụ tán lá rộng rợp trời, đan kết, xen cài vào nhau, khiến mặt trời không thể chiếu sáng khoảng không trên đầu, mà chỉ có những tia nắng yếu ớt lọt qua kẽ lá âm u rậm rạp.

Cuốn sổ ghi chép của cố nội Karaweik không chỉ mô tả địa hình trong lòng “Tượng môn” hoàn toàn trùng khớp với bức bản đồ cổ, mà còn ghi chép rất nhiều sự kiện liên quan. Nghe nói, trong thời kỳ chiến tranh Anh – Miến, từng có một viên thượng úy người Anh chỉ huy lính tác chiến ở gần khu vực núi Dã Nhân. Do quân Anh được trang bị vũ khí đầy đủ, tinh nhuệ nên đã dễ dàng đánh bại kẻ địch. Trong quá trình truy sát tàn quân, viên thượng úy đó đã gặp một con voi rừng già nua đang chuẩn bị lên đường gặp tổ tiên ở rừng rậm nguyên sinh. Một binh sĩ người Ấn Độ, là thuộc hạ của anh ta vì ham muốn chiếc ngà voi rừng, định dùng súng bắn hạ sát con voi già, nhưng viên thượng úy đã hoạt động nhiều năm ở Ấn Độ, Miến Điện… biết rõ tập tính của bầy voi rừng, nên ngăn không cho người binh sĩ nọ nổ súng làm kinh động đến nó, mà lặng lẽ dẫn quân đi sát theo sau. Điều anh ta muốn biết là rốt cục con voi đến chỗ nào để chờ chết.

Thì ra voi rừng Miến Điện có một tập tính đó là khi một con voi già yếu sắp chết, nó thường linh cảm được sự tắt rụi của số mệnh, bèn một mình rời khỏi đàn voi, đơn độc tiến vào rừng sâu. Nó đi mãi cho đến huyệt động đá, nơi tổ tiên mình vùi xương từ hàng ngàn năm, sau đó nằm phủ phục bên cạnh đống xương voi chồng chất, không ăn không uống, lặng lẽ chờ đợi thần chết đến đón.

Tương truyền, huyệt mộ voi rừng Miến Điện, cổ xưa nhất dễ có lịch sử hàng vạn năm nên xương voi, ngà voi trong động chất đầy như núi. số lượng di hài bầy voi rốt cục có bao nhiêu, chẳng ai đếm được chính xác, cũng là do niên đại quá xa xôi, thậm chí có những chiếc ngà voi quá cổ xưa đã hóa thạch nằm dưới tầng đáy của huyệt động.

Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo chế tạo từ ngà voi được giới quý tộc châu Âu rất ưa chuộng, nên giá trị vô cùng cao. Viên thượng úy Anh biết rằng, chỉ cần bám theo tung tích con voi già, rất có khả năng sẽ tìm thấy miền đất vùi xương của tổ tiên nó, điều đó cũng có nghĩa là sẽ tìm ra một kho báu vô giá, chứ không chỉ đơn giản dừng lại ở hai chiếc ngà voi.

Khi đó, viên thượng úy Anh vì bị lòng tham làm mờ lý trí nên đã bỏ qua một điều vô cùng quan trọng, đó là ý thức bầy đàn của voi rừng Miến Điện vô cùng mạnh mẽ, chúng không ngại trả mọi giá để bảo vệ bí mật về miền đất vùi xương của tổ tiên. Không những thế, dường như bầy voi cũng biết được, từ trước đến nay, sở dĩ chúng bị loài người săn bắn, hạ sát, căn nguyên chính là vì đôi ngà quý giá, bởi vậy huyệt mộ mà chúng lựa chọn thường nằm giữa khu vực nguy hiểm nhất trong núi sâu, rừng già, đủ để khép chặt lối về của bất kỳ kẻ bám sát nào.

Kết quả, viên thượng úy chỉ huy hơn hai trăm tinh binh Ấn Độ, bám sát dấu chân con voi già, tiến sâu vào khe núi ẩn khuất. Vượt qua bao gian khổ hiểm nguy, cuối cùng họ cũng nhìn thấy vô số động huyệt thiên nhiên bị màn rễ của cây si buông rủ phủ kín, nằm sâu trong khe núi. Đó đều là những huyệt động thiên nhiên được hình thành do quá trình nước mưa xâm nhập vào lòng núi đá vôi, làm tan chảy phần nham thạch mềm xốp, trải qua hàng chục triệu, thậm chí hàng trăm triệu năm dần dần điêu khắc mà thành. Gió lạnh trong động thổi vù vù, huyệt động âm u huyền bí bốn phía thông thoáng, hình thành một mạng lưới địa hình Karst – kiểu địa hình phong hóa đặc trưng của những miền núi đá vôi bị nước chảy xói mòn – dày đặc, miên man. Những huyệt động này không chỉ khoáng đạt, rộng rãi khác thường mà còn chứa đựng tầng tầng lớp lớp di hài của loài voi rừng.

Viên thượng úy người Anh kinh ngạc cực độ, chỉ có thể dùng bốn chữ “huyệt động ma mút” để hình dung cảnh tượng đang hiện ra trước mắt. Mặc dù trong đống di hài voi rừng cao ngất tuyệt đối không có xương của loài mãnh thú thời kỷ nguyên băng hà, nhưng chỉ có thể hình khổng lồ của chúng mới đủ sức mô tả huyệt động hùng vĩ như một kỳ tích này. Ngoài ra, bọn họ còn phát hiện, nơi tận cùng huyệt động ma mút ăn thông với một khe núi khổng lồ có độ sâu khó lường, với màn sương mù ào ra từ lòng đất đặc quánh đến nỗi tưởng như không thể rẽ ra nổi, lúc đó chẳng ai dám bước chân tới thăm dò.

Tuy viên thượng úy không dám tiến sâu vào khe cốc, nhưng núi sâu hiểm nguy mai phục tứ bề, ngoại trừ rắn độc, ác thú ra, thì còn vô số lời nguyền cổ xưa, nên cuối cùng cả đoàn quân đều bị tiêu diệt gần như sạch trơn. Viên thượng úy nọ cũng nằm trong số những kẻ phải bỏ mạng, chỉ có vài người may mắn sống sót, nhưng chẳng ai mang nổi nửa cái ngà voi ra khỏi rừng. Sau đó, rất nhiều nhà thám hiểm và những kẻ đầu cơ cũng thử vào đây tìm vận may, nhưng chẳng có ai thoát chết trở về. Bởi thế khe núi này bị coi là vùng đất cấm.

Khương sư phụ phán đoán, khe cốc này có lẽ chính là “Tượng môn” mà tấm bản đồ cổ đã mô tả, hướng đi của con đường Stilwell về cơ bản cũng có nhiều nét tương đồng. Trong quá trình tiến hành thi công đường hầm, quân đội Mỹ đã vô tình xuyên thủng rìa khe cốc khiến sương khí trong lòng đất trào ra, rồi bao nhiêu nhân viên bị bỏ mạng hoặc mất tích cũng từ đây. Bởi vậy, quân đội Mỹ đành từ bỏ tuyến đường 206B. Nơi tận cùng của “Tượng môn” có lẽ cũng nối liền trực tiếp với lòng núi Dã Nhân. Đường đến khe động trong núi sâu có lẽ cũng không chỉ có một lối, nhưng “mọi ngả đường đều dẫn về La Mã”, chẳng có nơi nào là không nguy hiểm.

Nếu bây giờ dùng thuốc nổ để mở lối ra của đường hầm 206 thì chắc chắn không chỉ một hai lần mà có thể thành công ngay được. Khương sư phụ tự lượng đội thám hiểm đều được vũ trang đầy đủ, hơn nữa kinh nghiệm lại rất phong phú, nếu cứ quanh quẩn mãi ở con đường U Linh tương đối an toàn thì chi bằng mạo hiểm xông vào huyệt động ma mút. Lão ta cũng là kẻ toan tính lọc lõi, nên lão bảo Tư Mã Khôi và La Đại Hải hai người đi trước dò đường, đồng thời còn sắp xếp Xuyên Sơn Giáp đi theo giám sát. Ngọc Phi Yến cũng đồng ý với cách sắp xếp này, bèn vẫy tay gọi ba người lại, rồi ra lệnh cho thuộc hạ đưa hai con dao săn cho hội Tư Mã Khôi dùng để phòng thân, ngoài ra còn phát thêm hai chiếc đèn pin và pháo sáng tín hiệu.

Xuyên Sơn Giáp là gã người Quan Đông, khoảng hơn bốn mươi tuổi, trên mặt hằn một vết sẹo do dao chém, tứ chi ngắn ngủn, thô ráp, thân hình thấp lùn, săn chắc, tính tình trầm lặng ít nói, dễ nóng nảy cáu bẳn, bản mặt lúc nào cũng gằm gằm. Gã tự biết đi trước dẫn đường rất nguy hiểm, nhưng thủ lĩnh đã phát lệnh thì không dám trái lời, bèn gắt gỏng thúc giục Tư Mã Khôi và La Đại Hải: “Hai thằng ôn nghe cho rõ đây, đi đằng trước, da mặt phải căng ra một chút, cố gắng mà tỉnh táo cho ông mày đấy!”

Tư Mã Khôi và La Đại Hải vốn dĩ định cố tình tụt lại phía sau, nhưng nghe Ngọc Phi Yến bố trí thì thầm nghĩ: “Thành viên trong đội thám hiểm của cô, người nào cũng được vũ trang đến tận răng, còn có cả Thảo Thượng Phi, Xuyên Sơn Giáp, thế mà lại bắt tàn binh bại tướng bọn tôi mạo hiểm tính mạng đi trước dò đường mà không biết ngượng mặt à?” nhưng rồi lại tính: “Chúng ta làm sao phải cúi đầu trước gã lùn tịt thế kia? Đã biết chắc mình sẽ trở thành xác pháo khi đi dò địa lôi cho bọn họ, mà cơ sự đến nước này muốn không đi cũng không được, nên tốt nhất chả nên lèm bèm làm gì, kẻo chỉ khiến người ta thêm khinh thường.” Thế là người nào người nấy làm theo gã lùn, uể oải đứng dậy, bước từng bước chậm chạp.

Càng đi sâu vào trong sơn cốc, địa thế càng trở nên rộng rãi, thoáng đạt, nhưng những thân cây cổ thụ cũng cao lớn lừng lững hơn, tưởng như muốn chọc thủng trời, tán lá của chúng um tùm, đan cài, kết chặt vào nhau, tạo thành tấm màn màu xanh khổng lồ giăng mắc giữa không trung, hoàn toàn che kín vòm trời. Trên mặt đất, cây bụi cỏ dại mọc rậm rạp, chồng chéo chen lấn lẫn nhau, rất nhiều chỗ phải lần mò từng bước. Do nơi đây quanh năm không có ánh mặt trời, nên những vũng nước tù đọng chỗ trũng cũng bốc lên một mùi hôi thối, tanh tưởi, xộc nhức sống mũi.

Phần đáy rừng rậm hoàn toàn bị lớp sương mờ khói tỏa bủa vây. Sương khí thông thường được chia ra làm mấy loại như: sương mù gió, sương mù núi, sương mù hơi, sương mù bức xạ. Tại những nơi rừng sâu núi thẳm hoặc những khu vực có vũng tù nước đọng, còn xuất hiện chướng khí, sương mù mang theo độc tố. Thế nhưng, đến tận bây giờ vẫn chưa ai có thể giải thích, màn sương mù trong khe cốc khổng lồ của núi Dã Nhân cuối cùng thuộc thể loại sương mù gì, và được hình thành như thế nào. Thông qua kiểm tra, người ta đã xác định loại sương mù này hoàn toàn không có độc, cũng không có tác dụng khiến người ta hôn mê hay hoang tưởng. Vậy rốt cục nó được sinh ra bởi khí ẩm trong lòng núi, hay từ dưới lòng đất trào ngược lên. Nhưng bất luận thế nào, sự xuất hiện của “sương mù” là dấu hiệu đã bước vào lãnh địa của khu vực nguy hiểm thực sự.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải cố nhịn thở, rẽ đám gai bụi phía trước, xuyên qua rừng rậm um tùm dưới sơn cốc, từ từ tiến sâu vào trong. La Đại Hải ngoái đầu nhìn Xuyên Sơn Giáp bám sát phía sau, cách họ chừng mười mấy mét, hằn học nói: “Con tặc nữ Ngọc Phi Yến lòng dạ đen tối thật, bây giờ bọn mình bị rơi vào tay nó, mẹ kiếp, khác nào Võ Đại Lang gặp Phan Kim Liên – đúng là lành ít dữ nhiều.”

Tư Mã Khôi điềm nhiên bảo: “Chí ít Võ Đại Lang còn có huynh đệ là Võ Tòng giúp ông ta trả thù huyết hận, còn tớ thấy nếu chẳng may bọn mình phải xuống điểm danh với Diêm Vương thì cũng chả có ma nào thèm đến đây giúp dọn xác đắp mộ đâu. Có điều, việc đến nước này, cậu nên nghĩ thoáng một chút, miếu nào mà chẳng có vài oan hồn, ai bảo số bọn mình đen đủi.”

Hải ngọng từ đầu đã thấy ngứa mắt với đám người trong đội thám hiểm, anh chửi đổng một hồi, sau đó ngoái lại phía sau nhìn Xuyên Sơn Giáp, thấy đối phương cách mình không quá gần, chắc chẳng nghe thấy gì, liền nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi: “Khôi này, cậu thử ngắm vị đi đằng sau chúng ta xem, sao tớ thấy gã ngứa mắt thế nhỉ! Cậu bảo hai đứa bọn mình tham gia ngần ấy năm trong quân đội cộng sản Miến Điện, giết bao nhiêu người, nổ bao nhiêu vụ, ngay cả bản thân cũng chẳng nhớ xuể, vậy tại sao cứ phải cố nén chịu cảnh này? Cậu nhìn gã kia đi, chẳng qua chỉ là thằng trộm mộ quèn, chẳng làm được trò trống gì ngoài việc lén lén lút lút đào bới mấy ngôi mộ vô chủ, nhân tiện bắt nạt luôn người chết nằm trong quan tài, gã có bản lĩnh gì mà dám ra vẻ thâm trầm thế nhỉ?”

Tư Mã Khôi cũng liếc mắt nhìn về phía sau một cái, anh bảo La Đại Hải: “Cậu chớ đảo lưỡi nói bừa, gã Xuyên Sơn Giáp đó tuyệt đối không phải hạng tầm thường đâu. Cậu ngắm hai cánh tay vừa ngắn vừa thô của gã mà xem, chắc chắn được rèn luyện lâu năm từ công việc bới huyệt, đào lỗ, chui ống khói, còn đôi chân vòng kiềng nữa chứ, dài như cái lò xo, vừa nhảy vào động huyệt, chỉ cần chiu một cái là có thể bắn xa hơn mười trượng. Còn thân thể nung núc những thịt kia, tớ đoán nếu bị ngâm trong mộ cổ không ăn không uống nửa tháng, gã cũng chẳng thể chết vì đói đâu. Gã Xuyên lão gia này chắc chán là bậc kỳ tài cái thế, được sinh ra chuyên để khai quật mồ mả đấy!”

La Đại Hải chẳng mấy tin, liền vặn lại: “Cậu bảo gã là người hay cái cào đất?” vừa nói anh vừa ngoái đầu liếc mắt ra sau. Nhưng vừa nhìn anh đã giật nảy mình, vội vàng hét gọi Tư Mã Khôi. Lúc hai người quay đầu lại, chỉ thấy đằng sau vắng tanh không một bóng người, gã Xuyên Sơn Giáp luôn bám sát sau lưng đột ngột biến mất chẳng còn tung tích.

Tư Mã Khôi và La Đại Hải vô cùng kinh ngạc, vì nếu khi nãy Xuyên Sơn Giáp vô ý rơi vào đầm lầy trong hốc cây thì chắc phải nghe thấy chút động tĩnh gì đó mới phải, đằng này chỉ trong nháy mắt, hai người đều chẳng phát hiện được Xuyên Sơn Giáp vẫn bám ngay phía sau đã biến đi đâu mất.

Đúng lúc đó, hai người nghe thấy dường như có một con vật rất to lớn động đậy trên vòm cây, liền lập tức ngẩng đầu lên nhìn, đồng thời bật sáng đèn pin, chiếu thẳng vào nơi phát ra âm thanh, nhìn qua nhìn lại tìm kiếm thì thấy thân thể của Xuyên Sơn Giáp đang chơi vơi giữa không trung âm u, nét mặt khó coi đến cực độ, ngũ quan biến dạng, dường như miệng không thể nói, chỉ thấy tứ chi vừa ngắn vừa thô, cố sức giãy giụa, giằng co.

Thì ra ở trên cao cách chỗ họ mười mấy bước, có một con mãng xà đen, thân hình to như thùng nước. Con mãng xà vắt vẻo trên một thân cây cổ thụ, cuộn thành mấy vòng. Nó thả người từ trên cao xuống, há cái miệng rộng ngoác như cái đấu gạo, đỏ lòm lòm như máu không ngừng hít khí, khi Xuyên Sơn Giáp đi đúng tầm thì bị nó hút ngược từ dưới gốc cây lên giữa không trung rồi nuốt sống vào bụng.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.