Mẹ Katya đã dạy cô về những giấc mơ: Nafsani, là những giấc mơ bắt nguồn từ nỗi sợ hãi và niềm khao khát. Rahmani, những giấc mơ được Chúa trời gửi đến và thường sẽ cho ta biết những mộng cảnh về tương lai. Còn shaytani, đó là những giấc mơ xuất phát từ điều xấu xa.
Khi còn nhỏ cô thường hỏi mẹ liệu mơ thấy những lời tiên đoán có phải là điều báng bổ thánh thần hay không, và mẹ cô trả lời rằng giải nghĩa giấc mơ không giống như một lời tiên đoán. Điều đó không chống lại Hồi giáo. Chẳng phải Joseph, con trai của Jacob đã thành công khi giải nghĩa những giấc mơ của vị vua vô danh đó sao? Vậy giấc mơ của Katya, bà hỏi, giấc mơ đó là gì mà khiến cô buồn rầu đến vậy?
Katya nói Thánh lý dạy rằng điều quan trọng là không nói ra những giấc mơ xấu của mình, nếu chúng xuất phát từ những điều xấu. Nhưng mẹ cô đã đáp lại bằng một Thánh lý nói rằng người ta chỉ nên nói với một người, đó là người thân thiết nhất và là người họ tin tưởng nhất. Katya nghĩ Thánh lý của mẹ nghe có vẻ hợp lý hơn của mình.
Do vậy họ ngồi xuống và thống nhất là giấc mơ bị mất chiếc răng của Katya thực ra là điểm gở. Những chiếc răng được quan niệm là gia đình, “tất cả những chiếc răng được xếp gọn ghẽ trong khoang miệng,” mẹ cô đã nói vậy, “và khi một chiếc rơi ra, điều đó có nghĩa là một người nào đấy sẽ bỏ đi, hoặc sẽ chết.”
“Giấc mơ đó có đáng sợ không con?” Mẹ cô hỏi.
“Không ạ, con không thấy sợ. Chỉ thấy kinh tởm thôi.”
“Thế nó là chiếc răng nào vậy con?”
“Là răng hàm ạ.”
Y như rằng, một tuần sau đấy, ông cậu Ramzi của Katya chết ở Li-băng, và những giấc mơ kia cũng chấm dứt.
Đã nhiều năm rồi Katya không còn nhớ chuyện đó nữa. Nó khác biệt hoàn toàn với những giấc mơ của cô giống như sự tiên đoán chính xác. Hoặc có lẽ là khi mẹ mất, cô không biết làm thế nào để giải nghĩa những giấc mơ nữa.
Cô đang ở nhà, ngồi bên chiếc bàn bếp có mặt bằng formica trên bốn chân kim loại, bâng quơ với những kỷ niệm thời thơ ấu. Ti-vi vẫn mở, nhưng để lặng tiếng, trên chiếc giá trước mặt cô. Hôm đó là thứ Bảy, và Abu đã đi đến lễ cầu nguyện tối với bạn của ông. Khi ông vừa đóng cửa ra ngoài, cô lôi từ trong ba-lô ra một tập tài liệu và gạt ra những tấm ảnh.
Ngay trước khi rời khỏi phòng làm việc, cô đã thu hết can đảm để lẻn vào phòng thí nghiệm của Majdi và sao lại những bức ảnh khu mộ chôn. Chúng được photo, nhưng cũng đủ rõ. Cô cũng chụp lại bản đồ những vị trí tìm được của từng thi thể ở khu mộ đó. Giờ thì cô dọn sạch bàn bếp và đặt những bức ảnh lên như thể chúng hiện ra dưới con mắt một con chim đang nhìn xuống sa mạc.
Chiếc bàn không đủ rộng. Cô cần một diện tích rộng gấp năm lần thế. Tốt hơn hết, cô nên treo chúng lên bờ tường. Hẳn cô đã làm thế trong phòng thí nghiệm, nhưng ở đó cũng không có đủ không gian như ở nhà – có quá nhiều giá và lỗ thông khí của điều hòa nhiệt độ. Phòng ngủ của cô cũng vậy thôi. Có một bức tường rất lớn trong phòng khách, nhưng cô không muốn chưng những hình ảnh về xác chết ở đó khi rất có thể bố cô sẽ đưa bạn từ nhà thờ về nhà. Họ chưa bao giờ có phòng khách cho nữ cả, đó chính là nhà bếp, mà bếp thì lại quá nhỏ và bề bộn.
Điểu gì là sự khác biệt giữa mộng tưởng và giấc mơ? Charlie nói về mộng tưởng của tên sát nhân, như những giấc mơ – tất nhiên là loại shaytani rồi. Chính Katya cũng có rất nhiều giấc mơ như thế. Nhưng Charlie đã mô tả nó như một thứ lớn hơn thế, một kiểu anh hùng ca tái diễn lại những shaytani có tồn tại trong đời sống thực nữa, chỉ có khác biệt là nó nặng về mưu cầu cá nhân. Hãy tìm những quy luật, Charlie đã nói với cô trong bữa ăn trưa như vậy. Với một tên giết người có tổ chức như tên này, hẳn sẽ có quy luật.
Katya tiếp tục đặt ảnh lên bàn. Cô không biết sẽ phải bắt đầu tìm kiếm quy luật bằng cách nào nhưng chỉ đoán rằng bước đầu tiên là phải hiểu suy nghĩ của tên sát nhân đó, và vì vậy, cô cần một tấm bản đồ.
Ayman bước vào bếp với vẻ buồn ngủ. Cậu nhấc ấm trà từ trong bồn lên và đổ nước vào.
“Em tưởng chị định đi mua sắm cơ mà.” Cậu nói.
Katya bật dậy khỏi ghế. “Allah, chị quên mất!” Cô gạt những bức ảnh vào tập tài liệu và nhìn đồng hồ đeo tay. Đáng lẽ cô phải gặp Nayir từ nửa giờ trước rồi. “Ôi trời ơi, chị muộn quá rồi!”
“Chị cần chở đi không?”
“Có!”
Ayman đặt âm trà xuống và đi ra cửa.
Đoạn tin tức quả thật kinh hoàng. Mọi người đều xem nó với cảm giác hoài nghi ớn lạnh. Không phải vì họ chưa từng thấy những cảnh bạo lực, hay chưa thấy một phụ nữ với khuôn mặt bị rách nát, bị bỏng và bị đánh như vậy. Tất nhiên chuyện đó tác động đến tất cả mọi người, nhưng điều thực sự khiến họ khó chịu là cuộc phỏng vấn gọn ghẽ với người bị cho là có liên quan đến vụ án. Bà ta ngồi im lặng trong một căn phòng ngập tràn ánh nắng cùng hai đứa con trai ở hai bên, với dáng vẻ của một bà nội trợ Ả Rập Xê-Út hoàn hảo, tấm khăn che mặt trang nhã buông phủ trước mặt, đôi mắt đen u sầu trước sự dò xét của máy quay phim. Bằng giọng dịu dàng bà ta giải trình rằng mình không bao giờ làm hại cô giúp việc. Bà ta coi cô gái đó như chị em của mình. Chính cô giúp việc đó – người đã bị đánh đập và khuôn mặt bỏng nát sẽ không bao giờ trông giống con người được nữa – cô ta đã tự mình gây ra những điều ấy.
Katya đang đứng trong phòng thay đồ của hiệu áo cưới trong bộ váy sáng màu ngà voi. Hai phụ nữ Philippines phía sau cô đang nhặng xị cả lên, và người chủ hiệu váy tên là Jo đang đỡ phần đuôi váy.
“Con điếm khôn nạn.” Jo lẩm bẩm trước TV. Những phụ nữ này tin Katya, nhưng một cô gái liếc nhìn cô, lo là cô có thể khó chịu trước những từ ngữ đó.
“Đính nó lại.” Jo đẩy phần đuôi váy sang cho một cô gái rồi bò ra khỏi phòng.
Không khí có phần thoải mái hơn, và đôi tay các cô gái đều bận bịu. Đã mấy hôm rồi Katya không xem tin tức. Hết vụ điều tra về Sabria rồi đến vụ Thiên sứ, công việc đã chiếm lĩnh mọi suy nghĩ của cô, có thể là vì cô đang lảng tránh việc nghĩ ngợi về đám cưới. Ngay cả khi cô và Nayir ngồi trong chiếc Rover ra ngoài sa mạc, câu chuyện lúc nào cũng là về công việc của cô.
Cô nghĩ, nếu là một đám cưới Ả Rập thực sự, thì điều trước tiên họ cần làm là tìm hội trường cưới. Một hội trường cho nam giới, và một hội trường lớn hơn cho nữ giới. Hội trường cưới của cô sẽ phải thoáng rộng: có sân khâu, có lối đi, bàn ăn cho một nghìn người. Thảm trải màu hồng, chúc đài bằng vàng, hoa trắng tràn ngập khắp mọi nơi. Cô không biết hội trường của nam giới trông sẽ thế nào – thực tế là cô chưa từng vào hội trường nam giới nào cả – nhưng chắc nó cũng giống với hội trường của nữ thôi. Cô đã gặp vị hôn phu của mình lần đầu ở một đám cưới. Othman đã kể với cô về những chiến binh Bedouin nhảy múa với thanh kiếm trong tay, và chú rể ngồi trên ngai vàng, hơi cổ lỗ xỉ, rồi nhận lời chúc từ tất cả mọi người: “Anh sẽ làm nhiều tiền, cô ấy sẽ sinh nhiều con.”
Bên nữ thì ít nghi thức hơn. Mọi người chúc mừng cô dâu, nhưng các bà mẹ và những phụ nữ lớn tuổi sẽ đi khắp hội trường để điều tra kỹ các cô gái độc thân. Con trai họ sẽ không được phép gặp gỡ những cô gái này trước khi kết hôn, nhưng các bà mẹ thì được phép, và họ sẽ điều tra kỹ càng và mong tìm được những đối tượng phù hợp với con trai mình – hay, nói đúng ra, là những đối tượng phù hợp với chính họ. Nếu gia đình bị phân tán, những phụ nữ đó sẽ dành thời gian với nhau nhiều hơn là với chồng mình. Katya chưa bao giờ qua được những cuộc kiểm tra như vậy. Cô quá trầm tính và giản dị. Cô chẳng bao giờ hứng thú với những chiếc váy lộng lẫy, và cô không có thời gian mà cũng không muốn dành cả một ngày trời chỉ để chải chuốt. Cô cũng không có đủ đồ trang điểm nữa kia.
Cô và Nayir đã thống nhất sẽ có một đám cưới nhỏ gọn và giản dị. Hơn nữa, một người không có họ hàng đông đến mức cần có hội trường cưới. Với lại Nayir muốn được lo tìm địa điểm. Việc chủ yếu của Katya chỉ là chọn váy cưới.
Nếu đây là một đám cưới Ả Rập thực sự, cô nghĩ, thì gia đình mình đã ở đây lúc này. Mẹ, các chị em gái và chị em họ. Mọi người sẽ giúp mình chọn trang phục cho ngày trọng đại nhất của cuộc đời mình.
Năm phút sau, Jo trở lại phòng. Cô ta nói với Katya: “Tôi xin lỗi. Chỉ là tôi không chịu được cảnh đó.” Cô ta ra hiệu về phía ti-vi. “Chuyện đó chẳng bao giờ chấm dứt cả.”
“Nó thật kinh khủng.” Katya không muốn nói với cô ta rằng có những thứ còn tồi tệ hơn đánh đập rất nhiều. Rằng theo hồ sơ của cảnh sát, gần 60 phần trăm những nạn nhân bị giết hại không nhận dạng được là những phụ nữ giúp việc. Và mới vừa rồi họ đã tìm được mười chín người như thế.
“Màu này rất hợp với cô.” Jo nói. “Cô thử nhìn xem.”
Katya xoay người ngắm mình trong gương. “Tôi thích màu này.” Cô nói. “Nhưng phần ngực rườm rà quá.”
Jo gật đầu và trở vào phòng thay đồ dự phòng, nơi treo hàng tá váy khác.
Giữa chừng thử chiếc váy thứ tư và thứ năm, Katya lén đến bên cửa sổ trước nhìn ra phố, được che bởi một tấm rèm đen nặng trĩu. Cô kéo rèm và ngó ra ngoài.
Trời đã tối và khu vực mua sắm bên ngoài sáng trưng với hàng trăm ngọn đèn dây màu vàng và một chiếc đèn lồng hình ngôi sao khổng lồ. Đứng ngay dưới chiếc đèn lồng đó, Nayir và Ayman đang uống nước quả ép và trò chuyện. Ayman nói điều gì đó khiến cho Nayir ngả đầu về phía sau cười ngặt nghẽo. Quả là trời định. Ayman là người em họ tốt nhất mà cô có thể ước mình có được.
Hạ tấm rèm và bước trở vào, Katya cảm thấy nhói lên… Sự đố kỵ? Hay buồn nhỉ? Cô chưa bao giờ có thể làm Nayir cười được như thế. Với cô, anh lúc nào cũng tế nhị và chở che.
Đã một giờ đồng hổ, hết thay ra rồi lại thử vào những chiếc váy khác nhau. Katya đáng ra thích thú với việc đó, nhưng sự giận dữ của Jo khiến cô kiềm chế cảm xúc. Mấy cô gái giờ đã im lặng. Katya gạt bỏ tâm trạng và lắng nghe khi Jo bắt đầu tâm sự những suy nghĩ giày vò của mình. Chuyện xảy ra hồi đầu năm, có vẻ là một vụ tự tử. Một cô giúp việc định treo cổ, một người khác thì uống thuốc tẩy, người thứ ba thì nhảy từ nóc tòa nhà xuống. Không kinh khủng như vụ người phụ nữ bị chủ đóng hai mươi tư chiếc đinh nóng vào mặt, vào hai bàn tay và hai cánh tay (chuyện đó xảy ra vào tháng Tám từ một năm trước). Hay vụ một cô gái ở Abha bị chủ nhà đánh đập, gây bỏng, rồi nhốt lại và cắt đứt hai môi (vào tháng Mười một.) Đó là chưa kể đến vụ hai xác chết không nhận diện được được tìm thấy vào tháng sau đó (có được đưa trên bản tin).
Vào tháng Một, câu chuyện có phần khác đi – và nó tạo cho Jo ít nhiều hy vọng, tuy muộn nhưng là có hy vọng. Một phụ nữ Ả Rập đã bị kết án ba năm tù vì hành vi bạo lực đối với cô gái trong vụ xảy ra vào tháng Mười một. Nhờ có bộ luật mới được thông qua, việc bỏ tù người phụ nữ đó cuối cùng đã được thi hành.
Nhưng chỉ vài tuần sau, một người giúp việc khác bị bắt vì sử dụng “tà phép” đối với chủ nhà và gia đình ông ta – hay ít nhất là do người chủ khai báo như vậy (xảy ra vào tháng Hai). Rồi thì cô gái nhảy từ ban-công tầng ba để chạy trốn gia đình đó đã được tìm thấy trong tình trạng bị đánh đập dã man và bị gây bỏng (vụ tháng Ba). Jo đã đánh dấu các tháng còn lại, cho đến sự việc đột ngột trong tin tức của tối hôm nay: vụ tháng Mười.
Katya chưa từng biết người giúp việc bất hạnh nào. Làm việc quá tải và kiệt sức, tất nhiên, bị phiền nhiễu bởi lũ trẻ ồn ào, hẳn rổi. Nhưng bị ngược đãi? Không hề. Và cho đến hôm nay, mỗi người giúp việc cô biết đều đã chết hay bị tổn hại sâu sắc hoặc cả hai. Cô tự nhủ rằng có thể do cô làm việc trong ngành cảnh sát.
Dần dần, những lời đả kích của Jo mở rộng phạm vi; không chỉ còn bó gọn trong những vụ án ở trên, cô ta bắt đầu đổ tội cho cả đất nước.
“Người ta để đám đàn ông chỉ bảo những người phụ nữ của họ từng việc được và không được phép làm. Đám ông chủ cũng giống vậy. Họ được phép nói với người giúp việc bất cứ điều gì, và cô ta phải thực hiện điều đó!”
Katya nhận ra sự im lặng của cô đang bị hiểu lầm là đồng tình. Cô muốn rời khỏi đây. Cô không còn muốn mua váy nữa – đằng nào thì cũng không tìm được chiếc nào ưng ý ở đây cả.
Cô nhìn đồng hồ đeo tay. “Ôi không, tôi phải đi rồi! Em họ tôi sẽ nổi cáu mất.”
Cả ba người phụ nữ nhìn cô thất vọng. Có phải cô ta cũng chỉ đơn giản là một phụ nữ bị kiểm soát chăng?
Katya thay đồ rồi trùm áo lên. “Cảm ơn rất nhiều vì đã dành thời gian cho tôi.” Cô nói rồi hối hả chạy ào ra cửa.
Nayir bước chậm rãi hết mức để hưởng thụ từng phút giây ở bên cô. Ayman đã đi đâu đó nói chuyện điện thoại, và giờ thì chỉ có Nayir ở bên cô. Những khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong mối quan hệ của họ cho tới giờ đều diễn ra trong những lần đi dạo như thế này trên đường Comiche. Thậm chí anh đã cầu hôn tại một nhà hàng cách đây không xa.
Trời đã tối, nhưng đối với người Jeddah thì thực ra là ngày mới đang bắt đầu. Trời rốt cuộc cũng mát mẻ để có thể ra ngoài. Đối với Nayir, màn đêm đã phủ thêm một tấm màn riêng tư. Không có ánh mặt trời rọi qua tấm áo choàng của một người con gái và vẽ nên hình dáng. Không còn ánh sáng soi rõ những gương mặt để lộ mà phụ nữ dường như ngày càng thích thú hơn. Và phụ nữ đã hoàn toàn bỏ khăn trùm đầu – từ xa trông như thể mái tóc của họ chính là mạng che mặt. Ngày nay việc các gia đình cắm trại ở hai bên đường cùng với những cô con gái ở tuổi thành niên, thoải mái nô đùa trong quần jeans áo phông, tác phong mang vẻ nam tính như anh em trai của họ – thậm chí còn để tóc ngắn, đã phổ biến hơn nhiều. Cảm giác xâm lấn anh trước tất cả những điều đó là một sự mất mát và một nỗi buồn không thể diễn đạt được.
Anh để mặc cảm giác đó trôi qua trong tiếng thở dài, và nó cuốn đi như một đám mây mỏng manh trên nền trời thăm thẳm. Anh sắp làm đám cưới với người phụ nữ xinh đẹp này, người đang sánh bước cạnh anh. Anh sẽ sớm được thực hiện điều mà cơ thể anh hằng mong ước được làm từ lần đầu tiên anh gặp cô: bế bổng cô lên như một thứ nhỏ bé và hôn khuôn mặt cô hàng trăm lần, cuộn mình quanh thân thể cô, trần truồng và ngập tràn hạnh phúc. Anh cảm nhận được hơi ấm từ mái tóc và cổ của cô khi dạo bước bên cô, mỗi một mảnh vụn li ti trong con người anh đều cảm thấy được thắp sáng như một vì sao.
Một phần quá lớn của cuộc đời anh lúc này với anh dường như đã xa lạ. Sau khi cô nhận lời cầu hôn của anh, trên chiếc thuyền vào ngày hôm đó, anh đã đi xuống dưới khoang và tất cả mọi thứ trong con thuyền đã gắn bó với cuộc sống của anh trong bao nhiêu năm qua dường như đã khác biệt – bé nhỏ và ẩm ướt, ngập đầy những đồ tạo tác từ những giấc mơ đã chết từ lâu. Những bản đồ và bản hướng dẫn hàng hải còn sót lại từ giấc mộng một mình du thuyền vòng quanh thế giới của anh. Những tấm danh thiếp của những người đàn ông ở chợ lạc đà – một lời nhắc nhở rằng anh đã từng muốn mua lạc đà và dành hàng tháng trời rong ruổi trên sa mạc với những người Bedouin. Thật bất ngờ khi anh đã dễ dàng chấp nhận sự ra đi của những giấc mơ đó đến mức nào. Và hiện tại anh háo hức được đón chào điều mới mẻ. Được ký giấy đăng ký kết hôn. Được biến nó trở thành sự thật. Sự cấp bách này cũng bị thúc giục bởi những kỷ niệm về Fatimah, người đã khiến anh tan nát đến tận con tim và đã gạt anh sang bên. Anh kinh hãi khi nghĩ đên lần đính hôn này liệu có kết thúc tương tự vậy chăng: đột ngột và điên cuồng đên bất lực. Duy chỉ có điều này là đau đớn hơn. Anh đã tận tâm tận sức hơn rất nhiều. Nỗi sợ hãi đều đều gõ tiếng từ sâu thẳm cõi lòng anh, đôi lúc lại đập liên hồi như đôi cánh của loài chim ruồi, và anh nuốt nó vào thật sâu, nén giữ nó lại. Hãy tránh xa niềm hạnh phúc đang bừng nở trong trái tim ta.
Vấn đề là, khi tất cả đều tốt đẹp thì chúng lấp lánh sáng hơn bao giờ hết, nhưng khi tất cả những điều tồi tệ ập đến thì mang theo sự choáng váng kinh hoàng. Anh không hề biêt sự ghen tuông phải trả giá đến vậy. Nó có thể khiến trái tim anh ngừng đập. Khi Katya nói về công việc, anh đã cố an ủi chính mình với mục đích tốt đẹp của công việc cô đang làm cho xã hội, nhưng cùng lúc ấy anh gần như chết điếng bởi ý nghĩ về những người đàn ông mà cô tiếp xúc, những người đã thấy được khuôn mặt cô, đã có được toàn bộ thời gian ở bên cô trong khi anh không thể. Quỳ gối trong thánh điện, anh đã quên mất hoàn toàn những lời cầu nguyện khi bị phân tâm bởi sự căm ghét đối với những gã đàn ông đó. Anh nghĩ về tất cả những kẻ đó: những gã chồm ra khỏi ô-tô của chúng để tấn công phụ nữ đi trên phố. Những gã lẻn vào các khu mua sắm dành cho phụ nữ với trang phục giả nữ để có thể làm hại những cô gái. Những kẻ đã gửi hình ảnh trần truồng của mình bằng điện thoại di động qua Bluetooth trong bán kính hai mươi mét; khoe khoang những tấm ngực trần, như thể đám lông vũ phô trương của con công đực. Anh cố kiềm chế sự giận dữ. Khi bình tâm trở lại, anh khẩn cầu cho lòng vị tha, cầu nguyện rằng dù những cám dỗ tầm thường đó có đến trước mặt cô, Katya vẫn yêu anh với trọn vẹn sự đam mê trong tâm tưởng.
“Em cần một bức tường.” Cô nói.
“Em nói sao?”
“Một bức tường lớn và trống.” Cô thở hắt ra, còn anh thì trộm nhìn gương mặt cô. Nó có vẻ ưu tư và ương bướng. “Em đã phải cố mới lấy được những bản chụp lại của tất cả những bức ảnh xác chết. Có mười chín thi thể tất cả, anh còn nhớ chứ? Em cần một chỗ để treo chúng lên theo những vị trí mà chúng được tìm thấy.”
Anh muốn hỏi cô tại sao các điều tra viên vẫn chưa làm việc đó. Nhưng hiển nhiên họ không muốn những bức ảnh chụp thân thể trần truồng của những phụ nữ đó bị trưng lên tường của họ nếu việc đó không thực sự là cần thiết. Và có lẽ nó chẳng cần thiết.
“Majdi – anh có nhớ anh ta không? Đó là đội trưởng đội pháp y. Anh đã gặp anh ta một lần rồi đấy. Anh ta đã lập được một mô hình về hiện trường theo đúng những đặc điểm về địa lý.” Cô nói. “Nhưng nó có vẻ đơn giản và vô nghĩa. Em nghĩ tốt nhất là nên làm việc này theo phương pháp cũ.”
Anh cố bắt nhịp câu chuyện. Còn ai lý tưởng hơn trong việc xem xét ảnh về cơ thể phụ nữ như một phụ nữ chứ? “Anh có một bức tường cho em đây.” Anh nói.
Cô lập tức lắc đầu. “Con thuyền của anh nhỏ quá.”
“Anh đang nghĩ đến nhà chú anh cơ.”
“Ổ. Ý tưởng thật tuyệt, nhưng chúng ta không thể làm vậy. Đó là những bức đồ họa về xác chết của phụ nữ. Có khi chính anh cũng không muốn nhìn chúng ấy chứ.”
“Đó không phải là vấn đề với anh hay chú của anh.” Anh nói. “Bọn anh sẽ không xem ảnh nếu đó là điều em muốn.”
“Không, không, không phải vậy.,,”
“Vậy là chúng ta có bức tường rồi nhé.”
Một giờ sau, họ đã đứng trong tầng hầm nhà Samir.
Katya chưa gặp Samir bao giờ. Mặc dù ông là người thân duy nhất của Nayir, nhưng cô không được nghe nhiều về ông ngoại trừ việc ông đã tự mình nuôi nấng Nayir, mà không có sự giúp đỡ của một phụ nữ nào. Có lẽ đó là lý do khiến ông có vẻ bí ẩn. Ông đã nấu ăn sao? Rồi thay tã nữa? Hát ru và đọc truyện rồi bế ẵm Nayir khi anh khóc? Cô hình dung đến một người đàn ông mũm mĩm và nữ tính, ngày nào cũng ngồi trên chiếc ghế sô-pha tồi tàn xem truyền hình, mặc áo choàng ở nhà đã mặc suốt ba mươi năm qua.
Samir thực ra lại là một người chắc khỏe nhưng duyên dáng. Ông đi giày lười bằng da màu sáng, mặc vét, đeo cà-vát lớn màu xanh lá cây thẫm ngay dưới cổ áo. Khi họ đến nhà ông đã gần chín giờ, và ông mở cửa với vẻ giống một người quản gia, mái tóc hoa râm của ông ánh lên dưới ngọn đèn vàng của khách sảnh.
Ông mỉm cười với Katya một cách chừng mực nhưng có phần rạng rỡ với sự hào hứng sâu kín. Ông chào đón cả ba người rồi bảo Nayir đi pha trà và lấy quả chà là trong khi ông dẫn khách đến chỗ bức tường trống.
Samir cũng là một nhà hóa học giông bố của cô, nhưng bố cô thì dành cả đời làm việc trong các nhà máy và trường đại học, còn Samir làm việc độc lập. Ông làm việc ở tầng hầm, tham gia vào các dự án tự do của các nhà khảo cổ và đôi khi là các nhà sử học, tự thực hiện nghiên cứu về những lĩnh vực ông yêu thích, còn chi tiết công việc thì ông đảm bảo với Katya là rất tẻ nhạt. Ông đặt các trang thiết bị của mình trong phòng thí nghiệm dưới tầng hầm. Katya và Ayman đang đứng ở đó.
Căn phòng sáng sủa và rộng rãi, không khí thoáng mát dễ chịu. Ayman cười tươi.
“Liệu thế này đã đủ rộng cho những bức ảnh của cháu chưa?” Samir ra hiệu về phía bức tường cuối nhà.
“Quá đủ ấy chứ ạ.” Cô nói. “Tuy vậy, có lẽ cháu nên tự mình làm việc này. Những hình ảnh này là đồ họa.”
“Được, được, tôi cũng từng xem các bức ảnh hiện trường rổi. Tôi thậm chí còn tự khai quật tử thi rồi, tại các khu khai quật khảo cổ học. Tôi hiểu sẽ thấy những gì mà. Trừ phi cháu muốn chúng tôi rời đi?”
“Không ạ, mọi người có thể ở lại. Cháu chỉ muốn cảnh báo trước thôi ạ.”
“Không sao, cháu đừng lo. Tôi không làm phiền đâu, và tôi rất hân hạnh được trợ giúp cháu. Càng thêm mắt nhìn sẽ càng sáng rõ mà.” Samir liếc nhìn Ayman lúc này đang nhún vai một cách niềm nở, cố tỏ vẻ là người lớn. Cậu đang mong đợi Katya sẽ không buộc cậu phải rời khỏi đây. Cậu mới mười chín tuổi và phải chịu trách nhiệm trước bố của Katya về những nơi mà cô đến.
Katya lấy ảnh trong túi xách và bắt đầu treo chúng lên. Samir quan sát mọi việc và hướng dẫn cô bằng tâm bản đồ. Khi Nayir bước vào với khay trà trên tay cũng là lúc họ hoàn thành bức ảnh cuối cùng. Vẻ thất thần không tả nổi trên gương mặt anh khiến Katya thấy xấu hổ.
“Em xin lỗi.” Cô nói. “Có lẽ em nên báo trước với anh là mọi người đang treo ảnh lên.”
“Không sao đâu.” Anh đáp và đặt khay trà lên chiếc ghếbăng. ít ra thì anh đã không nói Anh sẽ giữ ánh nhìn của mình thật trong sáng. Đã bao nhiêu lần cô nghe cái câu nói nực cười đó rồi nhỉ? Nó có nghĩa là một người đàn ông có thể nhìn thấy một thứ khiêm nhã – canh tay trần của phụ nữ, mái tóc, chiếc cổ của cô ta – và lựa chọn không nhìn bởi tâm trí anh ta trong sáng.
Khi ảnh đã được treo lên, Katya cảm thấy thật lố bịch. Giờ thì sao đây?
Cô đã nhận ra qua tấm bản đồ rằng các thi thể được chôn theo vòng tròn, mười hai cái xác ở vòng ngoài và bảy cái ở vòng trong.
“Vậy là nó theo hình vòng tròn.” Ayman nói.
“Theo đúng thuật ngữ thì đó là một hình lục giác.” Samir đáp lời “Thực ra là, một hình lục giác được cấu tạo rất chuẩn mực.”
“Điều đó có nghĩa gì không ạ?” Ayman hỏi.
“Tôi không rõ nữa.” Saymir nói. “Cô nghĩ sao?”
Katya liếc nhìn Nayir. Anh đang chăm chú nhìn các bức ảnh vói vẻ kinh hãi lặng lẽ.
“Nó theo hình tổ ong phải không ạ?” Ayman hỏi.
“Hmm, đúng vậy.”
Bọn họ đều im lặng. Katya nhận ra là mình không thực sự quá cần một bức tường nhiều như là cần một đội điều tra hiện trường đã quen thuộc với vụ án này.
“Những dấu gạch chéo này trên bản đồ có nghĩa gì vậy?” Samir hỏi.
“Những chỗ đó là địa điểm họ tìm được các bàn tay.” Katya nói. “Các bàn tay của nạn nhân đã bị chặt rời.”
“Chỉ có ba thôi sao?” Samir hỏi.
“Không, các nạn nhân đều bị chặt tay, nhưng chỉ có ba bàn tay được tìm thấy ở hiện trường.”
“Thế còn các bàn tay khác thì sao, chúng ở đâu vậy?”
“Chúng cháu không biết.”
Samir lấy chiếc bút màu từ cái lọ đặt trên bàn và đánh dấu gạch chéo nhỏ vào mỗi bức ảnh chụp nơi họ tìm thấy những bàn tay đó.
“Nhưng việc chỉ chôn có ba bàn tay mới kỳ quái làm sao!” Samir vừa nói vừa nhìn bản đồ.
Sự im lặng thậm chí còn nặng nề hơn. Nayir đã rót trà cho mọi người và là người duy nhất nâng tách trà lên. Anh tựa vào bàn và nhấp một ngụm trà.
“Những cái xác đó.” Anh nói. Mọi người đều quay sang nhìn. Thật bất ngờ khi anh lên tiếng. “Chúng có tư thế thật kỳ quái.”
“Như thể tên giết người đã ném họ vào đó vậy.” Katya nói.
“Như vậy là tên giết người đã phải mất rất nhiều thời gian để vẽ ra mô hình chôn xác lục giác đó, và rồi hắn chỉ ném xác vào huyệt hay sao?” Nayir hỏi. “Chúng đều được chôn ở những tư thế rất lung tung.”
“Cháu nói đúng.” Samir nói. “Điều này thật kỳ quặc” Ông quay sang phía bức tường và Nayir đứng lên, cả hai có vẻ đã có kết luận cùng một lúc. “Có thể nào lại như vậy chăng?” Samir nói.
Nayir đặt tách trà lên bàn, nhận chiếc bút từ Samir và bước đến chỗ bức tường. “Có quy luật. Em có thấy nó không?”
Katya chăm chú nhìn những bức ảnh. “Không. Là gì vậy ạ?”
Anh bắt đầu từ góc trên bên tay phải. Phía dưới cái xác anh vẽ một hình đơn giản.
ب
Đó là chữ B. Nó cũng chính là tư thế mà cái xác được chôn, với đầu và hai chân hơi đưa về phía trước. Cái chấm phía dưới chính là nơi tìm được bàn tay.
“Ôi trời ơi.” Katya khẽ thốt lên. “Không thể nào.”
Nayir lại tiếp tục vẽ. Ở bức ảnh tiếp theo phía bên trái, anh viết chữ S.
س
Anh viết nó mà không có nét móc bên trái vì nó tiếp nối với chữ cái tiếp theo, M.
م
Nhìn từ trên cao xuống, cái xác này được chôn với phần thân người cong sang phải, hai cánh tay cuộn trước ngực để biểu đạt một chữ M.
Anh viết tiếp các chữ cái cho toàn bộ các bức ảnh, nhưng họ đã nhận ra câu nói đó là gì. Nó thân thuộc với họ như chính hơi thở vậy.
Bism’allah, ar-rahman, ar-rahim.
“Nhân danh đức Allah nhân từ và độ lượng.” Đó là câu nói mở đầu tất cả những bài cầu nguyện.
Katya phải ngồi ngay xuống. Samir, chính ông trông cũng nhợt nhạt, đưa cho cô một tách trà và ngồi xuống bên cạnh cô. Cô có chút hối hận thoáng qua vì đây là buổi gặp mặt đầu tiên của họ. Cô run rẩy nhấp một ngụm trà.
“Thật quái đản.” Samir lẩm bẩm.
Nayir đặt bút xuống và đến bên cạnh chú mình. Ayman thì bất động, ánh mặt cậu còn đang gắn chặt lên bức tường với vẻ sửng sốt.
“Em không nghĩ đây lại là công việc ở cơ quan của chị.” Cậu nói.
“Uống trà đi, chàng trai trẻ.” Samir nói. “Thứ này chẳng phải điều kỳ diệu gì cả. Đó là tội ác, và khi nhìn thấy nó, cậu nên quay mặt đi mới phải.”
Bất ngờ thay, Ayman làm theo. Cậu ngồi xuống bên cạnh Katya và uống tách trà của mình. “Nhưng chị vừa tìm ra được sự kỳ tài điên loạn của hắn, vậy thì sao chứ?” Ayman nói. “Nó chẳng có nghĩa lý gì cả. Hắn nói một câu mà ngày nào chúng ta chẳng nói. Ý em là, sẽ tốt hơn nếu hắn để lại địa chỉ hay thứ gì đó khác.”
Chẳng ai cười cả.
“Cháu xin lỗi về việc này.” Katya lên tiêng. “Đáng lẽ cháu không nên mang những bức ảnh này đến đây.”
“Không có gì phải xin lỗi, cháu à.” Samir đáp lại và vỗ về cánh tay cô. “Nayir đã tìm được lời giải giúp cháu rồi. Nó cũng đáng để biết những thách thức cháu phải đối mặt trong công việc chứ. Giờ thì thậm chí chúng ta còn tôn trọng công việc của cháu nhiều hơn trước. Và không một ai ở đây” ông nhìn quanh, “là thiếu quan tâm đến chuyện này cả, ít ra là tất cả những gì liên quan đến cháu.”
Cô khẽ mỉm cười với ông và cố kiềm chế để không nói rằng Ayman đã đúng: tất cả chẳng có nghĩa gì. Chỉ đơn giản là họ đã đẩy lùi tảng đá và nhìn xuống cái quần thể côn trùng lúc nhúc được tạo ra bởi cái trí tuệ tâm thần đó.
Trên đường trở ra xe của Ayman, Nayir nói. “Khi anh phải đối mặt với mọi việc, đặc biệt là việc gì anh không thể hiểu được, anh thấy cách tốt nhất là tìm câu trả lời trong giấc mơ.” Anh chăm chú nhìn cô, ánh nhìn kỳ lạ hiếm thấy đến mức nó khiên cô ngượng ngùng. “Istiqara” Anh nói. “Hãy xin lời giải đáp và Allah sẽ giúp.”
Cô mỉm cười. Cô đã quên mất rằng có đến bốn loại giấc mơ – istiqara. “Có lẽ em sẽ thử.”
“Anh sẽ gửi e-mail lời cầu nguyện cho em.”
Cô cảm ơn anh và ngồi vào xe cạnh Ayman.