“Verum usque in praesentem diem mutla garriunt inter se Canonici de abscondito quadam istius Abbatis Thomae thesauro, quem saepe, quan quam adjuc incassum, quaesiverunt Steinfeldenses. Ipsum enim thomam adjuc florida in aetate exsitentem ingentem quri massam circa monasterrium defosise perhibent, de quo multoties interrogatus ubi esset, cum risu resondere solitus erat “Job, Johammes, et Zacharias vel vobis vel posteris indicabunt”, idemque aliquando adiicerce se invernturis minime invisurum. Inter alia huisus Abberto opera, hoc memoria praecipue dignum iudico quest fenstrammagnam in orientali parte alae australis de ecclesia sua imaginibus ptiome in vitro deiectre impleverit: id quod et ipsius effigies et insignia ibideum posita demonstrant. Domum quoque Abbatialem dem totam restaruravit, puteo in atrio ipsius effosso et lapidelem marmoreis pulchre caelatis exornato. Decessit atuerim morte aliquantulum subitanea perculsus, aetatis mort anno lxxxii, incarnationis veo Dominicae mdxxix”
“Chắc ta phải dịch đọan này ra thôi” nhà khảo cổ học tự nhủ sau khi chép xong mấy dòng chữ của quyển sách quý hiếm và được truyền bá rất rộng Sertum Stindeldum Norbertinum (một quyển sách nhỏ miêu tả tu viện Premonstratensis cùng cbsn của các tu viện trưởng xuất bản ở Cologne năm 1712 bởi Albert Erhard, một người sống tại nơi này. Tên gọi Norbertinum là từ tên tu viện trưởng Nobert xây dựng nên dòng tu này – dòng tu mà th’anh Norbert lập ra năm 1120 ở Premonte gần Laon) “Làm gì thì trước hết cũng cứ phải dịch nó ra đã” và vì vậy đoạn nói trên được nhanh chóng dịch ra như sau:
“Cho tới hiện nay, có rất nhiều lời đồn đại giữa các giáo sĩ về một kho tàng bí mật nào đó của Tu viện thánh Thomas, nhiều tu sĩ ở Steinfeld đã đi tìm mà không thấy. Truyện kể rằng Thomas, hồi còn trẻ khoẻ, có giấu một lượng vàng rất lớn ở dâu đó, ngay trong tu viện. Người thường hay hỏi ông nó ở đâu, ông chỉ cười bảo “Hỏi Julius và Zechariah sẽ bảo cho các ông hoặc các tu sĩ nối nghiệp các ông” Đôi khi ông nói thêm rằng sẽ chẳng có gì mà không hài lòng với người nào tìm ra nó. Trong số các công trình mà vị tu viện trưởng này thực hiện, tôi phải đặc biệt kể đến việc ông đã cho sơn nhiều hình ảnh rằng đẹp trên ô kính cửa sổ lớn phía đông nam của nhà thở có hình nộm và gia huy của ông trên chiếc cửa sổ làm chứng. Ông đã phục hồi lại phần lớn nơi ở của tu viện trưởng, đào một cái giếng trong sân, trang trí nhiều hình ảnh rất đẹp bằng đá hoa cương. Ông chết đột ngột năm 62 tuổi, đó là năm 1529 sau Công nguyên”.
Vậy mà nhà khảo cổ đang có trước mặt là một tài liệu để dò xem các cửa sổ sơnó của nhà thờ tu viện Steinfeld đến ở những đâu. Không lâu sau cách mạng, một khối lượng lớn các cửa sổ được đưa từ các tu viện bị tan rã ở Pháp và Bỉ tới đất nước này, có lẽ hiện giờ chúng được dùng để trang trí nhiều nhà thờ của giáo khu, nhà thờ lớn, cũng như nhiều nhà thờ nhỏ của tư nhân. Tu viện Steinfeld đã là một trong những kẻ cống hiến miễn cưỡng nhất các của vật nghệ thuật của chúng ta (tôi đang trích dẫn đoạn mở đầu nặng nề chán ngắt của quyển sách mà nhà khảo cổ học) phần lớn các ô kính cửa sổ của tu viện này được xác định không mấy khó khăn nhờ ở những chữ viết trên kính đề cập đến thư viện, hoặc chủ đề của các hình vẽ mà nhờ đó người ta biết các câu chuyện kể nằm trong hệ tác động nào.
Đoạn bắt đầu của câu chuyện này đã hướng nhà khảo cổ theo một luồng xác định khác. Ông đã nhìn thấy trong một nhà thờ nhỏ của tư nhân ba tấm hình lớn, mỗi tấm chiếm trọn một cửa sổ, rõ ràng do cùng một nghệ sĩ với phong cách Đức thế kỷ mười sáu, nhưng cho đến nay không rõ là người địa phương nào. Chúng thể hiện – hẳn làm bạn ngạc nhiên – ba vị thánh JOB PATRAIRCH, JOHANNES EVANGELISTA, ZACHARIAS PROPHETA, mỗi người cầm một quyển sách hoặc một cuộn giấy, trong đó viết một câu trong tác phẩm của họ. Nhà khảo cổ ghi nhận điều lạ là nó khác với những gì trích từ sách Vulgild ông đã có dịp đọc. cuộn giấy trongtay Job ghi “Autor locus in quo absonditur” (lẽ ra thành phố là ‘conflatur’, [1] “, cuốn sách của John là “Habent in vestimentis suis scriptum quam nemo novit” [2] (“investimento scriptum” là trích một câu thơ khác), Zacharias có câu “Syper lapslide unum Septem oculi sunt” [3] (duy nhất câu này đúng với trong văn bản)
Rồi hơn nữa là không hiểu vì lý do gì mà ba vị đó cùng đứng với nhau trong một cái cửa sổ. Chẳng có mối liên hệ nào giữa họ, kể cả về mặt lịch sử, điển hình là học thuyết, thành ra nhà khảo cổ chỉ có thể cho rằng họ nằm trong cả một khối lớn các giáo đồ và các Tông đồ được vẽ đầy kịt toàn bộ các cửa sổ của phòng ghi chép của ngôi nhà thờ lớn. Nhưng đoạn trong sách “Sertum” lại thay đổi quan niệm này, bởi nó dẫn ra rằng tên của ba nhân vật được vẽ trên kính cửa sổ nhà thờ nhỏ của Chúa công ở luôn trên môi của Tu viện trưởng Thomas von Bauhausen ở Steinfeld, thành ra ông ta mới cho sơn lên một cánh cửa sổ như thế chứ, có thể là vào năm 1520. Cửa sổ ở phía Nam nhà thờ tu viện ông . Chẳng phải đoán được hình ành này nhất định là một phần công trình của tu viện trưởng Thomas rồi, cần xem xét kỹ tấm kính mới khẳng định được hoặc loại bỏ giả thiết này đi. Và vì ông Somerton là người rỗi rãi, ông lên đường ngay, thăm lại ngôi nhà thờ nhỏ kia. Phỏng đoán của ông đã được khẳng định hoàn toàn. Không những phong cách và kỹ thuật sơn trên tấm kính phù hợp với niên đại và vị trí đòi hỏi, mà trên một tấm kính cửa sổ khác của nhà thờ ông đã tìm thấy một số tấm kính được biết đã bán đi cùng với những hình ảnh nói trên, có vẽ gia huy của tu viện trưởng Thomas .
Trong những thời kỳ xen kẽ, các tìm kiếm của ông Somerson bị ám ảnh dữ dội bởi những lời xì xào về kho tàng được chôn giấu, ông suy đi nghĩ lại và ngày càng cho rằng nếu như tu viện trưởng Thomas có ẩn ý gì đó trong câu trả lời bí hiểm cho những người đặt câu hỏi thì hẳn ông ta nó nói rằng, bí mật này nằm ở cánh cửa sổ nào đó tại nhà thờ tu viện của ông. Hơn nữa không thể chối cãi được là đoạn đầu tiên trong số những đoạn văn được chọn lọc một cách khó hiểu trong các cuộn giấy vẽ trên ô kính cửa sổ thế nào cũng có liên quan đến nơi chôn giấu của.
Vì vậy mỗi vết tích, mỗi nét nổi bật nào có thể giúp làm sáng tỏ điều bí ẩn mà ông chắc chắn tu viện trưởng Thomas đã để lại cho hậu thế, ông đều ghi chép vô cùng tỉ mỉ, sau đó quay về ngôi thái ấp của mình ở Berkshire, mất khá nhiều dầu đèn nghiên cứu các dấu vết và hình vẽ. Sau ba tuần, một hôm ông Somerton gọi người hầu đến thu xếp hành lý cho chủ và cho bản thân anh ta đi du lịch một chuyến ngắn ngày ra nước ngoài. Ta chưa cần theo chân ông ta vội.
Ông Gregory, mục sư của Parsbury, đi ra ngoài trước giờ ăn sáng. Đó là một buổi sáng mùa thu rất đẹp, ông đi bộ tới tận cánh cổng dẫn vào con đường cho xe ngựa đi lên toà nhà, với mục đích gặp người đưa thư, đồng thời hít thở không khí trong lành. Hai việc tốt cả. trước khi kịp trả lời đến hơn chục câu hỏi linh tinh mà mấy đứa cháu đi theo ông ngây thơ đưa ra, thì đã trông thấy người đưa thư, trong số thư từ gửi đến có một bức mang dấu bưu điện ngoại quốc, tem ngoại quốc (đám trẻ con nhà Gregory tha hồ tranh nhau) và gửi đến tên ông, chữ viết đúng là của người Anh, nhưng là một người Anh không học vấn.
Khi mục sư mở ra và nhìn chữ ký, ông nhận ra bức thư là từ tên hầu cận thân tín của bạn ông, điền chủ Somerton. Nó như sau:
Thưa ngài kính mến,
Tôi vô cùng lo lắng về ông chủ của tôi nên mong ngài rủ lòng đến ngay cho. Ông ấy bị sốc nặng, phải nằm tại giường. Chưa bao giờ tôi thấy ông ấy như vậy và chỉ có ngài mới có thể giải quyết được. Ông ấy bảo tôi chỉ cho ngài con đường ngắn nhất đi tới đây. Đi tàu đến Cobblince rồi lên xe ngựa. Hy vọng ông đã hiểu, tôi hoảng loạn vì lo lắng, thức trắng đêm, chỉ mong được gặp một bộ mặt của người Anh lương thiện tại cái nơi toàn người ngoại quốc này.
Kính chào ngài,
Kẻ nô bộc trung thành,
William Brown
T.B. làng tôi ở gần cái thị trấn tên là Steenfeld
Độc giả có thể hình dung sự ngạc nhiên, hoang mang, và rồi vội vã thu xếp ra đi ra sao của ông mục sư khi nhận được một lá thư như vậy, ông ta vốn chỉ là một mục sư sống yên bình ở Berkshire vào năm 1859. Tôi có nói ông Gregory đã lên tàu hỏa đi thị trấn ngay trong ngày hôm ấy cũng là chưa đầy đủ, ông còn đăng ký được một cabin trên tàu thủy đi Antwerp, và một chỗ trên chuyến tàu hoả tới Coblentz. Từ đây đến Steinfeld không khó khăn gì.
Bản thân có một bất lợi lớn, với tư cách người kể chuyện, là không biết Steinfeld như thế nào vì chưa đến đó bao giờ, những nhân vật chính trong chuyện kể này (mà từ họ tôi thu thập được các thông tin) cũng chỉ có thể cho tôi biết một ý niệm sơ sài và mơ hồ. Tôi nghĩ đó là một nơi nhỏ bé, có một ngôi nhà thờ, trong dó mọi tiện nghi đã bị cướp đoạt hết, nhiều toà nhà lớn đổ nát, hầu hết xây từ thế kỷ mười bảy nằm xung quanh nhà thờ. Còn tu viện, giống như hầu hết các tu viện ở lục địa, được xây lại khá hào nhoáng bởi cư dân thời kỳ đó. Tôi nghĩ chẳng hoài tiễn mà đi thăm một nơi như vậy, bởi vì cho dù nó có thể hấp dẫn hơn là ông Somerton hoặc ông Gregory nghĩ, rõ ràng chẳng có gì thượng hạng để mà để mắt tới, trừ một điều, có lẽ vậy, mà tôi chẳng nên bận tâm làm gì.
Quán trọ nơi vị quý tộc Anh cùng người hầu ở, là nơi duy nhất tạm ở được trong làng. Ông Gregory được người đánh xe đưa tới đó ngay, thấy Brown đứng nơi cửa. Ông Brown là một mẫu người vùng Berkshire có ria, mặt lạnh tanh, ai cũng biết là loại người hầu tin cẩn, lúc này đang ăn mặc hơi quá mức so với cương vị của ông. Comlê sáng vải tuýt, trông vẻ mặt lo âu tức bực nhưng rõ ràng là làm chủ tình thế, anh ta nhẹ hẳn người khi trông thấy “bộ mặt Anh quốc lương thiện” nhưng không nói lên được gì cả ngoài câu:
“Tôi thật vui mừng được gặp ngài. Chủ tôi chắc cũng vậy”
“Chủ anh ra sao, Brown?” ông Gregory vội hỏi.
“Thưa ngài tôi nghĩ ông ấy đã khá hơn, nhưng qua một giai đoạn kinh khủng. Có lẽ bây giờ ông ấy đã chợp mắt được một chút, nhưng…”
“Nhưng có chuyện gì? Qua thư anh tôi chẳng hiểu gì cả? Bị tai nạn nào ư?”
“Vâng, thưa ngài, nhưng có lẽ tôi không nói thì hơn. Để chủ tôi nói về chuyện đó. May là không bị gãy cái xương nào…”
“Thế bác sĩ bảo thế nào?”
Lúc ấy họ đang đứng trước cửa buồng ông Somerton, nói với nhau khe khẽ. Vừa lúc ông Gregory đứng ở phía trước, đưa tay dò tìm quả đấm cửa và thử ấn ngón tay vào cánh cửa, Brown chưa kịp trả lời đã có tiếng kêu thét từ bên trong.
“Lạy trời, ai ngoài đó thế?” mấy tiếng đầu họ nghe thấy là như vậy “Brown phải không?” “Dạ vâng, thưa tôi đây ạ, cả ông Gregory nữa” Brown vội trả lời, đáp lại có tiếng rên rỉ tỏ vẻ hài lòng.
Họ vào phòng, phòng tối om trong ánh trời chiều, ông Gregory thương tâm nhận ra khuôn mặt ông bạn thân đang ngồi thẳng dậy trên giường, giơ cánh tay run run ra đón ông. Khuôn mặt xưa kia bình thản là thế, nay nhăn nhó, vã mồ hôi vì sợ.
“May mà gặp được anh, anh Gregory thân mến” ông mục sư đáp lời như vậy và không gì tỏ ra thực hơn.
Sau năm phút chuyện trò thì ông Somerton đã trở lại là chính mình chứ không còn như mấy hôm trước – như sau đó Brown kể lại. Ông đã có thể ăn bữa cơm tối đàng hoàng và nói tin rằng mình đủ sức đi về Coblentz trong vòng hai mươi bốn giờ nữa.
“Nhưng có một điều” nói đến đây ông ta có vẻ hoảng hốt bồn chồn mà ông Gregory không thích tí nào, “là anh Gregory ạ, anh phải làm giúp tôi một việc này” Ông đưa bàn tay đặt lên tay Gregory sợ ông này ngắt lời “Xin đừng hỏi tôi đó là việc gì và vì sao tôi muốn làm việc này. Hiện ngay tôi chưa giải thích được, nói ra chắc tôi sẽ trở lại tâm trạng cũ – phí công anh đến đây. Một lời duy nhất tôi cần nói là anh làm việc này không gặp nguy hiểm nào cả, ngày mai Brown sẽ cho anh rõ nó là việc gì. Chỉ cần đặt lại một vật về chỗ cũ của nó. Mà không, tôi chưa thể nói về nó được. Anh gọi Brown hộ tôi với”.
“Được” ông Gregory bảo, vừa băng qua gian phòng “Tôi sẽ không yêu cầu anh giải thích chừng nào anh chưa đủ sức khoẻ. Còn về chút việc anh nhờ tôi, nghe anh nói đơn giản như thế, tôi xin vui lòng làm ngay sáng sớm mai trước mọi việc khác”.
“Ồ, tôi biết mà, anh Gregory thân mến, giờ thì tôi yên tâm có thể dựa vào anh, tôi sẽ biết ơn anh vô cùng. À Brown đây rồi. Brown, tôi bảo anh cái này”
“Tôi ra ngoài nhé” ông Gregory hỏi.
“Không. Trời ơi, không Brown, việc đầu tiên sáng sớm mai (anh Gregory à, tôi biết anh không ngại dậy sớm) là anh đưa ngài mục sư đây tới… cái chỗ ấy, anh biết rõ đấy. Anh không phải sợ gì hết, ban ngày thì hoàn toàn an toàn, anh hiểu tôi nói gì chứ? Nó nằm ngay chỗ bậc thang chỗ chúng ta để nó ấy. (Brown chỉ cúi đầu, nuốt nước bọt một hai lần, không nói được gì) Và… thế, chỉ có thế. Một lời này nữa, Gregory, nếu như anh có thể cố đừng hỏi gì Brown về việc này thì tôi sẽ càng cám ơn anh hơn nữa. Chiều tối mai, nếu mọi sự ổn cả, tôi tin là có thể kể anh nghe từ đầu đến đuôi câu chuyện này. Còn bây giờ xin chúc anh ngủ ngon. Brown ngủ trong phòng này với tôi, và anh hãy khoá cửa phòng anh lại, nhớ nhé. Họ, họ thích như vậy, những người ở đây ấy mà, và như vậy hay hơn. Thôi chào anh”.
Họ chia tay nhau, và nếu như ông Gregory nửa đêm về sáng có một hai lần tỉnh giấc và có cảm giác ai đó sờ soạng bên dưới chỗ cửa khoá, thì chắc chỉ vì vốn là người đang sống yên bình nay bị ném vào một cái giường xa lạ và ở vào trung tâm của một bí ẩn. Nhưng ông nghĩ chắc chắn là – cho đến suốt đời ông – ông có nghe tiếng sờ soạng như vậy thật, hai, ba lần gì đó quãng sau nửa đêm cho đến bình minh.
Mặt trời lên, ông dậy ngay đi theo Brown. Việc ông Somerton đòi hỏi dù phức tạp cũng không phải việc khó khăn nguy hiểm, cho nên chỉ nửa giờ đồng hồ sau khi rời quán trọ, nó đã được hoàn thành. Đó là việc gì, tôi chưa nói ra vội.
Cuối buổi sáng, ông Somerton hầu như trở lại bình thường, đã có thể lên đường đi Steinfeld, và tối hôm ấy, tại Coblentz hay chặng dừng chân nào trên đường, tôi không biết chắc lắm, ông Somerton giữ lời hứa, giải thích câu chuyện. Brown cũng ngồi nghe nhưng với hiểu biết của mình, anh ta hiểu được đến đâu thì tôi chịu không đoán được.
Đây là câu chuyện của ông Somerton
“Hai vị chắc sơ bộ biết rằng chuyến đi này của tôi được thực hiện với mục đích lần theo dấu vết một sự việc liên quan tới tấm kính sơn màu ở nhà thờ nhỏ của Chúa công D. Phải, khởi điểm của toàn bộ chuyện này nằm trong một đoạn sách cổ, xin lưu ý cho”
Đến đây ông Somerton nêu một vài cơ sở ta đã biết ở trên.
“Lần thứ hai trở lại nhà thờ nhỏ của Chúa công D.” ông nói tiếp “tôi nhằm mục đích ghi chép cặn kẽ về các hình người, các dòng chữ, các vết cắt bằng kim cương trên kính, kể cả các dấu hiệu bất chợt lộ ra. Điểm tôi giải quyết đầu tiên là các dòng chữ. Tôi không nghi ngờ gì về dòng chữ đầu tiên của Job. ” Có một nơi dấu váng với sự sửa đổi cố ý, chắc để nói tới kho báu, thế là tôi tự tin tập trung vào câu thứ hai của thánh John “. Trên áo họ có chữ không ai hiểu được. Tất nhiên bạn sẽ hỏi, có chữ ở trên chiếc áo chùng của họ ư? Tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Cả ba vị thánh đều có diềm áo rộng màu đen lồ lộ ra khiến cho hình vẽ trên cửa sổ bị xấu đi. Phải thừa nhận tôi cũng lúng túng khó xử, may thay trên mặt đường kính có rất nhiều bụi – nếu không vì vậy hẳn tôi đã bỏ cuộc giống như các tu sĩ ở Steinfeld trước đây, bởi vì Chúa công D vô tình đi qua thấy tay tôi đen bẩn bèn cho người cầm đến một cái chổi để quét cửa sổ. Trong cái chổi có chỗ bị cứng thế nào đó, để lại một vết rạch dài, lộ ra bên dưới một ánh vàng nơi diềm áo. Tôi bèn bảo người lao công hãy dừng tay, tự mình trèo lên thang quan sát. Vết vàng hãy còn đó, phủ lên trên là một chất nhuộm màu đen khá dày nay vừa bị cái chổi gọt đi, chắc là ám khói sau khi nhà thờ bị cháy, bây giờ cậy sạch đi chẳng có vấn đề gì, chắc bạn đoán được tôi thấy dưới lớp màu đen đó vài ba chữ cái màu vàng rất rõ nét trên nền sáng. Chẳng phải nói bạn cũng biết tôi vui mừng đến thế nào”.
Tôi bảo với Chúa công D. là tôi tìm ra mấy chữ có lẽ rất hay ho, xin phép ông ta được làm lộ toàn bộ dòng chữ ra. Ông ta đồng ý, bảo tôi muốn làm gì cứ làm, ông ta đang bận không thể đứng đó được. Tôi lập tức vào cuộc và thấy cũng dễ thôi. Chưa đến hai giờ đồng hồ sau đã làm được ba cái diềm áo màu đen lộ ra dưới ánh sáng. Theo như lời ghi thì mỗi ông đêu có ” chữ ghi trên áo mà không ai hiểu được “.
“Phát hiện ra điều đó rồi tôi biết chắc mình đã đi đúng hướng. Còn bây giờ, các chữ nghĩa là gì đây? Trong khi cậy sạch lớp màu đen bên trên tôi cố không nhìn vào các chữ đó, đợi xong hẳn mới đọc một thể. Đến khi xong rồi thì Gregory ạ, tôi hầu như kêu thét lên vì tuyệt vọng bởi chúng chỉ là một nhúm chữ cái mà ta đặt vào trong một cái mũ rồi xóc lên. Nó như thế này:
Job. DREVICIOPERDMOOMSMVIVLISLCAV
IBASTBATAOVT
St. John. RDIIEAMRLESIPVSPODSEEIRSETIAAES
GIANVNNR
Zachariah. FTEEAILNQDPVAIVMTLEEATTOON
VMCAAT
H.Q.E
Mấy phút đầu tiên nhìn vào đó đầu óc tôi trống rỗng, nhưng rồi thất vọng tồn tại không lâu. Tôi lập tức hiểu ra phải giải một mật mã, mà mật mã có từ đã lâu đời như thế thì chắc đơn giản thôi. Thế là tôi cẩn thận chép lại những chữ đó. Phải nói thêm là trong quá trình này xảy ra một sự kiện nhỏ chứng tỏ nó đúng mật mã. Sau khi chép xong dòng chữ trên tay áo Job, tôi đếm chúng xem có đủ không. Tất cả là ba mươi tám chữ, và đúng lúc đếm xong thì tôi chạm phải một vết gì đó được tạo ra bằng dầu ghim nhọn ở bờ diềm áo, chữ số La mã XXXVIII. Tóm lại, cả ba dòng chữ ở ba chiếc áo đều giống nhau, rõ ràng là thợ khắc đã tuân thủ một cách ngặt nghèo lệnh của tu viện trưởng Thomas là phải làm sao khắc cho đủ số chữ.
Vâng, phát hiện này xong rồi thì tôi kiểm tra kỹ càng mặt kính không biết thế nào mà kể để tìm xem còn ánh sáng nào khác không. Dĩ nhiên tôi không quên dòng chữ trên cuộn giấy của Zachariah, ” Trên một phiến đá có bảy con mắt “, nhưng tôi nghĩ ngay ra nó nói đến dấu hiệu trên phiến đá tại nơi giấu của. Tóm lại tôi đã hoàn thành việc ghi chép, vẽ lại, và lần theo các dấu vết, nay tôi trở về Parsbury ngồi thư thả mà giải cho ra mật mã đó. Ôi chao! Vất vả không biết thế nào kể xiết! Lúc đầu cứ tiếng mình thông minh, cách giải mã sẽ tìm được trong quyển sách cổ nào đó nói về cách viết mật mã. Quyển Stegaraphia của Joachim Thrithemiusm người sống cùng thời với tu viện trưởng Thomas (hơi sớm hơn một chút), có vẻ đặc biệt hứa hẹn, rồi quyển Cryptographia của Selnius, quyển De Augmentis Scientiarum của Bacon, và vài quyển khác nữa. Nhưng tôi không đi được đến đâu. Cuối cùng tôi lần theo nguyên tắc “chữ thông thường nhất”, lúc đầu lấy chữ La tinh sau đó chữ Đức, làm cơ sở. Cũng không xong. Mà tại sao lại phải làm thế tôi cũng không biết. Cuối cùng tôi lại trở lại chỗ cái cửa sổ, đọc lại các ghi chép, hy vọng ở đâu dó chính tu viện trưởng Thomas sẽ cung cấp cho tôi chìa khoá giải mật mã mong muốn. Đằng sau hình ba người chẳng có nền phong cảnh nào với hình vẽ gì khác, trên màn trướng cũng chẳng thấy gì. Bây giờ chỉ còn mỗi một nguồn duy nhất là thái độ của ba vị thánh. “Job” tôi đọc lên, cuộn giấy trong tay trái, ngón trỏ bên phải chỉ lên trời, John, giữ quyển sách trong tay trái, bàn tay phải giáng phúc với hai ngón tay. Nói tóm lại, Job giơ một ngón tay, John thì hai và Zechariah là ba. Biết đâu khoá ẩn số nằm ở chỗ này? Anh Gregory ạ” ông Somerton nói, đặt bàn tay lên đầu gối bạn ” Đúng nó là cái khóa đấy. Lúc đầu tôi chưa hiểu, sau hai, ba lần thử, tôi hiểu nó nghĩa gì. Sau chữ đầu của dòng chữ thì nhảy cách một dòng chữ, sau chữ thứ hai thì nhảy cách hai dòng chữ, và sau đó nhảy cách ba dòng. Anh nhìn vào kết quả đây, tôi đã gạch dưới những chữ cái tạo thành từ mà ta cần:
D RE VIC IOPE DM OOM SMVI VL ISL CAVI BA SBA TAOV T
R DII EAMR LE SIP VSPO DS EEI RSET TAA ES GIAV NN R
FI EEAI LN QDP VAIV MT LEE ATTO HIOON VMCA AT .H .Q.E.
“Anh thấy chưa? Decem millia auri reposita sunt in peteo in at.” (mười ngàn đồng vàng được để dưới giếng ở…) theo sau đó là một từ gì đó trông không rõ bắt đầu bằng ‘ở’. Ngày càng tốt rồi. Tôi lại thử kiểu đó với các chữ còn lại nhưng không ra đầu đuôi gì. Tôi nghĩ có lẽ ba cái chấm đặt sau ba chữ cuối cùng phải có ý nghĩa gì đó. Rồi tôi nghĩ “Có phải cái giếng là cái giếng của tu viện trưởng Thomas trong đoạn văn ở quyển Sertum?” Đúng rồi. Ông ta có xây một puteus in atrio (một cái giếng trong sân. Đây chính là từ atrio (riêng chữ trio có nghĩa là bộ ba) đây. Bước sau, tôi chép lại những chữ còn lại, bỏ đi những chữ đã dùng. Còn lại như sau:
RVIIOPDOOSMVVISCAVBSBTAOTDIEAMLSIV
SPDEERSETAEGIANRFEEALQDVAIMLEATTHOOVMCA .H.Q.E.
Vậylà tôi biết ba chữ đầu tôi muốn – tức là rio – để điền vào cho đủ chữ atrio, và anh thấy đấy, tất cả đều được tìm thấy trong năm chữ đầu. Tôi hơi bối rối bởi hai chữ I’s nhưng chẳng mấy chốc thấy ra chữ mà mỗi chữ bỏ cách đều phải được sử dụng trong phân còn lại. Các bạn thử làm lấy mà xem. Kết quả sau khi ‘vòng’ đầu bị loại, còn lại như sau ‘rio domus abbatialis de Steinfeld a me, Thoam, qui posui custodem super ea.Gare a qui la touche.’
Vậy là toàn bộ bí mật có nghĩa sau:
“Mười ngàn đồng vàng được để trong cái giếng trong sân nhà tu viện trưởng Steinfeld bởi tôi, Thomas, người đã đặt một người canh giữ ở đó. Ai mà động đến thì liệu hồn”.
“Phải nói câu cuối cùng là phương sách mà tu viện trưởng Thomas đã lựa chọn. Tôi tìm thấy câu này trong huy hiệu của ông ta trên một miếng kính khác trong nhà thờ riêng của chúa côngD, ông ta đã mạnh dạn đưa nó vào trong mật mã, tuy không hoàn toàn chuẩn về mặt ngữ pháp”.
“Vậy là anh Gregory thân mến, là một con người ở địa vị tôi, người ta sẽ bị cám dỗ làm gì nào? Lẽ nào không lên đường đi Steinfeld như tôi để mà tìm ra bí mật những dòng chữ cho đến tận ngọn tận nguồn? Tôi không thể dừng được. Chẳng cần nói anh cũng đã hiểu, bằng những phương tiện mới nhất của nền văn minh, tôi đã tới Steinfeld nhanh nhất có thể, tới ở quán trọ này như anh đã thấy. Chẳng phải tôi hoàn toàn không có linh tính báo trước, phần vì có thể đi đến thất vọng, phần thì có thể nguy hiểm. Rất có khả năng cái giếng của tu viện trưởng Thomas nay không còn vết tích gì , hoặc biết đâu, có người nào đó, chẳng hiểu gì về mật mã nhưng vô tình gặp may, đụng phải kho vàng đó trước tôi? Và rồi – đến dây giọng ông ta run rẩy – tôi không làm sao hoàn toàn thoải mái, phải thú thật như vậy, về câu cuối nói về kẻ canh giữ kho tàng. Nhưng nếu anh cho phép, tôi sẽ chưa nói về chuyện đó chừng nào chưa cần thiết.”
“Hoàn cảnh cho phép là tôi và Brown đi khảo sát địa hình ngay. Tôi làm như mình là người quan tâm được tàn tích của tu viện. chúng tôi đành phải đến thăm nhà thờ tuy sốt ruột muốn đến chỗ khác kia. Tuy nhiên tôi rất tò mò muốn xem chỗ cũ của các ô cửa sổ sơn, đặc biệt chú ý đến cuối phía Đông của cánh nam nhà thờ. Tôi ngạc nhiên thấy vẫn còn những mảnh kính có huy hiệu – cái khiên của tu viện trưởng Thomas, một hình trang trí với cuộn giấy mang dòng chữ “Oculis habent, et non videbunt” (Họ có mắt nhưng sẽ không nhìn thấy) mà tôi cho rằng đây chính là lời chỉ trích cay độc của tu viện trưởng đối với các tu sĩ ở trong tu viện của ông.
Nhưng cái quan trọng nhất cần tìm là ngôi nhà của tu viện trưởng. Trong sơ đồ của tu viện, thường không bao giờ ấn định nó ở chỗ nào để người ta có hướng mà tìm, không giống như nhà của Tăng hội thì thường bao giờ cũng ở phía Đông của tu viện hoặc phòng ngủ tập thể của các tu sĩ thường thông với cánh ngang trong nhà thờ. Tôi nghĩ nếu mình hỏi nhiều quá sẽ làm người ta chợt nhớ lại ký ức về kho tàng, do đó đành tự tìm lấy. Nhưng tìm cũng không lâu gì. Cái sân có ba mặt, ở phía Đông Nam nhà thờ, quanh có nhiều cột nhà bỏ hoang với vỉa lát trên có cỏ mọc mà anh trông thấy sáng nay chính là nhà ông ta xưa kia đấy. Tôi rất mừng thấy nó nay không được sử dụng, lại cũng không xa quán trọ là bao và không có người nào ở quanh đó nhìn vào cả, toàn bộ vườn cây ăn quả và các bãi cỏ nuôi ngựa mọc trên sườn dồi phía Đông nhà thờ. Tôi có thể chỉ cho anh tảng đá rất đẹp sáng bóng dưới hoàng hôn vàng long lanh vào chiều hôm thứ ba.”
“Còn cái giếng thì sao? Chẳng còn gì phải nghi ngờ, bởi nó rất đáng chú ý. Thành giếng bằng đá hoa cương Ý, có hình chạm trên đó cũng kiểu Ý luôn. Có lẽ anh còn nhớ những kiểu chạm khắc nổi hình Eliezer và Rebekah, và hình Jacob mở giếng cho Rachel và những kiểu đại loại như thế, nhưng chắc là để tránh gây nghi ngờ nên Tu viện trưởng không dùng ở dưới những câu chữ bóng gió”.
“Tôi xem xét cặn kẽ toàn bộ cấu trúc cái giếng – dĩ nhiên, một chỗ lấy nước xây vuông, một phía để ngỏ, trên có vòm cung, với bánh xe để dây thừng vắt qua, rõ ràng vẫn còn có thể dùng được vì đã được dùng suốt sáu mươi năm trước hoặc gần đây hơn tuy chưa phải là gần đây lắm. Đến vấn đề chiều sâu và đường xuống giếng. Tôi cho là sâu độ hai mươi mét, vấn đề xuống giếng thì chẳng khác gì tu viện trưởng Thomas muốn đưa kẻ tìm của tới tận cửa kho tàng của ông, vì như chính anh đã thấy đấy, có rất nhiều tảng đá do thợ nề xây dẫn xuống thành một cầu thang đều đặn đi vòng quanh mctrong thành giếng”
“Chẳng lẽ chuyện này có thật sao? Hay có cái bẫy nào trong đó – giá như các tảng đá được sắp đặt sao cho vừa có một khối nặng nào đặt lên là đổ ụp xuống thì đi một nhẽ, đằng này tôi thử dẫm lên mấy lần, kể cả thọc gậy vào vẫn thấy nó hoàn toàn chắc chắn. Dĩ nhiên tôi và Brown quyết định đêm đó thử luôn”
“Tôi chuẩn bị rất kỹ. Biết mình sắp thám hiểm một nơi như thế nào, tôi mang theo rất nhiều thừng và đai vải buộc quanh mình, cả các thanh ngang làm tay vịn, đèn, nến, xà beng, tất cả nằm trong một cái túi dày khỏi gây ngờ vực. Thừng của tôi đủ dài, cái thừng ở chỗ bánh xe cũng còn tốt lắm”.
“Trong bữa cơm tối, tôi nói chuyện với chủ quán là sẽ đi ra ngoài chơi với người hầu lúc chín giờ tối để vẽ một phác thảo tu viện dưới ánh trăng (Trời tha tội cho tôi!) Tôi không hỏi chút gì về cái giếng, tôi nghĩ tôi đã biết đủ về nó như bất cứ ai ở Steinfeld này. Ít nhất – với một cái nhún vai – tôi không cần biết thêm gì về nó nữa”
“Đến đây mới là lúc cao trào. Và dù tôi ghét nghĩ về nó phải nói là gợi nhớ lại nó đúng như nó xảy ra lại là điều tốt cho tôi. Tôi và Brown lên đường lúc chín giờ tối, đem theo cái túi, không gây cho ai một sự chú ý gì cả và chúng tôi lẻn từ sau quán ra một con đường nhỏ đi đến bìa làng. Chỉ một lúc sau đến cái giếng. Chúng tôi ngồi ít phút ở chỗ lấy nước, chắc chắn không ai rình mò mình, chỉ nghe thấy tiếng ngựa ăn cỏ ở sườn đồi phía Đông. Hoàn toàn không có ai quan sát chúng tôi, trăng tròn sáng vằng vặc, giúp chúng tôi luồn dây thừng vào bánh xe rất chắc. Tôi buộc thừng quanh người bên dưới cánh tay, buộc một đầu thừng vào một cái vòng ở tảng đá. Brown mang đèn sáng đi theo tôi, tôi cầm một xà beng. Rồi cả hai thận trọng đi từng bước, đặt chân lên từng viên đá, sờ tường hai bên xem có dấu trên đá nào không”.
“Tôi vừa xuống vừa đếm khá to số bậc thang, đến số ba tám vẫn chưa thấy dấu vết nào đặc biệt, tôi hơi chột dạ, chỉ sợ mật mã của tu viện trưởng là một trò lừa bịp để chơi khăm người ta. Đến bậc bốn mươi chín là hết, buồn quá tôi lại leo trở lại, đến bậc ba mươi tám – Brown lúc đó cầm đèn lên trước tôi một, hai bậc – thì tôi nhìn kỹ và thấy hình viên đá có chút không đều tuy nhiên không có dấu vết gì”
“Có điều mặt nó nhẵn hơn những viên đá kia, có nghĩa hơi khác, tôi bèn lấy xà beng bổ vào, nghe một tiếng đùng đục, có thể do đang ở trong giếng. Nhưng hơn thế nữa, có lớp xi măng rớt ra, bên dưới có vết. Thế là lần được theo ông tu viện trưởng rồi, tôi rất tự hào, kể cả bây giờ nghĩ lại cũng vậy. Thúc thêm vài nhát xà beng nữa cho lớp xi măng rời hết ra, tôi thấy một phiến đá nhỏ mỗi chiều 60 cm , trên đó khắc một chữ thập. Lại thất vọng nhưng chỉ ít phút, vì chính Brown, đúng anh phải không nào, đưa ra một nhận xét vô tình “Chữ thập gì mà kỳ quá, trông như là những con mắt”. Phải anh nói thế không Brown?” .
“Tôi bèn giật lấy cái đèn từ tay Brown và nhìn vào đó, sướng khôn tả khi thấy chữ thập gồm có bảy con mắt, bốn xếp theo chiều dọc, ba theo chiều ngang. Vậy là giải thích xong dòng chữ thứ ba trên cửa sổ. Đây chính là ‘viên đá có bảy con mắt’ rồi còn gì! Nếu như các dữ liệu của tu viện trưởng đều chính xác thì thành phố lo đến ‘kẻ giữ của’ rồi đây. Nỗi lo ngày càng tăng nhưng tôi không bỏ cuộc” .
“Chẳng kịp suy nghĩ tôi đập hết lớp xi măng quanh tảng đá có dấu chữ thập đó, dùng xa beng nậy nó từ bên phía phải. Nó di chuyển ngay, hoá ra là một tấm đá nhẹ, tay tôi nhấc lên được, và lộ ra lối vào một cái hang. Tôi nhấc nó cẩn thận không để vỡ, đặt nó lên một bậc thang, vì sau này còn cần đóng lại. Rồi tôi lên bậc trên đứng chờ một lát. Chẳng biết tại sao nhưng tôi cứ tưởng như sẽ có con vật nào đó xổ ra. Chẳng thấy gì cả. Tôi thắp một ngọn nến, đặt thật khéo vào trong hang xem bên trong có luồng khí nào không với lại cũng muốn liếc vào một chút. Quả là có một luồng không khí hôi hám phụt ra suýt tắt ngọn nến nhưng sau đó ngọn lửa đứng yên. Hang này hơi thụt ra sau và rộng sang phải sang trái một ít. Bên trong tôi nhìn thấy những vật tròn màu sáng như là những túi gì đó. Còn chờ đợi gì nữa. Tôi thò mặt vào trong hang. Ngay phía ngoài không có gì. Tôi đưa cánh tay thọc vào bên phải và bên trái một cách hăm hở…”.
“Brown, cho tôi ly cô nhắc, anh chờ tôi một tí, Gregory…”
“Rồi sờ vào bên phải, tôi thấy cái gì cong cong, bằng da ẩm, rõ ràng là của một cái túi nặng, chẳng có gì đáng sợ, tôi mạnh dạn cho cả hai tay vào kéo nó về phía mình. Tuy nặng nhưng nó di chuyển dễ dàng hơn tôi tưởng. Ra đến cửa hang, khuỷu tay trái tôi chạm vào ngọn nến làm cho nó đổ và tắt mất. Tôi tiếp tục kéo vật kia từ cửa hang ra ngoài. Đúng lúc này Brown văng ra một tiếng gì đó rồi cầm đèn chạy tuốt lên trên. Anh ta sẽ nói cho anh hay anh ta đã thấy cái gì. Tôi giật mình nhìn theo anh ta, thấy anh ta đứng trên bờ giếng một lúc rồi đi xa ra mấy mét. Rồi tôi nghe tiếng anh ta khẽ nói “Thưa ông không sao”, tôi tiếp tục kéo cái túi tròn to kia trong bóng tối mịt mùng. Nó nằm ở cửa hang một lát, sau đó lăn lên ngực tôi và thò các tay của nó ra chẹt lấy cổ tôi!” .
Anh Gregory ạ, tôi nói với anh sự thực hoàn toàn. Lúc này tôi khiếp đảm đến cùng cực, chỉ chưa đến nỗi mất trí mà thôi. Tôi chỉ cố nói lại cho anh nghe những nét lớn. Tôi ý thức được có một mùi rất kinh tởm của một hình thù, một cái mặt lạnh ngắt áp vào mặt tôi rồi cứ thế mà chuyển động, với bao nhiêu tay chân – không rõ là bao nhiêu – hay là những vòi tua gì đó, quấn chặt vào người tôi. Tôi kêu thét lên, Brown kể lại, như một con vật, ngã khỏi bậc thang mình đang đứng, sinh vật kia cũng tuột xuống theo. Nhờ Trời cái đai quấn quanh tôi rất chắc. Brown không hề mất tỉnh táo, lại đủ khoẻ để kéo tôi lên và đưa tôi qua thành giếng, cũng chẳng hiểu là bằng cách nào, có lẽ anh ta cũng khó kể lại cho anh. Anh ta giấu các dụng cụ của chúng tôi trong một ngôi nhà bỏ hoang gần dưới và khó khăn lắm mới đưa nổi tôi về lại lữ quán. Tôi chưa thể giải thích được gì, Brown lại không biết tưởng Đức, sáng hôm sau tôi kể với mọi người chung quanh là bị ngã trong đống đổ nát của tu viện, họ tin. Và bây giờ, trước khi kể tiếp, tôi mong anh hãy nghe Brown tường thuật. Brown, kể cho mục sư nghe đi, những gì anh đã nói với tôi…”.
Brown kể, giọng rất bồn chồn, khẽ khàng:
“Vâng, nó là thế này, ông chủ đang bận ở trước miệng cái lỗ , còn tôi thì đang cầm đèn đứng canh chừng thì nghe có cái gì từ trên cao rơi tõm xuống nước. Nhìn lên tôi thấy dường như có khuôn mặt của người nào đó đang nhìn xuống chúng tôi. Tôi nói cái gì đó không biết, rồi giơ đèn lên, ánh sáng soi vào mặt hắn. Một lão già có bộ mặt kinh hoàng, chưa thấy cái mặt nào như vậy, sâu hoắm, tàn ác. Tôi lập cập chạy lên cho nhanh, nhưng lên khỏi giếng nhưng chẳng thấy ai cả, mà với thời gian ấy, ai chăng nữa cũng chưa thể đi khỏi được huống chi là một người đã già, mà tôi chắc chắn không phải là hắn đã xuống nằm phục ở dưới giếng. Sau đó nghe tiếng chủ tôi kêu lên một tiếng khủng khiếp, chạy ra xem thì đã thấy ông bị treo lủng lẳng ở sợi dây thừng, làm sao kéo ông lên, đưa ông ra khỏi giếng, tôi cũng không biết kể thế nào, như chủ tôi vừa nói vậy.”
“Anh đã nghe thấy chưa, Gregory?” ông Somerton nói “Theo anh thì anh giải thích như thế nào?”
“Toàn bộ câu chuyện nghe rùng rợn quá, bất thường quá khiến tôi cũng đâm hoảng loạn cả tinh thần, nhưng tôi đồ rằng cái người chăng cái bẫy này hắn chạy ra xem kế hoạch của hắn thành công ra sao”
“Đúng vậy, đúng vậy Gregory à. Tôi cũng nghĩ là như vậy, hầu như là vậy đấy, tôi nghĩ dó chính là lão Tu viện trưởng…Phải, chẳng còn gì để kể cho anh nữa, tôi đã qua một đêm khốn khổ với Brown ngồi bên cạnh. Ngày hôm sau cũng không khá hơn, không ngồi dậy được, ở đó không có bác sĩ mà có cũng chẳng giúp gì được tôi, tôi bảo Brown viết thư cho anh, sống qua một đêm khốn khổ nữa, bởi vì, Gregory ạ, tôi còn sốc một lần thứ hai, nó kéo dài hơn lần đầu. Có ai hay cái gì đó cứ rình tôi ở ngoài cửa suốt đêm. Tôi mường tượng thấy hai người. Luôn có những tiếng động nho nhỏ, thêm nữa là cái mùi hôi hám của sinh vật dưới giếng. Mọi thứ tôi đã mặc trên người vào cái đêm khủng khiếp ấy tôi lột hết, bảo Brown đem đi chỗ khác. Tôi biết anh ta đã vứt chúng vào lò hết rồi, ấy thế nhưng cái mùi ấy vẫn còn đó và nồng nặc lên cứ như là ở dưới giếng vậy, tệ hơn nữa là từ ngoài cửa xông vào. Nhưng cứ rạng sáng là mất hết mùi và các tiếng động. Tôi dám chắc sinh vật đêm không chịu được ánh sáng ban ngày, và tôi nghĩ giá như có ai đó đậy hộ tôi tảng đá thì chúng sẽ bị vô hiệu cho tới khi có ai đó lại nhấc tảng đá ra. Tôi chờ anh đến để làm hộ việc đó. Dĩ nhiên không thể nhờ chính Brown làm được, lại càng không thể nói với ai ở nơi đó.”
“Đó, câu chuyện của tôi là thế, nếu anh không tin thì tôi đành chịu, nhưng tôi nghĩ là anh tin”
“Tôi tin chứ” ông Gregory đáp “Còn cách nào khác nữa đâu. Tôi phải tin chứ! Chính mắt tôi đã nhìn thấy cái giếng đó và tôi cũng đã liếc mắt vào cái túi và các thứ đồ trong cái lỗ. Tôi nói thật với anh nhé, Somerton, tôi tin là cánh cửa của tôi đêm qua cũng có người canh đấy”
“Tôi chắc vậy, Gregory ạ, nhưng may nhờ trời, câu chuyện đã qua. Riêng anh có gì để nói về chuyến đến thăm cái nơi kinh khủng đó không?”
“Chẳng có gì mấy” ông Gregory đáp “Brown và tôi đặt lại phiến đá tương đối dễ dàng, lại còn lấy sắt và các mảnh chêm chèn chặt nó vào đó theo ý anh muốn, chúng tôi còn trát bùn lên mặt nó cho giống với tường giếng nữa. Có một thứ ở chỗ lấy nước làm tôi chú ý, nó được khắc vào đó mà anh không để ý. Một hình thù thô thiển trông khiếp vía lên được ấy – có lẽ giống con cóc là đúng nhất – và bên cạnh nó có một cái nhãn viết hai chữ Depositum custodi” [4]
Chú thích
[1] Có nơi dấu vàng
[2] Trên áo họ có dòng chữ không ai hiểu
[3] Trên một phiến dá có bảy con mắt
[4] Hãy giữ gìn những gì được giao phó cho mi