Điện thoại của Dance đổ chuông. Cô liếc nhìn vào danh tính người gọi.
“TJ. Tôi đang định gọi cậu.”
“Không có chút may mắn nào với những cái camera an ninh nhưng có một buổi khuyến mãi tại hàng cà phê Blue Mountain Jamaica ở Java House. Mua một cân rưỡi với giá một cân. Dù vẫn khiến cô tốn gần năm mươi đô nhưng thứ cà phê đó là hạng nhất.”
Cô không hề đáp lại câu pha trò của anh ta. Anh chàng nhận ra ngay. “Có chuyện gì vậy, sếp?”
“Thay đổi kế hoạch, TJ.”
Cô kể cho anh biết về Travis Brigham, những bằng chứng pháp y tương thích và một tá bó hoa bị đánh cắp.
“Cậu nhóc đang chạy trốn sao, sếp? Cậu ta đang lên kế hoạch thêm nhiều vụ nữa à?”
“Phải. Tôi muốn cậu tới nhà hàng Bagel Express, hỏi chuyện bạn bè hay bất cứ ai quen biết cậu ta, tìm xem cậu ta có thể đi đâu. Những người cậu ta có thể ở cùng. Những chỗ lui tới ưa thích.”
“Hiểu rồi, tôi sẽ vào việc ngay.”
Dance gọi tiếp cho Rey Carraneo, người cũng không gặp chút may mắn nào trong cuộc tìm kiếm nhân chứng ở bãi để xe nơi Tammy Foster đã bị bắt cóc. Cô thông báo vắn tắt tình hình với Rey và yêu cầu anh tới Game Shed để tìm kiếm bất cứ đầu mối nào về địa điểm Travis có thể tìm đến.
Sau khi ngắt liên lạc, Dance ngồi xuống tựa người ra thành ghế. Một cảm giác bất lực tuyệt vọng xâm chiếm khắp người. Cô cần các nhân chứng, cần ai đó để thẩm vấn. Đó là kỹ năng cô được sinh ra để làm, là công việc cô yêu thích và có năng lực. Nhưng giờ đây cuộc điều tra đã rẽ sang lãnh địa của bằng chứng và suy đoán.
Cô đưa mắt nhìn những bản in các bài đăng trên Bản tin Chilton.
“Tôi nghĩ tốt hơn chúng ta nên bắt đầu liên lạc với những nạn nhân tiềm tàng và cảnh báo họ. Người ta có công kích cậu ta trên các mạng xã hội không, trên MySpace, Facebook hay OurWorld ấy?” cô hỏi Boling.
“Tại những nơi đó việc này rất cỏn con bởi chúng là các trang mạng quốc tế. Bản tin Chilton mang tính địa phương hơn, vì thế chín mươi phần trăm trường hợp công kích Travis xuất hiện trên đó. Tôi sẽ cho cô hay một điều có thể hữu ích: Thu thập địa chỉ Internet của những người đăng bài. Nếu có được chúng, chúng ta sẽ liên hệ với các nhà cung cấp dịch vụ và tìm ra địa chỉ thực của họ. Điều này sẽ giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian.”
“Bằng cách nào?”
“Phải từ chính Chilton hay từ người quản lý trang web của ông ta.”
“Jon, anh có thể cho tôi biết điều gì đó về ông ta không, những thứ sẽ giúp tôi thuyết phục được Chilton hợp tác, nếu ông ấy từ chối?”
“Tôi biết về blog của ông ta,” Boling trả lời, “nhưng biết không nhiều lắm về con người ông ta. Ngoài bản tiểu sử trên chính Bản tin. Nhưng tôi sẽ rất thích được làm một chút công việc của thám tử.” Đôi mắt giáo sư lại lóe lên tia sáng cô thấy lúc trước. Anh ta quay lại với cái máy tính của mình.
Những câu đố…
Trong khi Boling bận rộn đắm chìm trong lãnh địa quen thuộc của mình, Dance nhận được cuộc gọi của O’Neil. Một đội điều tra hiện trường đã kiểm tra con hẻm đằng sau Bagel Express và tìm thấy vết cát cùng bụi đất tại nơi Travis từng dựng chiếc xe đạp ở đó. Họ đối chiếu với vết đất pha cát nơi con xế của Tammy bị bỏ lại trên bãi biển. Người thanh tra còn cho biết thêm rằng một đội của MCSO đã điều tra cả khu vực nhưng không ai nhìn thấy cậu thiếu niên.
O’Neil nói với cô rằng anh đã huy động thêm sáu nhân viên nữa ở đội Tuần cảnh Xa lộ tham gia cuộc truy lùng. Họ đang từ Watsonville tới.
Hai người ngừng liên lạc và Dance lại ngả người xuống ghế.
Sau vài phút, Boling thông báo anh ta đã tìm được một số thông tin về Chilton từ chính blog cũng như từ các kết quả tìm kiếm khác. Vị giáo sư quay trở lại trang chủ, nơi có đăng bản tiểu sử do chính Chilton viết.
http://www.thechiltonreport.com
Dance di chuột xuống, bắt đầu lướt qua nội dung blog trong khi Boling cung cấp thông tin, “James David Chilton, bốn mươi ba tuổi. Kết hôn với Patrizia Brisbane, có hai con trai, mười và mười hai tuổi. Sống ở Carmel. Nhưng ông ta cũng có bất động sản ở Hollister, có vẻ là nhà nghỉ, và vài bất động sản cho thuê quanh vùng San Jose. Gia đình họ được thừa kế lại sau khi ông bố vợ qua đời vài năm trước. Còn bây giờ, điều thú vị nhất tôi tìm thấy về Chilton là ông ta luôn có một thói quen kỳ quặc. Ông ta viết thư.”
“Thư?”
“Thư cho biên tập, thư cho dân biểu của ông ta, những thư bày tỏ quan điểm độc lập. Ông ta bắt đầu bằng thư tín thông thường, trước khi Internet thực sự bùng nổ, sau đó đến lượt email. Ông ta viết đến hàng nghìn thư. Nhục mạ, chỉ trích, tán dương, bình phẩm, những bình luận chính trị. Cô biết đấy. Người ta viện dẫn ra ông ta từng nói một trong những quyển sách ưa thích của mình là Herzog, tiểu thuyết của Saul Bellow[1] về một người đàn ông bị ám ảnh với chuyện viết thư. Về cơ bản, thông điệp của Chilton nhắc đến củng cố các giá trị đạo đức, vạch trần tham nhũng, tán dương các chính trị gia làm tốt, chỉ trích những người không làm được – chính xác với những gì đăng trên blog của ông ta. Tôi tìm thấy một số lượng lớn chúng trên mạng. Sau đó, dường như ông ta khám phá ra thế giới của blog. Ông ta bắt đầu Bản tin Chilton từ khoảng năm năm trước. Bây giờ, trước khi tôi tiếp tục, có lẽ sẽ hữu ích nếu cô được biết một chút về lịch sử các blog.”
[2. Một nhà văn Mỹ nổi tiếng g61c Canada.]
“Tất nhiên rồi.”
“Tên gọi này xuất phát từ ‘weblog’, khái niệm do một nhân vật có uy tín trong làng máy tính, Jorn Barger, đưa ra năm 1997. Ông ta viết một nhật ký trực tuyến về những chuyến đi của mình và những gì ông ta đang thấy lên web. Cho đến lúc ấy, người ta ghi lại suy nghĩ của họ trên mạng từ nhiều năm rồi, song điều khiến các blog trở nên nổi bật là khái niệm ‘đường dẫn’. Nó là chìa khóa của một blog. Cô đang đọc thứ gì đó và cô bắt gặp phần có gạch chân hay để chữ đậm làm tham chiếu trong phần văn bản, bấm vào đấy và nó dẫn cô tới một nơi khác.”
“Kiểu kết nối này được gọi là ‘siêu văn bản’[2]. Bốn ký tự H-T-T-P trên một địa chỉ trang web nghĩa là gì? Chúng là viết tắt của ‘Giao thức truyền siêu văn bản’[3], một phần mềm cho phép cô thiết lập các đường dẫn. Theo quan điểm của tôi, điều này là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của Internet. Có khi là quan trọng nhất. Vậy đấy, sau khi siêu văn bản đã trở nên phổ biến, các blog bắt đầu phát triển mạnh. Những ai có khả năng viết mã bằng HTML[4] – ngôn ngữ tạo siêu văn bản, một dạng ngôn ngữ của máy tính để tạo các đường dẫn – sẽ tạo nên các blog của riêng họ rất dễ dàng. Nhưng ngày càng có nhiều người muốn nhập cuộc và không phải ai cũng đủ hiểu biết về công nghệ. Vậy là các công ty đưa ra những chương trình mà bất cứ ai, à phải, hầu hết mọi người, có thể sử dụng để tạo nên các blog kèm đường dẫn – Pitas, Blogger và Groksoup là những gã tiên phong. Rồi vô số kẻ khác theo đuôi. Giờ đây tất cả những gì cô phải làm là có một tài khoản Google hay Yahoo, và cô có thể tạo cho mình một blog. Kết hợp với giá lưu trữ dữ liệu phải chăng thời này – và ngày càng hạ xuống từng phút – kết quả là cô có cả một thế giới blog trong tầm tay.”
[2. Hypertext.]
[3. Hyper Tex Transfer Protocol.]
[4. Hyper Tex Markup Languege.]
Bài thuyết trình của Boling thật sinh động và tuần tự. Hẳn anh phải là một giáo sư rất xuất sắc, Dance thầm nghĩ.
“Trước vụ Mười một tháng Chín[5],” Boling giải thích, “các blog phần lớn liên quan tới máy tính. Chúng được dân công nghệ viết ra dành cho dân công nghệ. Tuy thế, sau thảm họa đó, một loại blog mới xuất hiện. Chúng được gọi là blog chiến tranh, sau vụ khủng bố cùng cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq. Những người viết blog đó không quan tâm đến công nghệ. Bọn họ quan tâm đến chính trị, kinh tế, xã hội, thế giới. Tôi mô tả sự khác biệt như thế này: Trong khi các blog trước Mười một tháng Chín đều hướng nội – hướng về chính bản thân Internet – thì các blog chiến tranh lại hướng ngoại. Những người viết nên nó nhìn nhận bản thân họ như các nhà báo, một phần của thứ được biết tới như Truyền Thông Mới. Họ muốn được thừa nhận là dân làm báo, cũng giống như các phóng viên CNN và Washington Post vậy, và họ muốn được nhìn nhận thật nghiêm túc. Jim Chilton là một nhân vật viết blog chiến tranh thuộc hàng tinh túy. Ông ta không hề bận tâm tới bản thân Internet hay thế giới công nghệ, ngoại trừ việc nó cho phép ông ta truyền bá thông điệp của mình. Ông ta viết về thế giới thực. Hiện tại, cả hai bên – những người viết blog truyền thống và những người viết blog chiến tranh – liên tục chiến đấu để giành ngôi vị số một trong thế giới của blog.”
[5. Vụ khủng bố tấn công hai toà tháp Trung tâm thương mại Thế giới ở New York ngày 11/9/2001.]
“Đó là một cuộc tranh đua sao?” cô hỏi, không khỏi cảm thấy thú vị.
“Với họ thì đúng là thế.”
“Họ không thể cùng tồn tại sao?”
“Có chứ, nhưng đó là cả một thế giới được thúc đẩy bởi cái tôi và họ sẽ làm bất cứ điều gì có thể để leo lên đỉnh cao. Và điều ấy đồng nghĩa với hai thứ. Thứ nhất, có càng nhiều người đăng ký tham gia càng tốt. Thứ hai, quan trọng hơn – có càng nhiều blog khác đặt đường dẫn tới blog của cô càng tốt.”
“Loạn quá nhỉ.”
“Rất rất loạn. Còn bây giờ, cô đã hỏi tôi có thể cho cô biết điều gì khiến Chilton hợp tác hay không. Được thôi, cô cần nhớ Bản tin Chilton là một thứ có thật. Nó quan trọng và có tầm ảnh hưởng. Cô cũng để ý thấy một trong những bài đăng sớm nhất vào chủ đề Cây thập tự ven đường là từ một nhân sự quản lý của Caltrans chứ? Ông ta muốn biện hộ cho công tác kiểm tra chất lượng trên xa lộ của họ. Điều đó cho tôi biết các quan chức chính quyền và các CEO[6] thường xuyên đọc blog này. Những gã này sẽ cảm thấy cực kỳ bực bội nếu Chilton nói gì không hay về họ. Bản tin nghiêng về các vấn đề mang tính địa phương, nhưng vì địa phương ở đây là California, điều đó cũng đồng nghĩa những vấn đề đó thực ra chẳng hề địa phương chút nào. Mọi người trên toàn cầu đều để mắt tới chúng ta. Tất cả đều tìm đọc về tiểu bang này dẫu cho họ có yêu hay ghét nó. Vậy là bản thân Chilton nổi lên như một nhà báo nghiêm túc. Ông ta chịu khó tìm hiểu nguồn thông tin của mình, ông ta viết tốt. Ông ta luôn xử sự chừng mực và lựa chọn những vấn đề thực sự – ông ta không phải là kẻ thích buôn chuyện giật gân. Tôi đã tìm kiếm về Britney Spears và Paris Hilton[7] trên blog của ông ta, tìm lùi lại bốn năm, và không cái tên nào trong hai cái tên kể trên xuất hiện.”
[6. Chief Executive Officer.]
[7. B. Spears và P. Hilton là hai nhân vật nổ tiếng có nhiều vụ tai tiếng trong giới nghệ sĩ ở Mỹ.]
Dance không khỏi bị ấn tượng với điều này.
“Ông ta cũng chẳng phải là người làm bán thời gian. Từ ba năm trước ông ta đã dành toàn thời gian cho việc viết bản tin rồi. Và ông ta vận động ráo riết cho nó.”
“‘Vận động’ có nghĩa là gì?”
Boling cuộn màn hình xuống dưới chủ đề Trên sân nhà trong trang chủ.
http://www.thechiltonreport.com.
CHÚNG TA ĐANG TRỞ NÊN TOÀN CẦU!
Tôi rất vui được thông báo Bản tin đã nhận được sự tán thưởng từ khắp nơi trên thế giới. Nó đã được lựa chọn làm một trong những blog ưu tiên số một trên một trang web chuyên cung cấp chức năng RSS mới (được viết tắt từ cụm từ “Really Simple Syndication”) sẽ kết nối tới hàng nghìn blog, trang web và bản tin trên khắp thế giới. Vinh quang thuộc về các bạn, những độc giả của tôi, vì đã giúp Bản tin trở nên được ưa thích như vậy.
…
“RSS là một thứ lớn lao tiếp theo nữa. Kỳ thực nó có nghĩa là ‘Cung cấp địa chỉ RDF[8]’, ‘RDF[9]’ là ‘Khung mô tả nguồn tài nguyên’, nếu cô quan tâm, mà thực ra thì chẳng có lý do gì để cô quan tâm cả. RSS là một phương thức để làm tùy biến và đồng nhất nguồn tài nguyên được cập nhật từ các blog, trang web và podcast[10]. Hãy nhìn vào trình duyệt của cô. Ở trên đỉnh là một hình vuông nhỏ màu cam với một chấm ở góc và hai đường cong.”
[8. RDF Site Syndica tion.]
[9. Resource Description Frameword.]
[10. Hệ thống tải nội dung từ nhiều nguồn truyền thông khác nhau, có thể là tệp âm thanh, video… về máy tính cá nhân, sau đó có thể nghe, xem trên máy tính hoặc thiết bị kỹ thuật số cầm tay (khái niệm này khởi nguồn từ ghép giữa Ipod và Broadcast).]
“Tôi thấy nó rồi.”
“Đó là đường dẫn RSS cho cô. Chilton đã rất nỗ lực để được những người viết blog và trang web khác viện dẫn đến. Điều đó rất quan trọng với ông ta. Và cũng quan trọng với cô nữa. Vì nó cho chúng ta biết một điều về ông ta.”
“Cái tôi tinh tướng có thể tâng bốc chăng?”
“Đúng thế. Đó là một điểm cần ghi nhớ. Tôi cũng đang nghĩ tới thứ khác cô có thể thử với ông ta, một thứ tai quái hơn.”
“Tôi thích sự tai quái.”
“Cô, bằng cách nào đó ám chỉ việc ông ta đồng ý giúp đỡ là một phương thức quảng bá rất tốt cho blog. Nó sẽ khiến tên tuổi của Bản tin được nhắc đến rộng khắp trong giới truyền thông chính thống. Ngoài ra, cô có thể bóng gió rằng cô hoặc ai đó tại CBI rất có khả năng trở thành nguồn cung cấp thông tin trong tương lai.” Boling hất hàm về phía màn hình, nơi đang hiện lên nội dung blog. “Ý tôi muốn nói, đầu tiên và trên hết, với vai trò một phóng viên điều tra. Ông ta hiểu rõ giá trị các nguồn thông tin.”
“Được thôi. Ý tưởng hay đấy. Tôi sẽ thử.”
Boling nở một nụ cười. “Tất nhiên, khả năng khác là ông ta sẽ coi đề nghị của cô như một sự xâm phạm đến đạo đức nghề báo. Trong trường hợp đó, ông ta sẽ đóng sầm cửa lại trước mũi cô.”
Dance nhìn lên màn hình. “Những blog này… Chúng là một thế giới hoàn toàn khác.”
“Ồ, thế đấy. Và chúng ta mới chỉ bắt đầu hiểu được sức mạnh chúng sở hữu – mức độ làm thay đổi phương thức tiếp nhận thông tin và hình thành quan điểm do chúng gây ra. Hiện tại đang có chừng sáu mươi triệu blog.”
“Nhiều đến thế sao?”
“Phải. Chúng làm được những điều thật lớn lao: Lọc trước thông tin để cô không phải dùng Google dò tìm qua hàng triệu địa chỉ, là nơi giao lưu của những người có cùng quan điểm, một chốn khá vui vẻ, sáng tạo. Hay như trường hợp Bản tin Chilton, là nơi giám sát xã hội và khiến chúng ta trung thực hơn. Nhưng cũng tồn tại cả những mặt tối nữa.”
“Lan truyền tin đồn thất thiệt,” Dance nói.
“Một trường hợp điển hình, đúng thế. Nhưng còn thứ khác đáng quan tâm hơn chính là điều tôi đã nói lúc trước về Tammy: Nó cổ vũ mọi người hành xử bất cẩn. Chúng ta cảm thấy được bảo vệ trên mạng và trong thế giới ảo. Cuộc sống dường như vô danh, bài đăng dưới một biệt hiệu hay tên đăng nhập, và đó là tất cả những gì cô phơi bày về mình. Nhưng hãy nhớ: Bất cứ sự thật nhỏ nhặt nào về bản thân, hay lời nói dối mà cô, hay ai đó đưa lên mạng nói về cô, sẽ lưu lại trên đó mãi mãi, không bao giờ biến mất.”
Boling nói tiếp, “Nhưng tôi thấy vấn đề lớn nhất là người ta có xu hướng không đặt nghi vấn về mức độ chính xác của những gì được đăng. Blog đem lại ấn tượng về sự chân thực, thông tin dân chủ và thật hơn vì nó đến từ dân chúng chứ không phải các hãng truyền thông lớn. Nhưng quan điểm cá nhân tôi là những suy nghĩ đó chỉ toàn rác rưởi, và cách nhìn nhận này đã làm tôi bị nhiều người khó chịu trong cả giới học thuật lẫn cộng đồng viết blog. New York Times là một tập đoàn hoạt động vì lợi nhuận thật đấy, nhưng nó vẫn khách quan hơn gấp nghìn lần so với phần lớn blog. Có rất ít ý thức trách nhiệm trên mạng. Những lời phủ nhận cuộc tàn sát người Do Thái, những giả thiết trời ơi đất hỡi về vụ Mười một tháng Chín, những bài viết phân biệt chủng tộc, tất cả đều tưng bừng nở rộ nhờ vào các blog. Tính chân thực toát ra từ một gã lập dị tại một bữa tiệc cocktail sẽ là điều không tưởng khi gã ta tiết lộ Israel và CIA[11] đứng đằng sau vụ tấn công vào tòa tháp đôi Trung tâm Thương mại Thế giới.”
[11. Central Intelligent Agency: Cục tình báo trung ương Mỹ.]
Dance quay lại bàn làm việc của cô và nhấc ống điện thoại lên. “Tôi nghĩ tôi sẽ mang tất cả kết quả tìm kiếm của anh ra sử dụng, Jon. Chúng ta hãy thử xem chuyện gì sẽ xảy ra.”
~*~
Nhà James Chilton tọa lạc tại một khu vực khá giả của Carmel, khoảnh sân bao quanh ngôi biệt thự rộng tới gần một mẫu, toàn bộ xung quanh là những khoảnh vườn đủ kiểu được chăm sóc xén tỉa, bằng chứng cho thấy người chồng, người vợ hoặc cả hai đã dành rất nhiều thời gian vào dịp cuối tuần cho công tác nhổ cỏ dại và trồng cây thay vì bỏ tiền ra thuê thợ làm vườn chuyên nghiệp làm mấy việc đó.
Dance ngơ ngẩn nhìn quang cảnh bên ngoài đầy ghen tỵ. Làm vườn, cho dù đó là công việc cô ưa thích, nhưng vẫn không phải là một kỹ năng cô làm chủ được. Maggie từng nói giá như những cái cây không có rễ, hẳn chúng đã chạy trốn khi cô bước vào vườn.
Ngôi nhà là một dinh thự kiểu trang trại trải rộng, có tuổi đời chừng bốn mươi năm, và nằm chễm chệ ở phía cuối khu đất. Dance ước tính nó có sáu phòng ngủ. Xe hơi của gia đình này gồm một chiếc Sedan Lexus và một chiếc Nissan Quest, đỗ trong gian ga ra lớn chất đầy dụng cụ thể thao, không giống như những món đồ tương tự để trong ga ra của Dance, trông chúng có vẻ thực sự đã được dùng nhiều.
Cô không nén nổi tiếng cười khi trông thấy những khẩu hiệu dán trên thanh chống va đập mấy chiếc xe nhà Chilton. Chúng lặp lại y nguyên các hàng tiêu đề trên blog của ông ta, nào là: chống lại nhà máy khử mặn nước biển, chống lại dự luật giáo dục giới tính. Tả và Hữu, Dân chủ và Cộng hòa.
Ông ta có vẻ nhiều hơn là cắt và dán…
Trong khuôn viên còn có một chiếc xe nữa, đậu trên đường dẫn vào nhà, có lẽ là của một vị khách, vì chiếc Taurus mang một tấm đề can tế nhị của một công ty cho thuê xe. Dance đỗ lại và tiến tới phía cửa, bấm chuông.
Tiếng bước chân vang lên to dần, một phụ nữ tóc sẫm xuất hiện, người này khoảng ngoài bốn mươi tuổi, mảnh dẻ, mặc quần jean hàng hiệu và một chiếc áo sơ mi trắng, cổ áo dựng lên. Trên cổ bà ta là một sợi dây chuyền bạc hiệu Daniel Yurman có mắt to.
Đôi giày, Dance không thể dừng săm soi, là hàng nhập khẩu từ Ý và cực kỳ kiểu cách.
Cô xưng danh, xuất trình thẻ công vụ. “Tôi đã gọi điện trước. Để gặp ông Chilton.”
Khuôn mặt người phụ nữ lập tức chuyển thành nét cau mày điển hình khi ai đó gặp phải các nhân viên thực thi pháp luật. Tên bà ta là Patrizia hay Pa-treet-sia theo như phát âm của bà ta.
“Jim vừa mới kết thúc một cuộc gặp. Tôi sẽ báo cho anh ấy biết cô đang ở đây.”
“Cảm ơn bà.”
“Mời cô vào.”
Người phụ nữ dẫn Dance vào một căn phòng đậm chất tư gia, các bức tường phủ đầy ảnh gia đình, sau đó biến mất trong giây lát. Rồi Patrizia quay lại. “Chồng tôi sẽ ra ngay.”
“Cảm ơn. Đây là các con trai bà phải không?” Dance chỉ tay vào một bức ảnh chụp Patrizia, một người đàn ông hói đầu cao lênh khênh gầy gò mà cô đoán là Chilton, và hai cậu bé tóc đen làm cô nhớ tới Wes. Tất cả họ đều đang tươi cười nhìn vào ống kính.
Người phụ nữ tự hào nói, “Jim và Chet.”
Vợ Chilton tiếp tục lướt qua các bức ảnh. Từ những tấm bà chụp hồi trẻ ở bãi biển Carmel, Point Lobos, Mission, Dance đoán bà là dân địa phương. Patrizia xác nhận, phải, đúng là thế, và trên thực tế, bà đã lớn lên trong chính ngôi nhà này. “Bố tôi từng sống một mình ở đây nhiều năm. Khi ông mất, khoảng ba năm trước, Jim và tôi đã dọn về.”
Dance thích ý tưởng về một ngôi nhà gia đình, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cô nhớ tới việc bố mẹ Michael O’Neil vẫn đang sống trong ngôi nhà nằm kề đại dương nơi anh cùng các anh em từng lớn lên. Khi người bố suy yếu vì tuổi tác, mẹ anh đã nghĩ tới chuyện bán nó đi và chuyển đến sống ở một trung tâm dưỡng lão. Nhưng O’Neil đã kiên quyết giữ lại.
Khi Patrizia say mê chỉ vào những bức ảnh chụp lại mọi thành tích thể thao của gia đình – golf, túc cầu, tennis, ba môn phối hợp, Dance nghe thấy có tiếng nói vang lên ngoài tiền sảnh.
Cô quay lại và trông thấy hai người đàn ông. Chilton – cô nhận ra ngay nhờ bức ảnh – đội một chiếc mũ bóng chày, mặc áo sơ mi kiểu đấu thủ polo màu xanh lục và quần kaki ống bó sát. Những lọn tóc màu vàng thò ra từ dưới mũ. Ông ta rất cao và trông gọn ghẽ, chỉ một chút phần bụng hơi đẫy ra phía trên thắt lưng. Chilton đang nói chuyện với một người đàn ông khác tóc muối tiêu mặc quần jean, áo sơ mi trắng và khoác chiếc áo thể thao màu nâu. Dance chăm chú nhìn về phía họ, song Chilton đã hối hả đưa người đàn ông kia ra khỏi cửa. Ngôn ngữ cơ thể cho cô thấy ông ta không muốn vị khách, cho dù người này có là ai đi nữa, biết một nhân viên thực thi pháp luật đã tới gặp ông ta.
Patrizia lặp lại, “Chồng tôi sẽ ra ngay”.
Nhưng Dance đã bước qua bên cạnh bà và tiếp tục đi ra tiền sảnh, cô cảm thấy bà đang cứng người lại, muốn bảo vệ cho ông chồng. Song một người thẩm vấn cần ngay lập tức giành quyền làm chủ tình hình, bởi các đối tượng không thể được phép đưa ra luật chơi. Tuy nhiên khi Dance tới được cửa trước, Chilton đã quay trở lại và chiếc xe nọ rồ máy rời đi, mặt đường rải sỏi kêu lạo xạo dưới bốn bánh.
Đôi mắt màu xanh lục của ông ta – tương tự với màu mắt Dance – hướng sự chú ý về phía cô. Hai người bắt tay. Cô nhận thấy trên khuôn mặt người viết blog, một gương mặt rám nắng lấm chấm tàn nhang, sự tò mò và một chút thách thức hơn là vẻ cảnh giác dè chừng.
Thêm một lần trình thẻ công vụ chớp nhoáng nữa. “Chúng ta có thể ngồi đâu đó nói chuyện vài phút được chứ, ông Chilton?”
“Tất nhiên, trong phòng làm việc của tôi.”
Chilton dẫn cô băng qua tiền sảnh. Căn phòng họ đi vào có kích thước khá khiêm tốn và rất bừa bộn, hàng đống tạp chí, bài cắt ra từ báo và bản in từ máy tính chất cao như núi. Dance nhớ tới những gì cô biết được từ Jon Boling, và nhận thấy quả thực trò chơi làm phóng viên đang thay đổi: Những căn phòng nhỏ tại gia và các căn hộ giống như nơi này đã dần thay thế những tòa soạn báo trong thành phố. Dance không khỏi thú vị khi thấy một cốc trà bên cạnh máy tính của ông ta – mùi chamomile[12] tràn ngập trong phòng. Không thuốc lá, cà phê hay whisky cho những nhà báo mạng nghiêm túc thời nay, có vẻ là vậy.
[12. Một loại cây thuộc họ Cúc được dùng làm trà thảo mộc.]
Họ cùng ngồi xuống và ông chủ nhà mở đầu bằng cái nhướng mày. “Vậy ra ông ta đã phàn nàn, phải không nào? Nhưng tôi thấy tò mò đấy. Sao lại là cảnh sát, thay vì một vụ kiện dân sự?”
“Sao lại thế?” Dance không khỏi thấy lúng túng khó hiểu.
Chilton ngả người ra sau ghế, bỏ mũ xuống, đưa tay lên xoa cái đầu hói của mình rồi lại đội mũ vào. Ông ta đang bực bội. “Ôi, hắn chỉ trích chuyện bị phỉ báng. Nhưng chuyện đó đâu phải nhục mạ ai nếu nó đúng sự thật. Bên cạnh đó, thậm chí dù những gì tôi đã viết là sai, mà kỳ thực không phải thế, phỉ báng cũng chẳng phải là tội trạng tại đất nước này. Ở Nga thời Stalin[13] thì có thể đấy, nhưng ở đây thì chưa. Vậy vì sao cô lại can dự vào?”
[13. Lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô viết từ giữa thập niên 1920. Ông có công lãnh đạo Liên Xô giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Liên Xô – Đức.]
Đôi mắt ông chủ blog rất sắc bén và soi mói, thái độ thật quyết liệt; Dance có thể hình dung tại sao người ta lại có thể nhanh chóng cảm thấy ngán ngẩm khi trải qua nhiều giờ liền với sự hiện diện của ông ta.
“Tôi không rõ ý ông là gì.”
“Không phải cô đến đây vì Arnie Brubaker đấy chứ?”
“Không. Đó là ai vậy?”
“Ông ta là kẻ muốn hủy diệt bờ biển của chúng ta bằng cách dựng lên cái nhà máy khử mặn nước biển đó.”
Dance nhớ lại blog đăng trên Bản tin Chilton chỉ trích nhà máy nọ. Và dòng khẩu hiệu dán trên thanh chống va đập.
“Không, việc này không có liên quan gì tới chuyện đó hết.”
Trán Chilton cau lại. “Ông ta thích việc ngăn chặn được tôi lại lắm. Tôi đã nghĩ có thể ông ta đã nặn ra một lời cáo buộc hình sự nào đó. Nhưng xin lỗi nhé. Tôi đang đưa ra những suy đoán.”
Vẻ thủ thế trên khuôn mặt ông ta dãn ra. “Chỉ là, vậy đấy, Brubaker thực sự là một… cái gai.”
Dance tự hỏi không rõ hình ảnh dự định được dùng ban đầu để mô tả người chủ dự án vốn là gì.
“Thứ lỗi cho tôi”, Patrizia xuất hiện trên ngưỡng cửa và mang tới cho chồng bà một cốc trà mới pha. Bà chủ nhà hỏi Dance có muốn uống gì không. Lúc này bà ta đang mỉm cười nhưng vẫn nhìn cô đầy nghi ngờ.
“Cảm ơn bà, không cần đâu.”
Chilton gật đầu nhận cốc trà kèm cái nháy mắt trìu mến cảm ơn vợ mình. Bà vợ quay ra và đóng cửa lại.
“Vậy tôi có thể giúp gì được cô?”
“Blog ông lập ra về những cây thập tự ven đường.”
“Ồ, vụ tai nạn xe hơi ư?”, chủ nhà nhìn Dance chăm chú. Một phần vẻ thủ thế đã quay trở lại; cô có thể đọc được nét căng thẳng trong tư thế của ông ta.
“Tôi đã theo dõi tin tức. Cô gái đó bị tấn công, báo chí đang nói thế, vì cô bé đã đăng bình luận gì đó trên blog. Những người đăng bài cũng bắt đầu nói chuyện tương tự. Chắc cô muốn biết tên cậu bé kia.”
“Không. Cái đó chúng tôi biết rồi.”
“Có phải cậu ta chính là kẻ định dìm chết cô gái không?”
“Dường như là thế.”
Chilton hối hả nói, “Tôi không công kích cậu ta. Câu hỏi tôi đặt ra là liệu cảnh sát đã thực sự nghiêm túc trong cuộc điều tra và liệu Caltrans đã bảo dưỡng con đường đúng yêu cầu chưa? Tôi đã nói ngay từ đầu cậu ta không đáng trách. Và tôi đã ẩn tên cậu ta đi.”
“Không mất nhiều thời gian để đám đông tìm kiếm và phát giác ra cậu ta là ai.”
Miệng Chilton méo đi. Ông ta đã đón nhận lời nhận xét như một chỉ trích nhằm vào bản thân mình hay blog, dù kỳ thực không phải thế. Nhưng ông ta nhượng bộ. “Điều đó đúng là đã xảy ra. Được rồi, tôi có thể làm gì giúp cô?”
“Chúng tôi có lý do để tin Travis Brigham nhiều khả năng đang âm mưu tấn công những người khác đã đăng bài chỉ trích.”
“Cô chắc vậy không?”
“Không, nhưng chúng tôi buộc phải coi đó là một khả năng.”
Chilton nhăn mặt. “Ý tôi là cô không thể bắt giữ cậu ta sao?”
“Hiện tại chúng tôi đang tìm kiếm. Chúng tôi không biết chắc cậu ta đang ở đâu.”
“Tôi hiểu rồi”, Chilton nói chậm rãi, và Dance có thể nhận thấy từ đôi vai nhích lên và cần cổ căng cứng của ông ta là Chilton đang băn khoăn xem thực sự cô muốn gì.
Cô nghĩ tới lời khuyên của Boling và nói, “Thế này nhé, blog của ông được biết đến trên toàn thế giới. Nó rất được tôn trọng. Đây là một trong những lý do có nhiều người đăng bài trên đó đến thế.”
Tia sáng khoan khoái lóe lên trong đôi mắt ông ta rất mờ nhạt nhưng thật rõ ràng với Dance. Nó cho cô biết thậm chí cả những lời phỉnh nịnh thẳng thừng cũng được James Chilton đón nhận rất hào hứng.
“Nhưng vấn đề là tất cả những người đăng bài công kích Travis đều là mục tiêu tiềm tàng. Và con số này đang tăng lên từng giờ.”
“Bản tin là một trong những địa chỉ có tỷ lệ bình chọn cao nhất trong nước. Nó là blog được đọc nhiều nhất ở California.”
“Tôi không hề ngạc nhiên. Tôi thực sự thích nó.”
Dance luôn để ý đến thái độ bên ngoài của chính cô để không làm lộ ra sự phỉnh nịnh.
“Cảm ơn cô,” một nụ cười tươi hết cỡ làm khóe mắt ông chủ blog híp lại.
“Nhưng hãy nhìn vào điều chúng ta phải đối mặt: Mỗi khi ai đó đăng bài lên chủ đề Những cây thập tự ven đường, họ sẽ trở thành một mục tiêu tiềm tàng. Một số trong những người này hoàn toàn ẩn danh, một số sống ở nơi khác. Nhưng có những người sống gần quanh đây và chúng tôi e rằng Travis sẽ tìm ra danh tính của họ. Và khi đó cậu ta cũng sẽ đi tìm họ.”
“Ồ,” Chilton thốt lên, nụ cười biến mất. Bộ óc nhanh nhạy của ông ta lập tức đưa ra suy đoán. “Và cô đến đây vì địa chỉ Internet của họ.”
“Để bảo vệ họ.”
“Tôi không thể cung cấp chúng.”
“Nhưng những người đó đang gặp nguy hiểm.”
“Đất nước này hoạt động trên nguyên tắc tách riêng truyền thông và nhà nước.” Cứ như thể lời giảng đạo này có thể hạ gục lý lẽ của cô.
“Cô bé đó đã bị ném vào cốp xe và bỏ mặc cho chết đuối. Có thể ngay lúc này Travis đang lên kế hoạch cho một vụ tấn công nữa.”
Chilton giơ một ngón tay lên, ra hiệu bảo cô im lặng như một thầy giáo. “Đó là một con dốc rất nguy hiểm. Đặc vụ Dance, cô làm việc cho ai? Sếp cao nhất của cô là ai?”
“Chưởng lý tiểu bang.”
“Ừ, được lắm, cứ giả sử tôi đưa cho cô địa chỉ những người đăng bài lên chủ đề Những cây thập tự ven đường. Thế rồi tháng sau cô quay lại và yêu cầu địa chỉ của một anh chàng chỉ trích sai trái vừa bị chưởng lý tiểu bang sa thải vì, ồ, quấy rối chẳng hạn. Hay có thể cô lại muốn địa chỉ ai đó đăng bài phê phán thống đốc. Hay tổng thống. Hay chuyện này thì sao nhỉ – ai đó nói vài câu có thiện cảm về al-Qaeda[14]? Cô sẽ nói với tôi: “Lần trước ông đã cung cấp thông tin cho tôi. Sao lần này lại không?”.
[14. Mạng lưới khủng bố Hồi giáo cực đoan chịu trách nhiệm về vụ 11/9.]
“Sẽ không có lần nào nữa.”
“Cô nói thế nhưng…”
Như thể các nhân viên chính phủ lúc nào cũng chỉ thở ra điều dối trá vậy. “Cậu nhóc có biết cô đang truy tìm mình không?”
“Có.”
“Vậy thì cậu ta sẽ chuồn đến đâu đó để trốn, cô không nghĩ vậy sao? Cậu ta sẽ không lộ diện bằng cách đi tấn công ai khác. Không đâu, nếu cảnh sát đang truy nã ráo riết,” giọng ông ta thật quả quyết.
Dance tiếp tục với ngữ điệu chậm rãi một cách chừng mực, “Dẫu vậy. Ông biết đấy, ông Chilton, đôi khi cuộc đời là những vụ thỏa hiệp.”
Cô để lời nhận xét treo lơ lửng.
Ông ta nhướng một bên mày lên, chờ đợi.
“Nếu ông cung cấp cho chúng tôi các địa chỉ của những người sống trong vùng đã viết những bài chỉ trích nghiệt ngã nhất về Travis – chúng tôi thực sự đánh giá rất cao cử chỉ này. Có thể… vậy đấy, có thể chúng tôi sẽ làm được gì đó để giúp ông, nếu ông cần giúp một tay.”
“Chẳng hạn như?”
Dance lại nghĩ về những lời khuyên của Boling rồi nói, “Chúng tôi sẽ rất vui lòng đưa ra một thông báo về sự hợp tác của ông. Một quảng bá rất tốt.”
Chilton ngẫm nghĩ. Nhưng rồi cau mày. “Không. Nếu tôi giúp cô, có lẽ tốt nhất không nên nhắc tới chuyện đó.”
Cô cảm thấy hài lòng vì ông ta đang thương lượng. “Thôi được, tôi có thể hiểu. Nhưng có lẽ còn những thứ khác chúng tôi có thể làm.”
“Thật ư? Cái gì vậy?”
Nghĩ tới một đề xuất khác của vị giáo sư, cô nói, “Có thể, thế này nhé, nếu ông cần một đầu mối liên hệ nào trong các cơ quan thực thi pháp luật California… Nguồn thông tin. Những nguồn cao cấp.”
Vị chủ nhà nhoài người ra trước, mắt lóe sáng. “Vậy ra cô đang cố gắng mua chuộc tôi. Tôi đã nghĩ vậy. Chỉ muốn để cô bộc lộ ra ít nhiều thôi. Bắt thóp cô rồi nhé, đặc vụ Dance.”
Cô ngả người ra sau như vừa bị tát.
Chilton nói tiếp, “Kêu gọi đến tinh thần vì cộng đồng của tôi là một chuyện. Còn chuyện này…” ông ta phẩy tay về phía cô, “thật lợm giọng. Và đồi bại nữa, nếu cô muốn biết cảm nghĩ của tôi. Đó là kiểu mánh khóe tôi vẫn tố cáo trên blog của mình hàng ngày.”
Tất nhiên, triển vọng khác là ông ta có thể coi đề nghị của cô như một sự xâm phạm đến đạo đức nghề báo. Trong trường hợp đó, ông ta sẽ đóng sầm cửa lại trước mũi cô.
“Tammy Foster thiếu chút nữa đã bị giết. Rất có thể sẽ có những người khác nữa.”
“Tôi lấy làm tiếc về chuyện đó. Nhưng Bản tin Chilton là thứ quá quan trọng để tôi có thể đánh liều. Và nếu người ta nghĩ họ không thể ẩn danh đăng bài, điều đó sẽ làm thay đổi tính toàn vẹn của toàn bộ blog.”
“Tôi muốn ông cân nhắc lại.”
Vẻ bề ngoài nghiêm khắc của Chilton mờ dần. “Cô còn nhớ người đàn ông tôi đang tiếp chuyện khi cô tới đây chứ?”
Dance gật đầu.
“Gregory Ashton,” ông ta nói với chút nhấn mạnh, đúng cách người ta vẫn hay dùng khi nói về ai đó quan trọng với họ, nhưng lại chẳng có chút ý nghĩa nào với bạn. Chilton nhận thấy thái độ đón nhận không chút ấn tượng của Dance. Ông ta nói tiếp, “Ông ấy đang khởi lập một hệ thống blog và trang web mới, một trong những hệ thống lớn nhất trên thế giới. Tôi sẽ ở cấp cao nhất. Ông ấy chi ra hàng triệu để quảng bá nó.”
Đây chính là vấn đề Boling đã giải thích với cô. Ashton chắc hẳn chính là người đứng đằng sau nguồn dẫn RSS mà Chilton đã nhắc tới trong bài viết “Chúng ta đang trở nên toàn cầu”.
“Điều đó sẽ nhân rộng phạm vi của Bản tin ra gấp bội. Tôi có thể đề cập tới các vấn đề trên toàn thế giới. AIDS ở châu Phi, vi phạm nhân quyền ở Indonesia, những hành vi bạo lực ở Kashmir, các thảm họa môi trường tại Brazil. Nhưng nếu có tin đồn lọt ra cho hay tôi tiết lộ địa chỉ Internet những người đăng bài lên blog của mình, điều đó có thể gây tổn hại đến danh tiếng của Bản tin Chilton.”
Dance cảm thấy thất vọng, cho dù một phần trong cô, trên tư cách một người từng làm báo, đành miễn cưỡng thấu hiểu. Chilton không từ chối xuất phát từ tham lam hay tự cao tự đại, mà vì một đam mê chân thực dành cho độc giả của ông ta.
“Có những người có thể sẽ chết,” cô nài nỉ.
“Câu này đã được đưa ra trước đấy rồi, đặc vụ Dance. Trách nhiệm của những người viết blog,” ông ta hơi cứng người lại.
“Vài năm trước, tôi dành một bài riêng để nói về một nhà văn tên tuổi tôi phát hiện đã đạo một số đoạn văn từ một tiểu thuyết gia khác. Ông ta tuyên bố đó là chuyện tình cờ ngẫu nhiên, và nài nỉ tôi đừng công bố sự việc. Nhưng tôi vẫn đăng bài lên. Ông ta lại bắt đầu uống trở lại, và cuộc đời ông ta suy sụp. Đó có phải là mục đích của tôi không? Chúa ơi, không. Nhưng hoặc là các nguyên tắc tồn tại, hoặc là không. Tại sao ông ta lại được dễ dàng cho qua, trong khi tôi và cô thì không? Tôi từng đăng trên blog về một người trợ tế ở San Francisco, cũng là thủ lĩnh một phong trào tẩy chay đồng tính nam, và hóa ra nhân vật này cũng là một gã đồng tính ngầm. Tôi cần vạch trần trò đạo đức giả.”
Chilton nhìn thẳng vào mắt Dance.
“Và hắn tự tử. Vì những gì tôi viết. Tự tử. Tôi phải sống với điều đó mỗi ngày. Nhưng có phải tôi đã làm đúng không? Có. Nếu Travis tấn công một người nào nữa, khi đó tôi sẽ cảm thấy rất kinh khủng về chuyện ấy. Nhưng chúng ta đang phải đương đầu với những vấn đề lớn lao hơn ở đây, đặc vụ Dance.”
“Tôi cũng từng là phóng viên,” cô nói.
“Thật thế sao?”
“Phóng viên về tội phạm. Tôi hoàn toàn chống lại kiểm duyệt. Chúng ta đang không nói về điều tương tự. Tôi không hề thuyết phục ông thay đổi các bài ông đã đăng. Tôi chỉ muốn biết danh tính những người đã đăng bài để chúng tôi có thể bảo vệ họ.”
“Tôi không thể làm thế,” âm hưởng cứng rắn đã trở lại trong giọng nói của ông ta. Vị chủ nhà nhìn đồng hồ đeo tay. Cô hiểu cuộc nói chuyện đã kết thúc. Chilton đứng dậy.
Dẫu vậy, cô vẫn muốn thử một cú cuối cùng. “Sẽ không bao giờ có ai biết. Chúng tôi sẽ không tiết lộ tìm ra họ bằng cách khác.”
Đưa cô ra cửa, Chilton bật cười chân thành. “Bí mật trong thế giới của blog ư, đặc vụ Dance? Cô có biết lời lẽ lan nhanh thế nào trong thế giới ngày nay không?… Bằng tốc độ ánh sáng.”