Truy Tìm Bức Tranh Thánh

Chương 6



Giáo sư Brunweld ít khi được đối xử kính cẩn. Đó là số phận của một học giả, từ lâu ông đã rút ra kết luận như vậy. Người ta lúc nào cũng chỉ nhắc đến hai chữ “Tổng thống” và ông cũng đôi khi tự hỏi là mình có nên tin vào hai từ ấy không. Điều chắc chắn là đang nửa đêm họ đã lôi ông ra khỏi giường và lặng lẽ điệu ông đến Lầu Năm góc. Người ta nói là cần hỏi ý kiến của một chuyên gia như Brunweld. Liệu có thể như vậy không nhỉ? Sau sự kiện Cuba và Dallas ông đã bắt đầu tin rằng mọi chuyện đều có thể xảy ra.

Ông đã có lần đọc ở đâu đó rằng Lầu Năm góc có rất nhiều tầng, cả ngầm dưới đất cũng như bên trên. Bây giờ ông sẽ có thể biết được điều đó có thật hay không.

Sau khi đưa cho ông một mẩu tài liệu người ta để ông lại một mình. Họ chỉ cần ông trả lời một câu hỏi. Ông đã nghiên cứu các điều khoản trong hơn một giờ sau đó gọi họ đến. Ông cho biết theo ý kiến của ông thì đó là một tài liệu xác thực và nếu như người Nga vẫn giữ được bản thứ hai của tài liệu này, cũng được ký vào năm 1876 thì tổ quốc hiện này của ông sẽ – nói theo lối nói của người Mỹ thế nào bây giờ nhỉ – à, phải rồi, sẽ gặp nhiều rắc rối lớn.

Ông bắt đầu hiểu rằng người ta đã nói rất nghiêm túc là ông sẽ không được phép rời Lầu Năm góc trước ngày thứ Hai. Một khi đã đọc ngày tháng ghi dưới góc tờ giấy thì ông không hề thấy ngạc nhiên nữa. Như vậy ông sẽ có ba ngày hoàn toàn tách được khỏi đám sinh viên hay thắc mắc và bà vợ lắm lời của mình. Sẽ chẳng bao giờ có dịp tốt hơn để yên tĩnh và đọc tuyển tập của Proust.

Romanov biết hắn không thể mạo hiểm đứng cạnh chiếc xe lâu hơn nữa. Bộ quần áo hắn mặc quá nổi bật khiến tất cả những ai ra vào cửa khách sạn đều có thể chú ý. Ba phút sau hắn quẳng chiếc mũ màu xám lên băng ghế sau và bảo Valcheck đánh xe ra khỏi bãi đỗ của khách sạn và quay về Sứ quán.

Valcheck gật đầu. Anh ta đã thực hiện mệnh lệnh của Romanov “thay thế” hai điệp viên người Anh dễ dàng như được người ta nhờ bịt một cái ống nước bị vỡ. Điều duy nhất không theo đúng kế hoạch là Valcheck đã phải cố gài kín nút áo của bộ đồng phục của người lái xe “bị thay”, Romanov nghĩ là hắn đã nhận ra một nụ cười tự ái trên mặt Valcheck khi anh ta nhận ra ai sẽ phải đóng vai lái xe.

Romanov đứng vào dưới một bóng râm chờ thêm nửa tiếng nữa, cho đến khi tin chắc rằng kế hoạch đã bị hủy bỏ từ bên London. Hắn vẫy một chiếc taxi và bảo tài xế đưa về đại Sứ quán. Hắn không nhận thấy người lái xe có vẻ nghi ngờ nhìn người hành khách mặc bộ đồng phục lái xe.

Chẳng lẽ hắn có thể để sổng Adam lần thứ hai ư? Chẳng lẽ một lần nữa hắn lại đánh giá thấp gã người Anh? Một lần nữa Yuri sẽ đòi hỏi một lời giải thích đáng tin cậy.

Trên đường về Sứ quán bỗng trong óc Romanov lóe lên một hình ảnh, nhưng hắn vẫn không phân biệt được rõ cảm giác đó. Có cái gì đó không đúng lắm đã xảy ra ở ngoài khách sạn. Chỉ cần suy nghĩ minh mẫn một lúc thôi là mọi sự sẽ rõ ràng. Hắn nhớ lại từng thời điểm trong ba mươi phút cuối cùng như quay ngược một cuốn phim, nhưng một vài khuôn hình vẫn rung lên nhòe nhoẹt.

Về đến Sứ quán, Valcheck đưa cho hắn một cái phong bì lớn và nói rằng do Moscow vừa gửi đến bằng chuyến thư ngoại giao.

Romanov đọc lần thứ hai bức thư vừa được giải mã, vẫn không hiểu điều đó có ý nghĩa như thế nào.

“Hiện có một tài liệu liên quan đến đại tá Gerald Scott, Huân chương Quận công, Huân chương chiến công, Huân chương Anh dũng và có thể sẽ có ích khi tiếp xúc được với đối tượng. Toàn bộ tài liệu sẽ được chuyển đến vào sáng nay. Muộn nhất là buổi trưa”.

Romanov băn khoăn không hiểu tổng hành dinh có thể phát hiện được điều gì về cha Scott mà có thể có lợi cho hắn. Ý định chưa hề thay đổi của hắn vẫn là đứa con trai sẽ sớm đi gặp thằng bố ở địa ngục trước khi có một mệnh lệnh tiếp theo nào của Moscow.

Romanov nghĩ đến cha mình và lối thoát mà có lẽ ông đã chọn là bỏ lại một đống của cải như vậy. Phải, hồi đó hắn đã may mắn.

Bây giờ, vì một may mắn tiếp theo, hắn cần phải giết cho được Scott và mang bức tranh Thánh về. Nếu như thất bại….thì hắn sẽ phải xuống gặp cả hai người cha.

Romanov vừa đi về phòng làm việc nhỏ mà người ta dành sẵn cho hắn, vừa nói:

– Hắn vừa rất thông minh, vừa là một kẻ khong chuyên nghiệp vô cùng may mắn.

Valcheck đi theo sau không bàn bạc lời nào mà chỉ hỏi tiếp theo đây phải làm gì.

– Hãy nói cho tôi biết cậu nhìn thấy những gì trong thời gian chúng ta ở khách sạn ấy.

Valcheck hỏi:

– Anh muốn nói gì?

Romanov vừa mặc lại bộ quần áo của mình, vừa nói:

– Không cần phải hỏi, mà hãy trả lời đi. Hãy nói lại cho tôi tất cả những gì cậu nhớ là đã nhìn thấy, kể từ lúc chúng ta đến trước cái khách sạn ấy.

Valcheck bắt đầu nói:

– Chúng ta tới khách sạn lúc mười giờ kém mấy phút, đỗ chiếc Mercedes ở phía bên kia đường và chờ Scott xuất hiện. Sau đó chúng ta chờ ở đó cho đến mười giờ hơn mấy phút nhưng không thấy bóng dáng Scott đâu.

– Không, không, không. Kỹ hơn nữa. Đừng chung chung như vậy. Ví dụ, cậu có nhớ là có điều gì không bình thường xảy ra trong khi chúng ta đứng đợi không?

Valcheck nói:

– Không có gì đặc biệt cả. Mọi người vẫn liên tục ra vào khách sạn, nhưng tôi cam đoan là không có Scott trong số những người đi ra hoặc đi vào.

Romanov hỏi:

– Cậu quá chủ quan khi cam đoan như vậy. Sau đó thế nào nữa?

– Sau đó ư? Sau đó anh ra lệnh cho tôi quay lại Sứ quán và chờ anh về.

– Lúc đó là mấy giờ?

– Lúc đó chắc chắn là mười giờ bẩy phút. Tôi nhớ chắc chắn là như vậy, bởi vì lúc chiếc xe du lịch chuyển bánh tôi có nhìn đồng hồ.

Romanov hỏi:

– Chiếc xe du lịch ư?

– Đúng vậy. Chiếc xe chở đầy nhạc cụ. Nó chạy lúc…

Romanov nói:

– Nhạc cụ. Đúng rồi. Bây giờ tôi mới nhớ ra điều gì cứ làm tôi lo lắng. Đàn Cello, đàn Violin, và một chiếc Công trơ bass nữa cũng không được chất vào hòm xe.

Valcheck có vẻ bối rối nhưng không nói gì.

– Gọi điện ngay cho khách sạn và hỏi xem những ai lên chiếc xe du lịch ấy và họ đang đi về hướng nào.

Valcheck chạy bổ đi ngay.

Romanov nhìn đồng hồ: Mười giờ năm lăm. Phải đi ngay, đi thật nhanh. Hắn ấn nút đàm thoại nội bộ bên cạnh điện thoại:

– Tôi cần một chiếc xe chạy rất nhanh, và quan trọng hơn nữa là một lái xe siêu hạng.

Valcheck quay lại vừa lúc Romanov đặt ống nghe xuống:

– Chiếc xe du lịch đó là của Dàn nhạc giao hưởng Hoàng gia thuê, họ đang đi biểu diễn vòng quanh châu Âu…

Romanov nói:

– Tiếp theo đây họ biểu diễn ở đâu?

– Franfurkt.

° ° °

Adam ra khỏi thị trấn nhỏ, không quên kiểm tra mọi sự bằng một đôi mắt quân sự lão luyện. Con phố chính vắng tanh nhưng có một thằng bé đang chơi đá bóng vào một bên sườn núi được quy ước, khung thành. Thằng bé quay lại, nhìn thấy Adam, nó đá quả bóng về phía anh. Adam đá trả lại, thằng bé bắt quả bóng bằng tay và ngoác miệng cười. Nụ cười biến mất khi nó thấy Adam vội vã đi nhanh về phía sườn núi. Trên dãy phố chính chỉ có vài ngôi nhà cũ kỹ. Một bên đường là khe núi rất nguy hiểm phủ đầy dây leo, trong khi phía bên kia trải dài thoai thoải những cánh đồng xanh tươi với những con bò cổ đeo chuông leng keng đang vui sướng nhảy nhót trên bãi cỏ. Đàn bò khiến Adam thấy đói bụng.

Anh đi tiếp lên núi cho đến khi gặp một khúc quanh. Đứng ở góc này anh có thể quan sát xuống tận chân núi trong vòng nửa dặm mà không bị ai phát hiện. Anh đứng đó thử xem kế hoạch mình đề ra có khả thi hay không, chỉ một lúc sau anh đã phát hiện rất nhanh những chiếc xe kiểu Anh hoặc mang biển số Anh trong vòng hai ba trăm mét trở lại. Cũng không khó nhận thấy rằng ít có người nước ngoài nào thích mua một chiếc xe của Anh.

Hai mươi phút tiếp theo đó anh đã vẫy khoảng bảy chiếc xe mang biển số anh chạy về hướng Lausanne nhưng không ai dừng lại. Adam quên biến mất rằng ngày xưa khi còn mặc quân phục thì vẫy xe thật dễ dàng. Hồi đó hầu như tất cả mọi người đều dừng lại. Anh nhìn đồng hồ: chỉ có thể mạo hiểm thêm vài phút nữa là cùng. Ba chiếc nữa không dừng lại, thế rồi chiếc thứ tư đi chậm lại chỉ để chạy nhanh hơn trong khi Adam vội vã chạy tới.

Lúc mười một giờ hai mươi Adam quyết định không thể đứng trên đường nữa. Anh nhìn xuống khe núi và nhận ra không còn cách nào khác ngoài việc cuốc bộ. Anh nhún vai và bắt đầu bước lên những bậc thang dẫn xuống một thung lũng hy vọng gặp một con đường khác mà trên bản đồ được đánh dấu khá rõ. Adam buột miệng chửi thề khi nhìn thấy một khoảng đất trống trải. Giá như anh bắt đầu đi cách đây một giờ.

– Tôi e rằng Nam Cực đã chết.

– Tại sao?

– Bởi vì giờ đây chúng ta biết rõ rằng cha anh đã dính dáng đến việc giúp đỡ cho Goering chết một cách dễ dàng.

– Tôi không hiểu.

– Anh không thể hiểu được mặc dầu điều đó hoàn toàn đơn giản. Anh chàng đồng hương người Anh lúc – nào – cũng – vững – vàng của anh là con trai của một thằng chó đẻ đã tuồn cyanua vào phòng giam Goering ở Nuremberg. Phần thưởng cho sự phục vụ ấy của hắn hóa ra lại là bức tranh Thánh của Sa hoàng.

– Nhưng tất cả các thành viên trong nhóm D4 của chúng ta đều cho rằng anh ta là hy vọng duy nhất của chúng ta.

– Tôi chẳng cần biết D4 của các anh nghĩ cái mẹ gì cả. Nếu hồi chiến tranh thằng bố có thể đứng về phía bọn Đức thì tại sao trong hòa bình thằng con lại không thể làm việc cho người Nga?

– Cha nào con nấy mà.

– Hẳn rồi.

– Vậy thì tôi phải làm gì bây giờ?

– Cứ báo cáo cho chúng tôi biết những việc làm của Bộ ngoại giao về chuyện này. Còn lại điệp viên của chúng ta ở Thụy Sĩ sẽ lo.

– Nhanh nữa lên!

Romanov rít lên mặc dù hiểu rằng không phải là vì người lái xe của Sứ quán không đủ tài nghệ. Lúc nào hắn cũng cảm thấy đang bị tuột mất một tia sáng, một kẽ hở, một cơ hội để đuổi kịp. Thực tế kim đồng hồ trên đồng hồ cây số chỉ cần thêm lên năm kilômét một giờ nữa là có thể khiến họ lao xuống vực thẳm. Lúc ở trên đường cao tốc họ đã nháy đèn liên tục và người lái xe không hề rời tay khỏi nút bấm còi, đồng hồ tốc độ không hề tụt xuống dưới một trăm ba mươi kilômét một giờ.

– Nhất định phải đuổi theo hắn cho đến tận biên giới.

Hắn cứ nhắc đi nhắc lại và nhìn vào bảng đồng hồ. Sau khi họ phóng được hơn một trăm cây số chỉ trong vòng có năm lăm phút cả ba người bắt đầu nhìn chằm chằm về phía trước tìm chiếc xe du lịch, nhưng phải thêm ba mươi cây số nữa Valcheck mới chỉ về phía trước và hét to:

– Nhất định là kia rồi, cách đây khoảng một kilômét trên sườn núi.

Romanov nói, mắt không rời khỏi chiếc xe du lịch.

– Ép chúng ra khỏi đường!

Người lái xe của Sứ quan phóng vọt lên để vượt qua rồi ngay lập tức đánh mạnh tay lái sang bên trái khiến người lái xe du lịch phải đạp hết phanh và chúi sang bên lề đường. Valcheck ra hiệu cho người lái xe du lịch đi chậm lại.

Romanov nói:

– Không ai được nói gì, để mọi chuyện cho tôi, và đứng gần xe để phòng bất trắc.

Hắn nhảy ra khỏi xe và chạy về phía chiếc xe du lịch, mắt chằm chằm tìm một bóng người đang chạy trốn. Hắn sốt ruột bám vào của xe cho đến khi người lái xe bấm nút và cánh cửa to tướng bật mở. Romanov nhảy lên, hai người kia đi sau vài bước. Hắn rút hộ chiếu trong túi ra dí vào mặt người lái xe đang sợ chết khiếp và hét lên:

– Ai là người phụ trách ở đây?

Stephen Grieg đứng lên:

– Tôi là giám đốc công ty. Tôi có thể…

Romanov nói:

– Cảnh sát Thụy Sĩ đây.

Grieg toan hỏi thì Romanov đã nói:

– Sáng nay khi rời khỏi Geneva các anh có chở thừa người nào không?

Grieg nói:

– Không.

Romanov cau mặt:

– Trừ phi nếu anh muốn nói đến anh trai của Robin Beresford.

Romanov hỏi, lông mày hắn ngước lên nghi ngờ:

– Anh trai của Robin Beresford à?

Người trưởng đoàn trả lời:

– Phải. Adam Beresford. Nhưng anh ta chỉ đi cùng chúng tôi đến Solothurn rồi xuống.

Romanov nhìn quanh tìm một gương mặt đàn ông:

– Ai trong các anh là Robin Beresford?

Một giọng véo von vang lên từ cuối xe:

– Tôi đây.

Romanov đi về phía cuối xe, hắn nhìn thấy chiếc đàn công trơ bass, thế là mọi chuyện đã ăn khớp. Chính điều đó đã làm hắn cứ áy náy mãi về một cái gì đó không có trong kịch bản. Phải, đó chính là điều không hợp lý. Tại sao cô ta lại không để cây đàn trong hòm xe cùng với nhạc cụ của mọi người? Hắn nhìn xuống người phụ nữ khổng lồ ngồi sau cái nhạc cụ quái vật.

– Anh cô là người có tên là Adam?

Robin nói:

– Phải.

– Hoàn toàn trùng hợp.

Cô nói, cố không để lộ sự hồi hộp:

– Tôi chẳng hiểu ông định nói gì cả.

– Người tôi đang tìm hóa ra cũng có tên là Adam.

Robin nói:

– Một cái tên khá là thông thường. Có lẽ ông không bao giờ đọc chương một của Kinh Thánh thì phải?

Romanov nói tiếp, mắt nhìn cô gái một cách dò xét:

– Cao một mét tám hai, có lẽ tám lăm thì đúng hơn. Tóc đen, mắt đen, gầy và chắc. Không có vẻ là anh cô lắm.

Robin vuốt mớ tóc đỏ ra phía sau nhưng vẫn không đứng lên. Romanov cảm thấy từ những khuôn mặt lo lắng xung quanh một điều: đó là chính Scott đã từng có mặt trên xe.

Hắn nhấn mạnh từng lời:

– Anh trai cô định đi đâu sau khi xuống xe?

Robin nói, vẫn không thay đổi giọng nói lịch sự một cách khó chịu:

– Tôi không biết.

– Tôi sẽ cho cô một cơ hội để hợp tác với chúng tôi. Anh cô đi về hướng nào?

– Còn tôi nói lại với ông một lần nữa, tôi không biết.

Romanov mói:

– Nếu cô không trả lời câu hỏi của tôi thì tôi buộc phải bắt giữ cô.

Robin lạnh lùng hỏi:

– Theo sự ủy quyền của ai?

Romanov định đưa hộ chiếu ra, nhưng nghĩ lại hắn thấy cô gái này có vẻ đáo để hơn cả người lái xe lẫn anh chàng trưởng đoàn. Hắn bèn nói vẻ vững vàng:

– Theo sự ủy quyền của cảnh sát Thụy Sĩ.

– Vậy thì chắc ông vui lòng cho tôi xem giấy tờ?

Romanov sẵng giọng:

– Cô không được xúc phạm tôi như vậy.

Hắn đứng cao lừng lững trước mặt cô.

Robin đứng dậy nói:

– Chính ông là người đang xúc phạm tôi. Ông lái xe trước mặt chúng tôi như một thằng điên, suýt nữa làm chúng tôi lăn xuống vực. Rồi ba người các ông nhảy xổ vào như bọn cướp Chicago, tự xưng là cảnh sát Thụy Sĩ. Tôi chẳng biết các ông là ai hay là cái gì nhưng tôi có thể cho ông biết hai điều bí mật. Ông cứ thử chạm đến tôi xem, bốn mươi ba người trên xe này sẽ đánh cho ông và hai người kia nhừ tử ra đấy. Và thậm chí nếu các ông thoát khỏi xe này mà còn sống sót, thì hãy nhớ rằng chúng tôi là những thành viên của Dàn nhạc giao hưởng Hoàng gia và do đó là khách mời của chính phủ Thụy Điển. Mấy phút nữa, sau khi qua biên giới chúng tôi sẽ trở thành khách mời của chính phủ Tây Đức, vì thế các ông đang dọn đường để lên trang nhất của tất cả các tờ báo trên thế giới đấy. Chỉ một hành động này các ông cũng tạo ra một ý nghĩa mới cho mấy từ “Sự kiện ngoại giao” – Cô cúi xuống chỉ tay vào mặt hắn – Vì thế tôi nói cho ông biết nhé, với tư cách là một phụ nữ đàng hoàng tôi nhổ toẹt vào mặt ômg.

Romanov đứng sững nhìn cô một hồi, rồi lùi lại trong khi Robin vẫn trừng mắt nhìn. Khi ra đến cửa trước hắn vẫy Valcheck và gã lái xe ra hiệu đi. Hai người kia miễn cưỡng tuân lệnh. Chân Romanov vừa chạm đất người lái xe du lịch đã đóng sập cửa lại, nhanh nhẹn cài số một rồi cho xe chạy tiếp lên con đường cao tốc.

Cả dàn nhạc quay lại nhìn Robin và nồng nhiệt hoan hô cô – kiểu nồng nhiệt thông thường chỉ dành cho nhạc trưởng.

Tràng vỗ tay tiếp tục và không được tán thưởng lắm. Robin ngã vật xuống ghế. Cô run bần bật không sao kìm nổi và nhận ra rằng không ai trong số bốn mươi ba người đàn ông kia dám giơ một ngón tay lên để chống lai Rosenbaum.

Sir Morris Youngfield nhìn quanh: mọi người vẫn ngồi nguyên tại chỗ trong khi nghe người trưởng nhóm thông báo ngắn gọn. Sir Morris nhìn số Hai, lần này vẫn ngồi ở cuối bàn, ông nói:

– Xin các ông hãy nghe báo cáo mới nhất.

Lawrence bắt đầu nói:

– Thưa các ngài, tôi e rằng báo cáo không được rõ ràng lắm. Hai điệp viên giỏi nhất của chúng ta đã được chọn để đến đón Scott tại khách sạn Richmond theo kế hoạch đã định để đưa anh ta về sứ quán Anh một cách an toàn.

Sir Morris hỏi:

– Vậy có chuyện gì không?

– Không một ai trong số người của chúng ta ở Geneva biết rõ cả. Chỉ biết là người của chúng ta không hề đến khách sạn đó và sau đó không ai nhìn thấy hai điệp viên đó nữa.

Bucsh hỏi:

– Cảnh sát Thụy Sĩ nói thế nào?

Lawrence quay lại phía người Mỹ, nói:

– Cảnh sát Thụy sĩ chẳng được tích sự gì. Họ biết rằng chúng ta không phải lực lượng nước ngoài duy nhất tham gia vào vụ này. Vì thế như vẫn thường làm trong các hoàn cảnh tương tự, họ không hề tỏ rõ ý định đứng về bất cứ bên nào.

Snell nói:

– Cái bọn Thụy Sĩ chết tiệt này.

Matthews hỏi:

– Vậy chúng ta có biết hiện nay Scott đang ở đâu không?

Lawrence nói:

– Chúng ta cũng không có kết quả gì trong việc tìm kiếm anh ta.

Matthews mỉm cười trước vẻ ngượng ngùng của Lawrence. Anh nói tiếp:

– Chúng ta chỉ biết chắc là anh ta đã lên chiếc xe du lịch cùng với cô gái tên là- anh nhìn xuống tờ giấy trước mặt – Robin Beresford. Nhưng khi đến cửa khẩu thì người của chúng ta chờ sẵn ở đó không thấy có anh ta trong số những người ngồi trên xe. Xe của dàn nhạc dự định sẽ đến khách sạn đặt sẵn ở Franfurkt vào lúc một giờ vì thế khi đó chúng ta sẽ có thể tìm hiểu thêm.

– Cảnh sát Đức tỏ ra hợp tác hơn cảnh sát Thụy sĩ nhiều- Lawrence nói thêm.

Sir Morris hỏi:

– Trong lúc này chúng ta còn có việc gì để làm nữa không?

– Kiểm tra tất cả mọi chỗ thông thường, mặt khác tiếp tục theo dõi Romanov. Tên này đêm qua tình cờ lại cũng đến biên giới Pháp. Một đầu mối cũ của chúng ta đã nhận ra hắn mặc dầu hắn đã cắt tóc ngắn và không hợp với vẻ mặt hắn chút nào.

Matthews nói:

– Vậy thì lúc này Scott có thể ở bất cứ chỗ nào ư?

Lawrence lưỡng lự rồi nói đều đều:

– Tôi không biết.

Sir Morris từ đầu bàn bên kia nhìn thẳng vào mặt Lawrence nhưng không nói gì.

Snell hỏi:

– Ông nghĩ là anh ta có liên lạc với ông không?

– Hầu như chắc chắn, nếu như anh ta còn sống.

Bucsh nói:

– Nếu như Romanov vẫn còn ở lại Thụy Sĩ thì chắc chắn là Scott còn sống. Bởi vì một khi đã đoạt được bức tranh Thánh hắn sẽ chạy về phía Đông ngay.

Lawrence nói:

– Đúng vậy. Và chúng tôi cũng có người ở các sân bay để kiểm tra mọi chuyến máy bay về phương Đông. Vì vậy tôi đề nghị là chúng ta sẽ tiếp tục theo dõi các tiến triển sắp tới và sẽ họp lại ở đây vào bảy giờ sáng mai, trừ trường hợp Scott liên lạc được với tôi trước đó.

Sir Morris gật đầu và đứng lên. Mọi người cũng đứng dậy. Sir Morris nói:

– Cám ơn tất cả các ngài.

Ông bước về cuối phòng, lúc đi qua Lawrence ông lẩm bẩm:

– Lúc nào có thể có lẽ anh lại phòng tôi một tý.

Adam vừa trượt vừa ngã những mét cuối cùng để xuống khe núi trước khi ngã ùm xuống đáy khe. Tay anh đứt và chảy máu nhiều chỗ, quần rách tướp, bê bét bùn đất. Anh ngồi yên khoảng hai phút, cố lấy lại hơi thở bình thường trong khi nhìn lại lên con đường trên cao. Mất gần một giờ anh mới lăn hết quãng đường mà một hòn đá chỉ cần ba giây là xong. Tuy vậy vẫn còn có một cái lợi: từ trên đường sẽ không một ai có thể nhìn thấy anh. Anh nhìn qua thung lũng trước mặt, lúc này từ thung lũng bất cứ ai cũng có thể phát hiện ra anh vì thế không còn phương án nào khác nữa.

Adam dùng mắt để ước lượng và kiểm tra lại bằng bản đồ. Bản đồ không tác dụng lắm nhưng anh vẫn ước lượng được khoảng cách đến dải đá bên kia thung lũng khoảng hơn hai dặm gì đó. Ít nhất tấm bản đồ cũng hứa hẹn với anh là ở đó có một con đường khuất phía sau dải đá kia. Adam xem xét đất đai ở đây: cả một cánh đồng xanh mướt, không hề có mô đất nào che khuất tầm nhìn, rồi đến một con sông rộng và nông. Anh nhớ là mình đã ước lượng là có thể đi qua cánh đồng và tới được con đường kia trong khoảng hai mươi phút. Sau khi kiểm tra lại xem bức tranh Thánh có còn nằm trong túi không anh bắt đầu bước đi một cách loạng choạng.

° ° °

Romanov không hé răng nói lời nào kể từ khi ba người bọn hắn bị tống cổ một cách chẳng lấy gì làm vinh dự khỏi chiếc xe du lịch. Valcheck và người lái xe cũng không phát biểu một ý kiến nào. Romanov biết cô gái đã bắt được quả tang hắn tháu cáy, cho nên hắn không dám mạo hiểm để xảy ra một vụ xúc phạm ngoại giao nào nữa, nếu không chắc chắn sự việc sẽ được báo cáo ngay về Moscow. Nhưng Romanov sẽ không bao giờ quên con bé có cái tên đàn ông ấy.

Solothurn cách đây khoảng bốn mươi dặm về phía ngược lại, người lái xe không thể phóng hết quãng đường ấy trong vòng hai mươi phút bởi vì Romanov khăng khăng bắt anh ta đi chậm lại mỗi khi vượt qua những chiếc xe tải theo hướng ngược lại bọn họ. Họ kiểm tra từng người ngồi trên những chiếc xe chạy phía bên kia đường đề phòng trường hợp Scott vẫy xe xin đi nhờ. Đó là một việc cần thiết nhưng cũng có nghĩa là sẽ phải mất ba mươi phút mới quay lại đến Solothurn được. Ít nhất thì Romanov cũng cảm thấy tin rằng Scott không đi về hướng biên giới Đức – trừ phi hắn có thể cải trang thật tốt hoặc náu trong một cái hòm xe nào đó.

Vừa đến Solothurn, Romanov ra lệnh cho người lái xe bỏ xe lại giữa thị trấn trong khi họ đi lên cao hơn để xem có thể đoán được là Scott đã đi về hướng nào không. Tất cả những người dân địa phương mà bọn hắn hỏi thăm đều nói là không hề nhìn thấy một ai giống với Adam đi qua đây sáng nay. Romanov bắt đầu phân vân không hiểu hắn ta nên nhằm tới biên giới phía nào, vừa lúc ấy hắn nhìn thấy người lái xe đá quả bóng lại cho một thằng bé. Romanov nhìn xuống chân núi và suýt nữa quát mắng thằng bé thì nó quay lại và đá rất mạnh quả bóng về phía mình. Romanov bắt dính quả bóng và đá vào gôn. Romanov quay lại chỗ tay lái xe và sắp hét to gọi anh ta thì quả bóng lại xuất hiện ngay trước chân. Hắn giận dữ nhặt lên và ném mạnh về phía thằng bé thì nhìn thấy vẻ hy vọng trên khuôn mặt đang ngoác miệng cười. Romanov giơ cao quả bóng lên đầu, thằng bé vội chạy đến nhảy lên cố với lấy quả bóng, nhưng cố đến đâu nó cũng không thể nào với được.

Hắn nói chậm bằng tiếng Đức:

– Sáng hôm nay cháu có thấy người lạ nào đến đây không?

Thằng bé đáp:

– Có, có. Nhưng ông ta chẳng đá trúng quả nào cả.

Romanov hỏi:

– Ông ta đi đâu rồi?

Thằng bé nói:

– Lên trên núi.

Mặc cho thằng bé thất vọng Romanov buông rơi quả bóng và bắt đầu chạy, Valcheck và người lái xe chạy theo sau.

Thằng bé chạy theo và kêu lên:

– Nein, nein. Không.

Romanov quay lại và thấy thằng bé đứng ngay chỗ lúc nãy Adam đã đứng để vẫy xe, tay nó chỉ lên phía khe núi.

Romanov vội quay lại bảo người lái xe:

– Chạy về đem xe đến đây. Tôi cần cái ống nhòm và bản đồ.

Người lái xe chạy xuống chân núi, thằng bé chạy theo sau. Mấy phút sau chiếc Mercedes lướt đến cạnh Romanov, người lái xe nhảy ra đưa ống nhòm cho hắn trong khi Valcheck trải tấm bản đồ lên mũi xe.

Romanov chỉnh ống nhòm và bắt đầu quan sát khắp những ngọn núi phía xa. Mấy phút sau ống kính mới dừng lại ở một cái chấm màu nâu đang lên lên ngọn núi xa nhất.

Romanov buông một tiếng cộc lốc:

– Súng

° ° °

Adam biết rõ cái gì vừa xuyên vào vai mình và viên đạn được bắn ra từ đâu. Theo trực giác anh tiếp tục lăn tròn cho đến khi chạm vào cái cây gần nhất. Sau đó mới bắt đầu thấy đau. Mặc dầu viên đạn đã giảm gần hết sức mạnh vì khoảng cách quá xa như vậy nhưng nó vẫn nhói lên như rắn cắn, máu bắt đầu từ vết thịt bị xé chảy dọc theo áo khoác. Adam quay lại nhìn về phía sau. Không nhìn thấy bóng ai nhưng anh biết chắc là Romanov đang đứng đó chờ dể nã một phát thứ hai.

Adam khó nhọc quay lại và nhìn lên trên đỉnh dốc. Chỉ còn khoảng ba mươi mét nữa là đến bờ dốc phía bên kia, có nghĩa là đến nơi tạm thời an toàn. Nhưng anh sẽ phải chạy qua đỉnh dốc, phơi mình khá lâu trước những phát súng nguy hiểm đang rình. Thậm chí nếu có thoát được thì Romanov vẫn có thể dùng xe đuổi kịp trong vòng ba mươi phút.

Nhưng dù sao đây cũng là cơ hội duy nhất còn lại. Adam bò chậm, rất chậm từng phân lên đỉnh dốc, nhờ những bụi cây mà anh vẫn có thể dùng làm vật che chắn. Anh lê kiểu cua bò, chân nào tay nấy. Sau khi bò được mười mét, Adam biết rằng độ dốc sẽ phản lại anh và Romanov sẽ dễ dàng nhắm vào cái mục tiêu phẳng di chuyển rất chậm. Anh trườn khoảng bốn lần nữa rồi dừng lại.

Mày không thể nào giơ súng mãi như thế được. Adam nghĩ thầm. Anh chậm rãi đến đến hai trăm.

Romanov chĩa ống nhòm vào bụi cây. Đột nhiên Adam bật dậy và chạy trối chét, như đó là hai mươi mét cuối cùng của vòng chung kết Olympic.

Khẩu súng nhằm vào cái điểm đang chuyển động trong khi Adam quăng mình qua đỉnh dốc. Viên đạn thứ hai sượt qua đầu anh.

Romanov bật chửi thề và nhìn qua ống nhòm. Hắn quay lại tấm bản đồ trải rộng. Valcheck cũng đi vòng qua xe đến đứng canh. Romanov bắt đầu cân nhắc một phương án khác:

– Trong mười phút hắn sẽ tới con đường kia – hắn chỉ vào giữa một đoạn đường chỉ màu đỏ chạy giữa Neuchatel và biên giới Pháp – Trừ phi bị trúng viên đạn đầu tiên sẽ khiến hắn khó khăn hơn. Vậy mất bao nhiêu phút thì tới được đó?

Người lái xe nhìn bản đồ và trả lời:

– Hai mươi lăm, nhiều nhất là ba mươi phút, thưa thiếu tá.

Romanov quay lại nhìn về phía dãy núi:

– Ba mươi phút, Scott. Đó là tất cả thời gian mày còn được sống.

Chiếc xe rồ máy phóng đi thằng bé liền chạy thật nhanh về nhà. Nó hổn hển kể cho mẹ nghe tất cả những chuyện vừa nhìn thấy. Mẹ nó mỉm cưởi vẻ hiểu biết. Chỉ có trẻ con mới hay tưởng tượng ra những chuyện như thật như vậy.

° ° °

Adam nhìn lên và nhận ra con đường chỉ còn cách khoảng một dặm. Anh chạy chậm nhưng không thay đổi tốc độ và mỗi lúc thấy càng khó khăn hơn. Anh lo lắng muốn đứng lại xem xét vết thương, nhưng muốn chờ ra đến đường đã. Viên đạn xuyên qua phần mềm làm anh đau đớn vô cùng. Chỉ cần viên đạn chệch xuống một inch nữa thôi là anh sẽ không thể nào đi được nữa. Anh yên tâm khi thấy máu chỉ chảy thành một vệt nhỏ trên chiếc áo khoác. Anh gập chiếc khăn tay làm bốn lần rồi đặt vào dưới áo sơ mi, chỗ vết thương. Anh biết mình không thể mạo hiểm đến một bệnh viện được. Nếu đêm đến và có thể tìm được một hiệu thuốc nào đó thì có lẽ anh có thể tự băng bó lấy.

Adam nhìn lại bản đồ. Bây giờ anh chỉ còn cách biên giới Pháp vài cây số nữa thôi. Vì thế, với vết thương này thì vượt biên giới sang Pháp càng nhanh càng tốt thì tốt hơn là theo kế hoạch cũ đi tiếp với Basle và Bremerhaven.

Anh bắt đầu tuyệt vọng vẫy mọi chiếc xe đi qua, không buồn để ý đến biển số nước nào nữa. Anh cảm thấy mình có thể an toàn trong vòng hai mươi phút nữa nhưng sau đó sẽ phải trốn lại vào núi. Không may làm sao, càng lúc càng ít xe chạy về phía biên giới Pháp hơn là những xe chạy về phía Basle và tất cả đều chẳng hề chú ý đến bàn tay anh vẫy. Anh đang lo là thời gian mỗi lúc càng gần đến lúc phải quay lại trốn vào núi thì một chiếc Citroen màu vàng tạt vào lề cách đó mấy mét.

Adam vừa đến cạnh chiếc xe thì một người phụ nữ ngồi ở ghế trước đã nhoài ra cửa sổ. Adam hỏi, cố phát âm từng từ một rõ ràng:

– Các – vị- đi -đâu -đấy?

Người lái xe cũng thò đầu ra nhìn Adam từ đầu đến chân và nói bằng giọng Yorkshire:

– Chúng tôi đi Dijon, có giúp gì được anh không, anh bạn?

Adam yên tâm vì bề ngoài tả tơi của mình không khiến cho họ bỏ chạy, anh nói:

– Vâng, làm ơn cho đi nhờ.

– Vậy ngồi ở đằng sau với con gái tôi.

Adam làm theo. Chiếc Citroen phóng đi. Adam nhìn qua cửa sổ sau kiểm tra: anh nhẹ người thấy con đường đàng sau vắng tanh không một bóng người.

Người đàn ông sang số ba và nói:

– Jim Hardcastle.

Jim là người có vẻ cởi mở với nụ cười ấm áp in đậm trên khuôn mặt mập mạp hồng hào. Mái tóc màu vàng sẫm chải thẳng vuốt ra sau và bị ẹp phẳng xuống bằng kem Brylcreem. Ông mặc áo khoác bằng vải tuytso và chiếc sơ mi hở cổ để lộ ra một mảng lông ngực màu hung hung. Adam thấy dường như ông không hề bận tâm về vòng bụng của mình bao giờ. Ông hích khuỷu tay về phía người phụ nữ ngồi bên cạnh, nói tiếp:

– Còn đây là vợ tôi, Betty.

Người phụ nữ quay lại, cũng một đôi má hồng hào và nụ cười nồng hậu như vậy. Tóc bà nhuộm vàng nhưng chân tóc vẫn lộ ra từng đám đen nhánh.

Jim Hardcastle nói thêm, hầu như sau khi nghĩ ngợi kỹ càng:

– Và ngồi bên cạnh anh là con gái chúng tôi, Lynda. Nó vừa tốt nghiệp xong và mới vào làm việc cho Hội đồng hành chính của quận tôi, đúng không con, Linda?

Linda gật đầu nũng nịu.

Adam nhìn cô gái vừa mới tập trang điểm cho nên không thành công lắm. Đôi lông mày tô đậm và màu son hồng không ăn nhập mấy với nhau khiến Adam nghĩ rằng điều khiến cô bé trở nên hấp dẫn có lẽ là do đang ở tuổi mười mấy là cùng.

– Còn tên anh là gì, anh bạn?

Adam nhớ lại cái tên trong hộ chiếu mới của mình, nói:

– Dudley Hulme. Các vị đang đi nghỉ hè à? – Anh nói thêm, cố không nghĩ đến cái vai đang đập thon thót.

Jim nói:

– Vừa đi làm, vừa đi chơi. Nhưng đoạn hành trình này là dành cho tôi và Betty. Chúng tôi bay đến Geneva hôm thứ bảy và thuê chiếc xe này để đi du lịch vòng quanh Italia. Đầu tiên chúng tôi đến Simplon trước. Đó là một thành phố hấp dẫn, chỉ sau Hull thành phố quê hương tôi mà thôi.

Lẽ ra Adam phải hỏi tỉ mỉ thêm, nhưng Jim không để anh chen vào câu nào.

– Anh thấy đấy, tôi làm nghề sản xuất mù tạt. Tôi là giám đốc xuất khẩu của công ty Colman và hiện nay đang trên đường đi dự hội nghị hàng năm của IMF. Có lẽ anh đã từng nghe thấy tên đó – Adam gật đầu có biết – Liên đoàn Mù tạt Thế giới,

Adam suýt bật cười nhưng vì vai đau nhói nên anh phải giữ vẻ mặt nghiêm nghị.

– Năm nay người ta bầu tôi làm chủ tịch IMF, anh có thể nói rằng đó là một địa vị khá cao trong ngành sản xuất mù tạt. Và nếu như tôi đã quan trọng như thế thì đó cũng là vinh dự cho Công ty Colmal. Đó là thứ mù tạt ngon nhất thế giới – ông nói thêm, dường như ông nói câu đó hàng trăm lần mỗi ngày. Là Chủ tịch tôi sẽ phải điều khiển toàn bộ hội nghị và sẽ chủ tọa bữa tiệc hàng năm của liên đoàn. Đêm nay tôi sẽ đọc bài chào mừng các vị đại biểu đến từ khắp các nước trên thế giới.

Adam nhăn mặt khi chiếc xe gặp ổ gà, nói:

– Hấp dẫn thật đấy.

Jim nói:

– Chắc chắn là thế. Người ta sẽ không thể tưởng tượng ở đó sẽ có bao nhiêu nhà sản xuất mù tạt – Ông ngừng lại một tý để gây ấn tượng – Một trăm bốn ba. Chắc chắn là nhà Frogs có một vài thứ khá, thậm chí nhà Krauts cũng không quá tệ nhưng vẫn không thể có ai qua mắt được Colman. Tôi vẫn bảo là mù tạt Anh là thứ ngon nhất. Cũng có thể giống nghề của anh vậy. Tiện thể anh làm nghề gì?

Adam nói:

– Tôi là quân nhân.

– Điều gì đã khiến một quân nhân vẫy xe đi nhờ tại biên giới Thụy Sĩ vậy?

Adam nói:

– Liệu tôi có thể nói với ông một chuyện bí mật được không?

Jim nói:

– Yên tâm đi. Họ nhà Hardcastle chúng tôi biết giữ mồm giữ miệng lắm.

Adam nói:

– Tôi là một Đại úy của Trung đoàn Hoàng gia. Tôi được thả xuống bờ biển Brindisi ở Italia từ Chủ nhật tuần trước mang hộ chiếu giả và mười bảng Anh. Tôi phải có mặt ở chỗ đóng quân ở Aldershot vào nửa đêm thứ bảy này.

Nhìn thấy vẻ mặt khoái chí của Jim, Adam nghĩ có lẽ đến Robin cũng phải tự hào về anh. Bà Hardcastle quay lại để nhìn vào mặt anh. Jim nói:

– Từ lúc anh mở miệng nói tôi đã biết ngay anh là sĩ quan rồi. Anh không thể coi tôi là thằng ngốc được đâu. Bản thân tôi hồi chiến tranh cũng từng là thượng sĩ của Quân đội Hoàng gia. Nghe cũng chẳng to tát gì đâu, nhưng tôi cũng có đóng góp cho đất nước đấy chứ. Dudley, anh có chiến đấu trận nào không?

– Một tí ti hồi ở Malaysia.

Jim nói:

– Tôi không tham gia cuộc chiến tranh ấy. Sau khi chiến tranh thế giới kết thúc tôi về nàh làm nghề sản xuất mù tạt. Vậy việc trở về Anh thì có khó khăn gì?

– Có khoảng tám người chúng tôi đang cố gắng trở về Aldershot và có hàng ngàn lính Mỹ tìm cách ngăn cản chúng tôi.

Jim dài giọng:

– Bọn Mỹ à. Chúng bao giờ cũng nhảy vào dây máu ăn phần khi mà chúng ta sắp thắng đến nơi rồi. Toàn là huân chương với vinh quanh thôi. Không, tôi muốn hỏi là có khó khăn gì thật sự không kia?

– Vâng, các sĩ quan biên phòng đã được thông báo là có tám sĩ quan Anh đang định luồn qua biên giới để vào Pháp và người Thụy sĩ muốn tóm được chúng tôi. Năm ngoái chỉ có hai trong số mươi hai sĩ quan là về được đến nơi đóng quân. Cả hai đều đã phải lẩn trốn nhiều tuần.

Jim nói:

– Bọn Thụy sĩ còn tệ hơn cả bọn Mỹ nữa kia. Thậm chí chúng chẳng thèm tham gia một cuộc chiến tranh nào – chúng chỉ vui mừng lừa lấy tiền của cả hai bên. Anh bạn, chúng sẽ không bắt được anh đâu, hãy tin tôi. Tôi sẽ để mắt đến việc này.

– Ông Hardcastle, nếu ông đưa được tôi qua khỏi biên giới thì tôi tin rằng tôi sẽ tự tìm được đườn về Aldershot.

– Anh bạn, coi như chuyện đó đã xong.

Đồng hồ chỉ nhiên liệu lóe sáng đỏ. Romanov hỏi:

– Khi đèn sáng lên như thế thì còn chạy được bao nhiêu kilomet nữa.

Người lái xe đáp:

– Khoảng hai mươi kilomet, thưa thiếu tá.

– Vậy thì chúng ta vẫn có thể tới được biên giới Pháp chứ?

Người lái xe đề nghị:

– Có lẽ an toàn hơn thì chúng ta nên dừng lại đâu đó để lấy thêm xăng>

Romanov đáp:

– Bây giờ không phải là lúc có thể an toàn được. Chạy nhanh hơn nữa đi.

– Vâng, thưa thiếu tá.

Người lái xe nói, anh ta nghĩ đây không phải là lúc nói rằng nếu anh ta cho xe chạy đến tốc độ tới hạn thì thậm chí nhiên liệu sẽ hết nhanh hơn nữa.

Romanov nói:

– Tại sao sáng nay không đổ xăng, đồ ngu?

– Tôi cũng đã định đổ xăng vào lúc ăn trưa.

Romanov nói:

– Vậy thì vì lợi ích của anh, chỉ còn việc cầu nguyện để chúng ta có thể đến được biên giới nữa thôi. Nhanh nữa lên.

Chiếc Mercedes phóng lên với tốc độ một trăm bốn mươi kilomet một giờ và Romanov chỉ thấy yên tâm khi nhìn thấy một tấm biển chỉ rõ chỉ còn mười cây nữa là họ đến được cửa khẩu. Mấy phút sau hắn mỉm cười khi thấy tấm biển chỉ còn năm cây số. Bỗng động cơ rên lên và như cố sức quay theo tốc độ mà bộ chế hòa khí yêu cầu. Kim đồng hồ chỉ tốc độ tụt xuống rất nhanh trong khi động cơ vẫn còn tiếp tục rên rỉ. Quán tính của bánh răng đưa chiếc xe đi tiếp được gần một kilomet nữa trước khi hoàn toàn đứng lại.

Romanov thậm chí không buồn quay lại nhìn người lái xe, hắn nhảy ra khỏi xe và bắt đầu chạy bộ nốt quãng đường ba kilomet còn lại để tới cửa khẩu.

Khi lướt qua một tấm biển báo hiệu rằng họ chỉ còn cách cửa khẩu hai kilomet. Jim bỗng nói:

– Tôi nảy ra một ý định.

Adam nói, vai cứ giật nảy lên từng hồi:

– Điều gì kia, thưa ông?

– Khi nào đến lượt chúng ta đưa hộ chiếu ra cho họ kiểm tra, anh hãy quành tay qua vai Linda và hôn nó. Còn lại mặc tôi.

Bà Hardcastle quay lại nhìn sát vào mặt Adam hơn trong khi cô gái đỏ bừng mặt. Adam nhìn cô Linda mặc váy ngắn môi tô son hồng và cảm thấy bối rối vì tình huống cha cô vừa đẩy họ vào. Jim nói kiên quyết:

– Dudley, đừng có cãi. Hứa với anh là kế hoạch trong đầu tôi sẽ thành công.

Adam không nói gì nữa, Linda cũng vậy. Mấy phút sau khi họ đến cửa khẩu của Thụy sĩ, Adam nhìn thấy có có hai trạm kiểm tra hải quan nằm cách nhau khoảng một trăm mét. Các lái xe đều tránh sang bên làm thành một hàng lần lượt đi qua buồng hải quan và một lái xe đang giận dữ. Jim đánh xe đến sát đàng sau anh chàng người Pháp đang hoa chân múa tay. Ông nói:

– Dudley, đưa hộ chiếu cho tôi.

Adam bèn đưa cho ông tấm hộ chiếu của người nhạc công.

Adam muốn hỏi tại sao ông ta lại chọn đường này. Jim nói:

– Tôi chọn đường này vì khi đến lượt chúng ta kiểm tra hộ chiếu thì viên sĩ quan hải quan sẽ vui mừng cho chúng ta đi qua mà không rắc rối gì nhiều.

Như để chứng mình cho lý luận của ông, phía sau họ các xe đã nhanh chóng xếp hàng, nhưng phía trước vẫn vang lên tiếng cãi cọ giận dữ. Adam vẫn cảnh giác nhìn cửa sổ phía sau chờ sẽ nhìn thấy Romanov xuất hiện. Quay lại anh yên tâm nhìn thấy người ta yêu cầu đánh chiếc xe tải trước mặt họ vào lề đường để chờ.

Jim nhanh nhẹn đánh xe đến buồng hải quan, nói:

– Ôm lấy cổ nhau đi, cả hai.

Cho đến tận lúc đó Adam vẫn giấu hai bàn tay trong áo khoác bởi vì chúng sây sát và thâm tím quá nhiều. Nhưng anh vẫn làm theo lời Jim bảo và ôm lấy Linda, hôn lên môi cô, một mắt vẫn mở để chờ Romanov. Anh ngạc nhiên thấy cô bé tách môi anh ra và bắt đầu đưa lưỡi thăm dò trong miệng. Adam nghĩ đến chuyện phản đối nhưng nhận ra không thể nào làm như vậy mà vẫn lịch sự hoặc tin cậy.

Jim đưa bốn tấm hộ chiếu và nói:

– Vợ, con gái và chàng rể tương lai.

Viên sĩ quan bắt đầu kiểm tra.

– Có vấn đề gì không, thưa ông?

Viên sĩ quan lật lật mấy tấm hộ chiếu và nói:

– Ông không có gì phải lo đâu. Hy vọng không làm phiền các vị.

Jim nói:

– Không, không. Thậm chí chúng không để ý nữa kia.

Ông chỉ qua vai và cười phá lên.

Viên sĩ quan nhún vai và đưa trả mấy tấm hộ chiếu, nói:

– Đi đi.

Anh ta vẫy tay ra hiệu cho họ đi tiếp.

– Jim sắc như mù tạt – đó là tên mà ở Hull họ gọi sau lưng tôi.

Ông quay lại phía Adam:

– Anh có thể thôi rồi đấy. Dudley, cám ơn anh.

Adam cảm thấy Linda miễn cưỡng rời ra.

Cô bẽn lẽn liếc nhìn anh rồi quay lại cha:

– Nhưng chúng ta còn phải qua cửa khẩu của Pháp nữa kia mà, đúng không?

Viên sĩ quan chỉ huy tốp sĩ quan hải quan nói:

– Chúng tôi đã luôn chú ý và tôi có thể đoan chắc với ông là hắn không đi qua cửa khẩu này. Nếu hắn có đi qua thì nhất định một trong các nhân viên của chúng tôi sẽ nhận ra. Nhưng tôi cho là ông muốn kiểm tra lại một lần nữa.

Romanov nhanh nhẹn đi tới và đưa cho từng người tấm ảnh chụp Adam nhưng không một ai nhớ là có kiểm tra một người nào giống thế cả. Mấy phút sau Valcheck cũng đến và khẳng định là trong tất cả các xe đang xếp hàng chờ làm thủ tục cũng không hề thấy Adam đâu, anh ta cũng thông báo là chiếc Mercedes đã được đẩy vào garage của đồn biên phòng.

Valcheck hỏi:

– Bây giờ quay lại vùng núi lúc nãy chứ, thưa thiếu tá?

– Khoan đã. Tôi muốn thật chắc chắn là hắn chưa lọt qua được cửa khẩu này.

Viên trưởng nhóm sĩ quan hải quan nhô ra khỏi trạm kiểm soát:

– Có gì không?

Romanov cau có nói:

– Không. Có vẻ ông đúng.

– Tôi nghĩ nhiều chứ. Nếu có ai trong số các nhân viên của tôi hôm nay để cho tên người Anh đó lọt qua cửa khẩu này thì hắn nên bắt đầu đi kiếm việc mới đi là vừa.

Romanov gật đầu:

– Còn nhân viên nào tôi chưa gặp không?

– Có lẽ không – trừ vài người đang ăn sáng. Ông có thể tìm thấy họ trong quầy bar cách đây một trăm mét về phía cửa khẩu Pháp.

Trong bar chỉ có bốn nhân viên hải quan và một cô phục vụ. Hai nhân viên hải quan đang chơi bi-a trong khi hai người kia ngồi uống cà phê ở một chiếc bàn phía trong. Romanov lại rút tấm ảnh chụp ra một lần nữa đưa cho hai người chơi bi-a xem. Cả hai đều khó chịu lắc đầu và quay lại chọc những quả bóng màu.

Hai người đi ra quầy. Valcheck đưa cho Romanov một tách cà phê và một chiếc sandwich, hắn cầm cà phên và bánh đi về phía chiếc bàn có hai nhân viên hải quan cuối cùng ngồi. Một trong hai người đang kể cho anh bạn đồng nghiệp nghe chuyện gặp một tay lái xe tải người Pháp định giở trò buôn lậu đồng hồ Thụy Sĩ qua cửa khẩu. Romanov đẩy tấm ảnh qua bàn, hỏi:

– Hôm nay các anh có thấy người này đi qua đây không?

Không ai tỏ vẻ nhận ra, người trẻ tuổi lại nói chuyện tiếp tục. Romanov nhấm ngụm cà phê và bắt đầu suy tính xem nên chạy đến Basle hay là gọi người đến tiếp viện để truy quét vùng đồi núi này. Rồi hắn nhận thấy anh chàng kia vẫn đang nhìn tấm ảnh. Romanov hỏi lại xem anh ta có nhìn thấy Scott không?

Viên sĩ quan trẻ tuổi nói, hơi vội vã quá:

– Không, không.

Nếu là ở Moscow thì Romanov đã có thể bắt anh ta phải nói “có” ngay, nhưng ở đây hắn cũng phải giữ chút phép lịch sự. Hắn khẽ hỏi:

– Lâu chưa?

Viên sĩ quan hỏi:

– Ông nói gì kia?

Romanov nhắc lại bằng giọng quả quyết hơn:

– Lâu chưa?

Mồ hôi bắt đầu túa ra trên trán viên sĩ quan, anh ta nói:

– Không phải hắn.

– Nếu như không phải là hắn thì anh biết là không phải hắn từ bao giờ?

Viên sĩ quan lưỡng lự:

– Hai mươi phút. Có lẽ ba mươi phút.

– Xe tải à?

– Một chiếc Citroen, tôi nghĩ vậy.

– Màu?

– Vàng.

– Các hành khách khác?

– Ba người. Trông như một gia đình. Người mẹ, người cha, cô con gái. Hắn ngồi ghế sau cùng với cô con gái. Người cha nói là họ đã đính hôn.

Romanov không hỏi thêm câu nào nữa.

Jim Hardcastle tiếp tục cuộc nói chuyện đơn phương trong hơn một giờ. Ông ta nói:

– Thật ra IMF tổ chức hội nghị hàng năm ở các thành phố khác nhau. Năm ngoái ở Denver, Colorado và sang năm sẽ ở Perth, Australia. Vì thế tôi sẽ được đi lang thang khá nhiều. Nhưng đã làm nghề xuất khẩu thì nhất định phải quen với việc đi khắp đó đây.

– Tôi chắc là ông phải quen rồi.

Adam nói, cố hiểu những lời vô bổ ấy trong khi vai vẫn đau nhức nhối.

Jim nói tiếp:

– Dĩ nhiên là tôi chỉ làm chủ tịch trong một năm nay thôi. Nhưng tôi đã có những kế hoạch để đảm bảo rằng những người đã bỏ phiếu cho mình sẽ không nhanh chóng quên cái năm 1966.

Adam nói:

– Họ sẽ không thể nào quên được nhanh đâu.

– Tôi sẽ cho họ thấy Colman cũng đã có một năm xuất khẩu đáng ghi nhớ.

– Tuyệt thật đấy.

Ông ta nói và cười phá lên:

– Phải, nhưng cũng phải thừa nhận rằng phần lớn sản phẩm của chúng tôi bị bỏ lại trên bàn ăn.

Adam cũng cười phá lên nhưng cảm thấy rõ ràng là bà Hardcastle và Linda đã nghe câu đùa đó nhiều lần.

– Dudley, tôi muốn mời anh dự bữa tiệc mừng chủ tịch nghiệp đoàn, với tư cách là bạn của tôi. Chắc chắn là vợ tôi tán thành điều đó.

Bà Hardcastle gật đầu, Linda cũng bẽn lẽn gật đầu theo.

Adam nói:

– Không thể có gì làm tôi vui mừng hơn như thế.

Nhưng e rằng chỉ huy của tôi sẽ không hài lòng nếu biết rằng tôi dừng lại trên đường quay về Anh để ăn tiệc. Mong ông hiểu cho.

Jim nói:

– Dĩ nhiên là tôi hiểu, nếu như chỉ huy của ông cũng là loại người như thủ trưởng của tôi ngày xưa. Tuy vậy nếu có dịp nào đến Hull thì nhớ gọi điện cho tôi.

Ông lấy một tấm danh thiếp trong túi áo trên và quài tay ra sau đưa cho Adam.

Adam đọc những dòng chữ in nổi trên tấm danh thiếp và băn khoăn không hiểu MIFT là cái gì, nhưng không hỏi.

Khi xe bắt đầu đi vào ngoại ô, Jim hỏi:

– Anh muốn xuống chỗ nào ở Dijon này?

Adam đáp:

– Chỗ nào khá trung tâm là được, miễn là tiện cho ông.

– Vậy thì bao giờ anh thấy tiện thì cứ hô lên. Dĩ nhiên là tôi bao giờ cũng đảm bảo rằng đó là một bữa ăn không có mù tạt.

Đột nhiên Adam nói:

– Ông có thể cho tôi xuống góc phố kia được không?

– Ồ, thế à?

Jim có vẻ buồn bì mất một người chịu chuyện hay ho đến thế. Ông miễn cưỡng đỗ xe lại bên vệ đường.

Trước khi chui ra khỏi xe, Adam cúi xuống hôn lên má Linda. Sau đó anh bắt tay ông bà Hardcastle. Jim nói:

– Rất vui vì được gặp anh. Nếu như anh thay đổi ý kiến thì hãy đến khách sạn tìm chúng tôi…ơ kìa, vai anh có máu đấy ư, anh bạn?

– À, đó chỉ là vài vết sây xước khi nhảy dù thôi. Không có gì đáng ngại cả. Bọn Mỹ chớ có nghĩ rằng chúng có thể vượt qua được tôi.

Jim nói:

– Không, không thể được, dĩ nhiên rồi. Thôi, chúc may mắn nhé.

Chiếc xe rời đi, Adam đứng lại trên hè phố nhìn theo họ. Anh mỉm cười cố vẫy theo rồi quay đi, nhanh chóng bước xuôi phố và tìm một khu vực có các cửa hàng. Chỉ một lúc sau anh đã vào đến trung tâm thành phố và nhẹ người vì thấy các cửa hiệu vẫn còn mở cửa. Anh bắt đầu nhìn quanh tìm một chữ thập xanh trên bảng hiệu. Phải đi thêm khoảng năm mươi mét nữa mới tìm được một cái, anh lưỡng lự bước vào.

Môt người đàn ông cao, tóc cắt ngắn mặc một chiếc áo khoác bằng da dài đứng trong góc nhà, lưng quay ra cửa. Rồi ông ta quay lại nhăn mặt nhìn vị thuốc muốn mua và vuốt chòm ria.

Adam bước đến chỗ người bán hàng cố nói thật tự tin:

– Ông có nói được tiếng Anh không?

– Hy vọng là có thể lói được.

Adam giải thích:

– Tôi cần một ít iod, băng vải, gạc và một miếng băng dính. Tôi bị ngã đập vai vào đá nhọn.

Người bán hàng nhanh chóng đặt những thứ được yêu cầu lên bàn, vẻ mặt không thích thú lắm. Ông ta nói:

– Đây là những thứ ông yêu cầu, nhưng ông sẽ thấy chúng có tên khác. Tất cả là hai mươi ba francs.

– Tiền Thụy sĩ có được không?

– Dĩ nhiên.

Adam hỏi:

– Quanh đây có khách sạn nào không?

– Ngay sau góc đường kia có một cái, hoặc là bên kia quảng trường cũng có.

Adam cám ơn và đưa tờ ngân phiếu Thụy sĩ sau đó rời hiệu thuốc đi tìm một cái khách sạn. Đúng như người bán hàng nói, khách sạn Pháp ở ngay gần đấy. Anh bước lên bậc thềm để vào khách sạn và thấy có rất nhiều người đứng chờ để nhận phòng. Adam vắt chiếc áo khoác lên bên vai bị thương và bước thẳng vào phía trong, vừa đi vừa nhìn tấm biển treo trên tường. Sau đó anh bước thẳng qua hành lang như một khách trọ đã ở đây lâu ngày và đi theo chỉ dẫn xuống một cầu thang hẹp, sau đó đi tiếp đến ba tấm biển chỉ dẫn khác. Cánh cửa thứ nhất có hình một người đàn ông, cánh cửa thú hai có hình đàn bà, cánh cửa thứ ba có hình một chiếc xe đẩy.

Anh ngập ngừng mở cánh cửa thứ ba và ngạc nhiên thấy trong đó chỉ là một căn phòng hình vuông với một bồn vẹ sinh cao dựa sát tường.

Adam khóa trái cửa lại và buông áo khoác rơi xuống sàn nhà. Anh đứng nghỉ hồi lâu rồi bắt đầu chậm rãi cởi áo xuống tận thắt lưng. Sau đó mở đầy một chậu nước ấm.

Adam thấy cám ơn những buổi huấn luyện cấp cứu bất tận, hồi đó anh chưa bao giờ tin sẽ có một lúc nào đó có tác dụng. Hai mươi phút sau cái đau bắt đầu dịu đi và thậm chí anh còn cảm thấy dễ chịu.

Anh cúi xuống đưa tay phải nhặt chiếc áo khoác và cố vắt lại lên vai. Chính lúc đó bức tranh Thánh từ trong túi áo rơi xuống sàn gạch. Khi bức tranh chạm vào nền gạch men, tiếng kêu phát ra khiến Adam sợ nó bị vỡ mất. Anh lo lắng nhìn xuống đất rồi từ từ quỳ xuống.

Bức tranh tách làm đôi tựa như một cuốn sách mở.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.