Ôi Allah! Con xin khai sáng từ tri thức của Người
Và năng lực từ cội nguồn sức mạnh
Và con xin Người những điều phúc hạnh.
Người có quyền năng, khi con bất lực
Người hiểu biết, còn con bất tri
Người rõ nhất thế giới vô hình.
Ôi Allah! Nếu như Người hiểu được
Rằng điều này là phúc thuận với con
Thì hãy giúp con dễ dàng đón nhận
Và xin Người ban phúc lành cho con.
Nếu Người biết điều này là họa
Vậy xin hãy giúp con lánh xa
Và định đoạt những gì tốt đẹp
Cho con, và thỏa nguyện với con.
Đó là những lòi nguyện cầu tha thiết của Katya trước khi ngủ. Nó đã dẫn cô chìm vào đêm tối day dứt với cái nóng và mồ hôi, tấm khăn trải giường quấn quanh đôi chân cô như sợi dây xích. Nó dẫn cô đến những cái hang tối tăm ở al-Balad, nơi những sinh vật nửa người từ thời kỳ trước khi có loài người được sinh ra bằng máu của những phụ nữ bị sát hại. Chúng xuất hiện, trọn vẹn hình hài, từ lưỡi lửa liếm vào dáng hình còm cõi của của loài efreet, da chúng đen lại, khô cứng, và bong tróc bởi ngọn lửa, đôi mắt chúng vàng rực với ánh nhìn tàn độc và xuyên thấu. Chúng đuổi theo cô trong những ngõ ngách và đốt cháy quần áo của cô. Chúng được sinh ra từ máu của phụ nữ và chúng thèm khát cô. Chúng bao vây cô trong cái ngõ trên phố Falasteen nơi đã tìm thấy bàn tay của Amina, rồi chúng kéo lê cô đang gào thét dọc theo hè phố, những thanh gươm của chúng chặt đứt hai bàn chân cô trước tiên, rồi đến đôi tay, thân xác không còn sức tự vệ của cô bị ném lên những cái xác của không biết bao nhiêu phụ nữ khác nữa. Tất cả phụ nữ ở Jeddah đều nằm chết ở đó. Daher cũng ở đó nữa rồi cả Ibrahim. Họ nói chuyện với nhau. Còn cô thì gào thét, nhưng họ không nghe thấy cô.
Sau đó giấc mơ thay đổi. Cô lạc trong một thế giới núi đồi và mưa gió, bầu trời u ám và những cánh đồng xanh mướt. Cô bị kéo lê trên mặt đất, trên những bụi cây gai. Rồi một con efreet đẩy cô xuông đất sâu, lạnh lẽo, tối tăm, đất nhung nhúc côn trùng từ cái thuở hình dung xa xưa. Những lục địa còn giao cắt nhau để tạo ra chúng, câu chuyện cổ về đất đen. Chúng xô cô xuống đó, nhét đầy đất đen vào miệng cô, cố ấn một nắm đất xuống cổ họng cô, rồi cô choàng tỉnh hổn hển khiếp sợ và lăn lộn trên giường mà khóc.
“Trong câu chuyện người gác cổng và công chúa” Katya nói, “công chúa đã giết bọn efreet, phải không ạ?”
“Đúng rồi.” Bố cô nhìn cô chăm chăm. “Sao con lại hỏi vậy?”
“Đêm qua con đã mơ một bọn efreet đẩy con xuống đất sâu. Nó khiến con nghĩ đến câu chuyện đó.”
“Bố không nhớ là chuyện gì đã xảy ra nữa.” Ông nói. “Ngoại trừ việc con efreet tấn công nàng công chúa bởi người gác cổng đã lẻn xuống hang sâu dưới lòng đất để cứu nàng, và đôi tình nhân kết chuyện bằng một nụ hôn. Đám efreet là những sinh vật đố kỵ.”
“Trong câu chuyện, nàng đã giết chúng.” Katya nói. “Nàng đã đốt chúng thành than.”
Nhưng chi tiết đó cũng không giúp cô thấy khá hơn chút nào về giấc mơ đó.
“Con ổn chứ?” Bố cô hỏi. “Trông con rất nhợt nhạt.”
Cô đi làm với cảm giác khổ sở, không thể rũ bỏ được những tàn dư cuối cùng của đêm hôm trước. Cô khẩn cầu đức Allah, và lũ quỷ lại là kẻ trả lời.
Những con quỷ dữ hiện đại không quá khó để nhận ra. Chúng tự nhận mình mình là những kẻ đạo đức nhất. Chúng sống trong nỗi sợ hãi bị phát hiện ra con người thực sự của chúng.
Đó là ý nghĩ hẹp hòi đầu tiên của Katya khi cô đi ngang qua Abu-Musa ngoài hành lang trên đường đến văn phòng của Ibrahim. Ông ta cau có cúi xuống đất khi cô đi qua. Có thể là ông ta đã cau có nhìn vào mặt cô, nhưng điều đó sẽ là không đứng đắn.
Một trong những lý do mà cô ghét ông ta là bởi ông ta gần giống y chang gã nhân viên bán hàng mà cô từng cho địa chỉ và số điện thoại để chuyển một chiếc bàn làm việc và một chiếc giá sách tới nhà. Hắn ngày nào cũng gọi cho cô trong suốt một tháng trời, đầu tiên thì để lại tin nhắn với lời mời lịch thiệp hỏi cô có muốn gặp hắn rồi cùng ăn tối không. Khi nhận ra cô sẽ không gọi lại, thì hắn để lại những tin nhắn đầy căm hận; quy kết cô là một con điếm, rằng chỉ có bọn gái điếm mới cho đàn ông lạ mặt số điện thoại, và hắn khẳng định cô chỉ xứng được đối xử bằng một cuộc làm tình thô bạo mà thôi. Cô đã phải đổi số điện thoại, và không biết bao nhiêu tháng trời cô sợ phải tự đi ra hoặc đi vào căn hộ của mình.
Cô dừng lại trước cửa văn phòng của Ibrahim. Ông đang đứng phía sau bàn làm việc, vẻ mặt trầm ngâm khó chịu với chồng giấy tờ chất đống trên mặt bàn.
“Vâng, cô Hijazi.” Ông lên tiếng khi trông thấy cô.
Cô bước vào và đặt một tập hồ sơ trên bàn ông. “Tôi xin lỗi khi thêm phần hồ sơ này vào công việc giấy tờ của ông.” Cô nói. “Nhưng việc này rất quan trọng. Tôi đã phát hiện ra nó đêm qua.”
“Chuyện gì vậy?”
Abu-Musa xuất hiện trên ngưỡng cửa phía sau cô. Vẻ mặt ông ta vẫn còn cau có. “Liệu việc cô có mặt ở đây có đứng đắn không hả cô Hijazi?”
Cô lấy làm sửng sốt. Trong tất cả những tháng ngày cô làm việc ở đây, thực tế cô chưa từng bao giờ bị nói là xử sự không đúng mực cả. Nó thường được truyền đạt thông qua các cử chỉ hay ánh mắt và lời cảnh báo khẽ khàng từ sếp của cô, Zainab.
“Cô Hijazi chỉ vừa mang đến một hồ sơ vụ án rất quan trọng.” Ibrahim nói. “Tôi có thể giúp ông được gì chăng?”
“Về mặt chuyên môn thì cô Hijazi thậm chí không nên có mặt trong tòa nhà này nữa kia.” Abu-Musa đáp.
Katya cảm ơn Ibrahim rồi rời khỏi phòng.
Sáng hôm đó cô không làm việc. Cô ngồi trước máy tính, một tay đặt lên con chuột, rồi nhìn chăm chăm vào màn hình. Nếu có ai đi qua phía sau cô, cô nhấn chuột làm ra vẻ mình đang bận rộn, nhưng tâm trí cô mới là thứ duy nhất làm việc.
Mười một giờ cô rời khỏi tòa nhà đi ăn trưa sớm. Cô đã mua một bữa trưa đóng gói, nhưng vẫn chưa thấy đói; cô chỉ muốn đi ra ngoài.
Cô tránh bờ hồ, đi sâu vào thành phố và cô đi như thể có mục đích, ngay cả khi chỉ để đi. Cô đi ngang qua mấy bà mẹ đang chăm sóc con; mấy thanh niên đang tựa vào cửa kính ô-tô cười vang, tiếng nhạc của họ như làm rung cả khung sườn của cô. Mấy ông già đứng trước cửa hiệu của mình hút thuốc và nói chuyện. Trước một quán café, đàn ông đang ngồi trên ghế nhựa xem ti-vi được cắm vào chiếc máy phát điện, bóng mát duy nhất của họ chỉ là một cái cây nhỏ bé. Có hai cô bé ngồi trên hàng rào gỗ ăn trái cây và cùng nhau thì thầm vào một chiếc điện thoại di động. Khi một chàng trai tiến đến chỗ họ, một cô bé ném quả nho về phía anh ta và huýt gió, và anh ta quay lại, mặt đỏ bừng.
Nắng rát bỏng khuôn mặt cô, hơi nóng bao bọc lấy cô khi những âm thanh đường phố và tiêng nói cười cuối cùng đã xóa bỏ những mảnh ký ức cuối cùng về giấc mơ trong tâm tưởng cô. Ở đây không có cái chết, không có máu đổ và không có efreet. Nhưng có điều gì đó vẫn day dứt trong ý thức của cô. Amina al-Fouad. Cái ngõ ây. Bàn tay bị chặt ấy. Và cô rõ ràng đã thấy điều gì đó. Điều gì đó phi lý và phù du. Cô dừng bước, nắm giữ chặt lấy điều ấy, rồi vội vã quay trở lại hướng nhà ga. Cô bắt đầu hối hả. Tất cả đã trở nên rõ ràng bởi cô không tin Chúa để cho quỷ dữ lên tiếng trả lời cô trừ phi quỷ dữ muốn nói điều gì đó.
Một trong những lý do Ibrahim rời Đội Điệp vụ là ông ghét làm việc trong một phòng ban mà không có việc gì được hoàn thành cả. Có cả một chuỗi hoạt động, anh chuẩn bị các điệp viên của mình, rồi anh điều họ tới thực hiện nhiệm vụ và anh chờ đợi. Hàng tuần. Hàng tháng. Gạt mọi giấy tờ sang bên và theo dõi tình hình. Nhưng anh lại chính là gã chăn cừu trong khi lũ cừu của anh chạy tới nô đùa với sói, rồi anh hát một khúc ballad cô đơn bên đống lửa trại và tự nhủ mọi việc đều nằm trong tầm kiểm soát. Anh chẳng biết chuyện gì, chẳng thấy chuyện gì, nhưng từng tin tức một thỉnh thoảng lại được báo về, và anh sẽ ăn mừng hoặc khóc lóc. Cuối cùng thì, công việc đó cũng khiến ông chán nản như chuyện gia đình của mình vậy.
Không có gã chăn cừu nào ở Đội Trọng án hết, chỉ có những người Bedouin truyền thống tốt bụng tụ họp với nhau, thành lập những liên kết, và thề rằng sẽ bảo vệ nhau trước sự khắc nghiệt khôn tả của thế giới này. Tất nhiên cũng có người kình địch, nhưng cái chết ở đây quá gần, và tất cả những con đường người ta đi đều phải đề phòng nó. Hãy tự bảo vệ mình. Hãy di chuyển chậm chạp. Hãy đi theo lối cũ của các bậc cha anh và những bài học của những người đã ngã xuống để mà khôn ngoan.
Chỉ có lúc này ông bắt đầu cảm thấy có điều gì đó khó chịu trong tình thân ấy. Nó khuyến khích sự thân thiết nhưng không chào đón sự đổi mới. Người đang thực hiện nhiệm vụ tốt nhất trong vụ án này lại là một phụ nữ đứng ngoài vòng lửa trại, nhìn vào với sự mong mỏi, mà nếu được thỏa mãn, có thể cũng bóp nghẹt cả cô.
Đội điều tra quá hăng hái. Ông chỉ cần nói rằng họ đang nhóm họp, thì những lời đồn đại đã lan ra khắp nơi. Đã có một bước đột phá trong vụ án này! Họ có thể dừng công việc vất vả này lại và làm việc gì đó quan trọng! Thậm chí ai đó trong số họ có thể bị bắn khi tóm cổ tên giết người! Tiến sĩ Becker đã nói vói họ hàng chục lần rằng sẽ mất nhiều năm để tóm được tên hung thủ này, nhưng chẳng ai tin cô.
Một lần nữa Mu’tazz lại đứng ở phía cuối căn phòng, khoanh tay lại với vẻ chua chát trên nét mặt. Ibrahim ghét phải thừa nhận rằng Mu’tazz khiến ông lo lắng. Tuy cảm thấy ông đã giành thế thượng phong trong buổi họp lần trước, những mỗi cử chỉ phản đối trên gương mặt người đàn ông đó đều gay gắt với ông như thể ai đó đang hét lên qua một chiếc loa pin.
Tiến sĩ Becker xuất hiện với chiếc áo choàng đen bên ngoài trang phục nhưng vẫn không mang khăn trùm đầu. Bọn họ đang dần thị uy với cô. Ibrahim thấy an tâm khi cô vẫn ở đây, mặc dù trông cô không có vẻ gì là vui vẻ cả.
Chiếc bảng trắng không đủ lớn, nên những bức ảnh của mười chín nạn nhân được treo trên tường. Majdi đã treo chúng lên đó, vói sự hỗ trợ của Katya. Cô đang đứng ở vị trí mọi khi của mình bên bậu cửa. Chờ đợi để tháo chạy, Ibrahim nghĩ vậy.
Khi tất cả những tiếng ồn ào lắng xuống, Ibrahim chỉ vào những tấm ảnh và nói. “Tôi muốn các anh cho tôi biết các anh nhìn thấy gì.”
Mọi người quay sang trái, hoặc nhìn nhau, với vẻ khó hiểu trên nét mặt.
“Xin cứ thẳng thẳn, hãy cho tôi biết xem” Ibrahim nói. “Các anh nhìn thấy gì?”
“Các xác chết.”
“Đúng rồi. Còn gì khác nữa không? Có gì đó ẩn giấu sau đó không chẳng hạn?”
Sau một hồi lặng im, những người đàn ông bắt đầu dò đoán. Một quy luật theo vòng tròn à? Một hình lục phân? Một hình lục giác?
“Có một quy luật.” Cuối cùng thì Ibrahim lên tiếng. Ông bước đến bên bức tường và bắt đầu viết trên các bức ảnh. Trước tiên là chữ B, rồi đến chữ S, rồi M. Ông vừa mới bắt đầu vòng thứ hai thì những người đàn ông trong phòng đã nhận ra. Cả phòng nhốn nháo tiếng nói.
“Bism’allah, ar-rahman, ar-rahim.” Shaya nói.
Cả phòng im phăng phắc. Daher há hốc miệng.
“Cô Hijazi đã phát hiện ra quy luật này đêm qua.” Ibrahim ra hiệu về phía Katya. Cô vẫn không một chút bối rối trước ánh nhìn đố kỵ của hai mươi người đàn ông. “Cảm ơn cô Hijazi.”
Cả căn phòng lại im lặng, như sự tiếp nối của cú sốc trước đó. Mu’tazz tỏ vẻ phẫn nộ, nhưng Ibrahim không rõ đó là vì thông điệp kia hay vì cô Hijazi là người phát hiện ra nó.
“Như vậy, hắn là một người Hồi giáo.” Ai đó nghiêm giọng nói.
“Có thể hắn biết về đạo Hồi.” Daher đáp lại. “Mà không phải là người Hồi giáo thì sao.”
Ibrahim can thiệp trước khi cuộc tranh cãi trở nên gay gắt. “Tôi chắc các anh đều đang băn khoăn không rõ điều này giúp gì cho chúng ta.” Ông quay sang Katya. “Cô Hijazi, sao cô không lên đây và trình bày giả thuyết của mình nhỉ?”
Katya đứng bên bậu cửa. Mọi người lại quay ra nhìn cô, ngoại trừ một số người trong phòng không thể ép mình nhìn cô được.
“Tôi nghĩ rất có khả năng hắn sẽ lặp lại quy luật này ở đâu đó.” Cô nói và ra hiệu về phía bức tường. “Chúng tôi ngờ rằng việc hắn bắt Amina al-Fouad, và bàn tay của bà ta được sắp đặt như vậy có lẽ là một giai đoạn đánh dấu sự kết thúc của việc hành hình.”
Ibrahim ra hiệu về phía chiếc bảng trắng phía sau ông có treo một bức ảnh về bàn tay đó. Ông để ý khi mình làm vậy thì Mu’tazz trừng mắt nhìn Katya.
“Có thể” Katya nói tiếp, “bà ta sẽ là nạn nhân đầụ tiên trong loạt tấn công mới và tên sát nhân đã thay đổi quy cách giết người bởi hắn đang tức giận vì chúng ta đã tìm ra địa điểm ở sa mạc của hắn. Nhưng tôi cho rằng khả năng đó cũng tương đương với khả năng al-Fouad chính là nạn nhân cuối cùng trong vụ giết người hàng loạt đã xảy ra mà chúng ta không hề biết này. Chúng ta vẫn chưa giải mã hết được.” Có vẻ như cô đã nhận ra Mu’tazz đang nhìn cô chòng chọc, nét mặt cô sa sầm lại.
“Ý cô là tên giết người không chỉ chôn các nạn nhân ở sa mạc, mà còn giết người ở những nơi khác nữa phải không?” Shaya hỏi.
Ngữ điệu của anh ta cho thấy sự mất thể diện và sự hoài nghi mà cả đội đang cảm thấy lúc này. Ý cô là sao khi nói chúng ta không hề biết?
Tiên sĩ Becker ngước nhìn lên. “Thực ra chuyện đó cũng khá bình thường.” Cô nói. “Các cơ quan cảnh sát trên khắp thế giới thường không nhận ra có vụ giết người hàng loạt cho đốn khi hung thủ đã giết vài người rồi. Đó là bởi hầu hết những tên giết người hàng loạt không để lại dấu hiệu nào, như chúng ta thường gọi vậy, và chúng thường không cố định tại một địa điểm nào cả. Jeddah là một thành phố lớn vói rất nhiều phân khu khác nhau, nên hoàn toàn có khả năng hắn đã thực hiện trên toàn phạm vi Jeddah trong suốt thời gian qua.”
“Nhưng” Daher lên tiếng, “chúng tôi đã nhận ra những phụ nữ bị sát hại và bị chặt đứt tay lâu nay rồi, cô không nghĩ vậy sao?”
“Gã này của các anh để lại dấu hiệu là chặt tay nạn nhân.” Tiến sĩ Becker bình tĩnh đáp. “Nhưng dấu hiệu cũng là tư thế của những cái xác và việc bắn xuyên qua đầu. Có khả năng hắn đã giết người trong thành phố và sử dụng bất cứ dấu hiệu nào trong số đó – hoặc không. Hắn đã chứng tỏ được rằng hắn có thể giết một số lượng lớn nạn nhân. Có khả năng còn nhiều hơn thế. Các dấu hiệu có thể thay đổi theo thời gian. Có thể đã có những nạn nhân trước đó mà các anh không biết và sẽ không thể liên hệ tới vụ này chỉ thông qua một dấu hiệu.”
“Có lẽ tốt hơn hết,” cô nói tiếp, “nên lật lại những vụ án còn dang dở. Hắn có thể đã chặt tay hoặc bắn nạn nhân. Có thể hắn chỉ sắp đặt tư thê’ của cái xác thôi. Có thể hắn chỉ bắn họ. Hãy tìm kiếm bất cứ dấu hiệu tương tự nào.”
“Việc đó sẽ kéo dài đến mãi mãi.” Daher nói, lúc này đã có vẻ cáu giận.
“Thực ra, theo như tôi hiểu,” Tiến sĩ Becker đáp lại không một mảy may châm biếm, “cảnh sát Jeddah đạt tỷ lệ thành công chín mươi phần trăm trong việc truy bắt tội phạm giết người, nên có lẽ không có nhiều hồ sơ để kiểm tra lại đâu.”
Daher mỉm cười. “Xin lưu tâm cho, thưa Tiến sĩ Becker, cô không biết tiếng Ả Rập đâu. Bất cứ chữ cái nào của chúng tôi cũng giống với hình người. Chúng tôi có thể lật lại hàng trăm vụ giết người trước đây và tìm thấy cả đống tiểu thuyết vỉa hè ấy chứ! Điều đó không có nghĩa là có sự liên hệ với vụ án này.”
“Anh nói đúng.” Ibrahim nói. “Đó sẽ là một khối lượng lớn công việc, và một số dò đoán dựa trên kỹ năng được đào tạo, nhưng tôi nghĩ rằng đó là một hướng khả thi và tôi sẽ giao nhiệm vụ này cho cô Hijazi.”
Không một ai phản đối, thậm chí cả Daher. Ibrahim đã mong là vậy. Khi họ nhận ra công việc tẻ nhạt nhất sẽ được giao cho phụ nữ, họ chẳng còn muốn phàn nàn gì nữa.
“Tôi đã nói chuyện vói Chánh Riyah và chúng ta sẽ cách ly khu vực cuối phòng này để cô Hajazi và vài điều tra viên nữ khác có thể có dành chỗ cho những hồ sơ mà họ sẽ kiểm tra. Tôi đề nghị tất cả mọi người tôn trọng sự riêng tư của họ.”
“Chẳng phải phụ nữ có một căn phòng rộng hơn ở tầng trên rồi hay sao?” Shaya hỏi.
Ibrahim giải thích rằng cô Hijazi đã nhận lời kiểm tra các hồ sơ xử án và hành hình. Các thùng hồ sơ đã chiếm một không gian đáng kể trong phòng thí nghiệm của nữ giới. Giờ tới lượt hàng tá, có khi tới hàng trăm, những hồ sơ của các vụ việc chưa được giải quyết cần phải kiểm tra lại, cô đang phải đứng trước tình trạng hoàn toàn không còn chỗ trống trong phòng làm việc.
Dường như mọi người đều chấp thuận điều này ngoại trừ Mu’tazz, người ra vẻ lắc đầu quầy quậy rồi hùng hổ bước ra khỏi phòng. Sẽ chẳng lạ nếu ông ta đang tiến thẳng về phía văn phòng của Chánh Riyah để kêu ca gì đó.
Khi những người còn lại giải tán hết, Ibrahim bắt gặp nét mặt của Daher và nhận ra anh ta đang tức giận. Thực tế là giận dữ đến mức Ibrahim nghĩ sẽ là khôn ngoan nếu để mắt đến anh ta.
“Vấn đề là có quá nhiều các vụ án cũ chưa được… giải quyết.” Katya nói khẽ.
Cô và Charlie đang ngồi trong khu vực nữ giới của tiệm Pizza Hut. Khi Charlie nhìn thấy hình logo quen thuộc ở phía ngoài cửa tiệm, cô đã cười phá lên, túm lấy cánh tay Katya rồi nói. “Chúa ơi, cô biết đường đến trái tim tôi rồi đấy!”
“Thật thế sao?”
“Lúc này tôi thấy nhớ nhà quá. Tuyệt thật.”
Giờ thì họ đang ngồi bên một chiếc pizza theo quy chuẩn của Hồi giáo có cà chua và pho-mát.
“Ý cô là gì, những hồ sơ đó chưa đóng sao?” Charlie hỏi.
“Cảnh sát cần có lời thú tội của tên sát nhân. Không có nó, họ không thể kết án hắn được.”
“Vậy những lời thú tội là giả à?”
Katya thở dài. “Đôi khi thôi, những kẻ bị tình nghi sẽ bị ép cung.”
“Bị tra tấn sao?”
“Có lẽ vậy. Nó còn tùy.”
“Vậy đó là lý do tại sao các cô đạt được tỷ lệ thành công là chín mươi phần trăm phải không?” Charlie hỏi.
“Có lẽ thế.”
“Tôi hiểu rồi. Như vậy là cô phải biết về tất cả các vụ án, chứ không chỉ những vụ còn bỏ ngỏ.”
“Đúng vậy. Nhưng nếu đề nghị các hồ sơ đó có nghĩa là tôi sẽ phải nói rằng cảnh sát không hề thực hiện trách nhiệm của mình.”
Charlie nheo mắt. “Họ đã giao các hồ sơ cho cô chưa?”
“Chưa, chưa đâu. Thanh tra Zahrani sẽ cố. Có thể sẽ mất một thời gian.”
“Chúa ơi.”
Họ lặng lẽ ăn một lúc. Suy nghĩ của Katya lại trở về tên giết người.
“Tôi vẫn băn khoăn tại sao tên giết người không làm tương tự với Amina như những người khác.” Cô nói. “Bà ta vẫn còn sống khi hắn chặt bàn tay bà ta.”
“Đúng đấy.” Charlie nói. “Và tôi đồng ý với điều cô đã nói: có khả năng đó là cách phản ứng khác của hắn đối với vụ điều tra này. Hơn nữa, Amina không giống những nạn nhân kia của hắn. Vậy có khả năng hắn ta cắt tay bà ta để các cô – phía cảnh sát – hiểu rằng đó chính là hắn. Nhưng mặt khác, cũng có thể các cô chưa kết nối được hai vụ này.”
“Nhưng tại sao hắn làm vậy chứ?” Katya lúng túng hỏi. “Chẳng lẽ hắn muốn chúng tôi bắt hắn sao?”
“Hẳn rồi. Có thể hắn muốn có được sự thừa nhận cho tội ác của mình. Thậm chí hắn có thể thấy tự hào về những hành vi đó. Cho đến lúc này, hắn đã có được cách tiếp cận vói phụ nữ và không một ai đế ý tới việc họ mất tích. Vấn đề là, Amina đã mất tích gần một tuần trước khi tên giết người phát hiện cảnh sát đã khám phá ra địa điểm chôn cất đó. Hắn biết chắc rằng vào thời điểm hắn bắt cóc bà ta có khả năng có người nhận ra việc bà ta mất tích. Bà ta là người Ả Rập Xê-Út, không phải người giúp việc.”
“Có lẽ bà ta đeo khăn che mặt và hắn không nhận ra bà ta là người Ả Rập Xê-út chăng?” Katya hỏi lại.
Charlie lắc đầu. “Theo như những gì chúng ta đã biết, hắn chưa từng bắt một phụ nữ nào không phải người gốc Á. Tôi cho rằng hắn biết cách để nhận ra một phụ nữ gốc Á thì trông thế nào. Tôi thực sự tin là hắn đang chế nhạo cảnh sát.” Charlie đặt miếng pizza xuống. “Như cô đã nói đây, Amina có thể là nạn nhân đầu tiên hoặc cuối cùng trong loạt giết người. Dù gì đi nữa, tôi nghĩ chúng ta phải thừa nhận rằng hắn chưa xong việc. Và chúng phải tìm được quy luật đó trước khi hắn ta giết Amina, nếu quả thực bà ta chưa chết.”