Kẻ Hùn Vốn

Chương 13



Sau khi mở phiên tòa, chánh án Grosbeck nhìn về phía Mason qua phía trên kính mát và tuyên bố:

– Peavis kiện các hàng hoa Faulkner. Các luật sư: Frank Labley cho bên nguyên. Perry Mason oho bên bị.

– Chúng tôi đã sẵn sàng thưa ngài. – Labley nói mạnh mẽ và hướng mắt về phía bàn Mason.

– Chúng tôi cũng sẵn sàng. – Mason đáp lại.

Labley tỏ ra sửng sốt:

– Có phải ông nói rằng đã thực sự sẵn sàng biện hộ cho vụ kiện này không?

– Đúng thế.

– Lệnh đòi ra tòa đã thông báo cho ông hơi muộn – Chánh án lưu ý Mason – Ông có quyền xin hoãn lại, luật sư ạ.

– Thưa ngài, xin cảm ơn ngài, nhưng chúng tôi đi sẵn sàng.

Labley từ từ đứng dậy:

– Điều này thật hết sức bất ngờ, thưa ngài. Hầu như theo lệ thường. Người bào chữa cho bên bị sẽ yêu cầu hoãn lại khi có quá ít thì giờ giữa lệnh đòi ra tòa và phiên xử.

Mason tỏ ra hoàn toàn dửng dưng. Chánh án nghiêm nghị nói với Labley:

– Luật sư ạ, dù sao, phiên xử cũng đã được ấn định vào hôm nay, không phải ông là người có quyền xin hoãn quyền đó là của người bào chữa cho bên bị.

– Thưa ngài, tôi hiểu, nhưng… Cuối cùng, cũng tốt thôi, tôi sẽ gắng hết sức mình.

– Những bản khai nhân chứng đã được đăng ký chưa? – Chánh án hỏi Mason.

– Chưa, thưa ngài, nhưng tôi muốn gọi vài nhân chứng tới.

– Việc nghe nhân chứng sẽ mất bao nhiêu thời gian?

– Ồ, ít thôi…

– Tòa án thích nhận những bản viết làm chứng hơn…

– Thưa ngài, tôi hiểu… Nhưng tôi có quá ít thời gian để thu thập những bản viết này…

– Tôi sẽ cho hoãn lại để ông có thể làm được việc đó.

– Nhưng thưa ngài, tôi không mong được hoãn, nếu đồng nghiệp của tôi không nói rõ rằng việc hoãn này có nghĩa là đình chỉ…

Frank Labley nhảy chồm lên, vẻ giận dữ. Chánh án Grosbeck ra hiệu cho ông ta ngồi xuống, mỉm cười và nói với Mason:

– Rất tốt, Luật sư. Tòa sẽ nghe các nhân chứng của ông.

– Tôi chỉ bằng lòng với những bản viết, – Labley nói – dĩ nhiên tôi giành cho mình quyền phản cung và không thừa nhận những nhân chứng của bên bị.

– Đồng ý. Bắt đầu đi, ông Mason!

– Trước tiên, tôi sẽ gọi ông Peavis, người thưa kiện.

Peavis lê chân bước tới, giơ bàn tay phải lên một cách yếu ót, tuyên thệ, và ngồi vào ghế giành cho nhân chứng, nhìn Mason với thái độ thù địch, bình tĩnh.

– Ông có phải là người thưa kiện không? Ông Peavis.

– Xin một phút – Labley can thiệp – Trước khi nhân chứng trả lời, tôi tin rằng mình có quyền yêu cầu ông Mason cho biết ông đã trình tòa bản chứng nhận cổ phần mà lệnh đòi của Tòa yêu cầu ông trình chưa?…

Mason đáp:

– Tôi có nó ở đây.

– Có phải chứng từ chính thức không? – Labley hỏi, vẻ hoài nghi.

– Đúng.

Labley bình tĩnh lại, vẻ ngơ ngác.

Một cảnh sát, mặc thường phục ngồi ghế ở hàng cuối, đột nhiên đứng dậy và lặng lẽ rời phòng xử. Chánh án nhìn Mason vẻ ngẫm nghĩ.

– Hãy trả lời câu hỏi của tôi. – Mason nói với Peavis.

– Vâng, tôi là người thưa kiện.

– Cách đây ít lâu, ông định chiếm đoạt các cửa hàng hoa Faulkner, có đúng thế không?

– Đúng…

– Ông biết rằng một số cổ phần của công ty này là của Carlotta Lawley, phải không?

– Đừng làm mất thì giờ vô ích, ông Mason. Tôi là một nhà kinh doanh. Tôi thấy có cơ hội để kiểm soát các cửa hàng hoa Faulkner. Bản thân tôi không thể mua được các chứng thư. Tôi đã đặt quan hệ với Harvey J. Lynk và sẵn sàng trả một giá nào đó cho ông ta, nếu ông ta giành được các chứng thư đó.

– Ông Lynk có phải là một tay cờ bạc không?

– Tôi không biết gì cả và việc đó không liên quan gì đến tôi. Tôi đã dạm mua những cổ phần này khi ông ta nói với tôi là chúng đã nằm trong tay mình.

– A! – Mason reo lên vẻ hứng thú – Đề nghị ông đọc lại điều này, ông lục sự…

Ông lục sự đọc lại câu trả lời. Peavis vội vàng bổ sung.

– Đúng hơn là tôi yêu cầu Lynk kiếm cho tôi những cổ phần này.

– Chúng ta phải hiểu nhau cho đúng – Mason nói – Ông đã trao cho Lynk một số tiền nào đó để đổi lấy những cổ phần ấy?

– Tôi phản đối. Câu hỏi này không liên quan đến cuộc tranh luận. Đây là việc chẻ tư sợi tóc.

Mason mỉm cười.

– Trái lại câu hỏi này lại là cơ bản, thưa ngài, nếu ông Peavis đã thuê Lynk như là người môi giới để kiếm các cổ phần, thì những cổ phần này đã thuộc về Peavis khi chúng còn ở tay Lynk.

Peavis lắc đầu mạnh mẽ.

– Nhưng nếu ông Peavis chỉ dạm mua những cổ phần này ở Lynk – Mason nói tiếp – Nếu Lynk đã thực sự tậu được những cổ phần này, và nếu các chứng thư đã được lấy lại trước khi ông ta có dịp đem bán cho ông Peavis thì ông Peavis không có bất cứ một quyền gì đối với chúng, ông ấy thực sự chỉ hy vọng mua chúng mà thôi.

– Điều đó là hiển nhiên trước con mắt pháp luật. – Chánh án Grosbeck tán thưởng.

– Tôi sẵn sàng làm sáng tỏ điểm này. – Peavis nói – Tôi thuê Lynk như một người đại diện.

– Ông có cho ông ta tiền không?

– Trời ơi, không. Nhưng ông ta biết rằng tiền sẽ có khi ông ta có lý do đòi hỏi tôi.

– Ông muốn nói rằng: khi ông ta có các cổ phần phải không?

– Vâng…

Peavis liếc nhanh luật sư của mình rồi mạnh mẽ quay sang chỗ khác.

– Ông không thể trả lời câu hỏi này hay sao? – Mason nói.

– Việc chuyển lại các cổ phần không có gì liên quan tới việc trả tiền – Peavis khẳng định – Tôi thuê Lynk như là một đại diện để kiếm các chứng thư.

– Làm thế nào mà ông đã liên hệ được với Lynk?

– Phản đối – Labley phát biểu ngay – Cách mà người thưa kiện và Lynk đã biết nhau không quan trọng chút nào cả. Họ biết nhau, thế thôi.

– Nếu tòa cho phép, tôi sẵn sàng để treo câu hỏi này lại – Mason nói – Tôi không muốn lạm dụng thời gian của tòa. Tôi sẽ để cho ông Peavis rút lui và gọi một nhân chứng khác. Nếu những lời chứng về sau tỏ ra cần thiết cho một cuộc hỏi cung mới đối với ông Peavis về điểm đặc biệt này, tôi nghĩ rằng giữa chừng, tòa có thể đánh giá sự quan trọng của những sự kiện mà tôi làm sáng tỏ.

– Tôi không thấy những sự kiện có thể quan trọng đến mức ấy. – Labley lặp lại.

– Chúng ta hãy treo câu hỏi đó lại, như ông Mason gợi ý. – Chánh án Grosbeck tuyên bố.

– Ông có thể rút lui, ông Peavis. – Mason nói.

– Ông Coll, mời ông ra trước vành móng ngựa.

Sindler Coll tuyên thệ, rõ ràng là bất đắc đĩ. Ông ta ngồi xuống, không thoải mái. Sau khi khai xong căn cước và địa chỉ, Mason hỏi:

– Ông biết ông Peavis từ bao giờ?

– Từ gần mười năm nay.

– Ông làm nghề gì?

– Tôi làm các công việc giao dịch.

– Loại công việc giao dịch gì?

– Tất cả mọi công việc đang có.

– Ông Peavis đã đề nghị ông một công việc mà mục tiêu là tậu các cổ phần phải không?

– Đúng thế!

– Ông đã có một cuộc nói chuyện với ông Peavis về vấn đề này, ông ta đã trình bày ý định của mình và sau đó, ông đã chuyển lời cho Lynk phải không?

– Đúng thế!

– Nói một cách khác, ông đã làm môi giới phải không?

– Vâng, thưa luật sư.

– Theo chỗ ông biết, ông Peavis có gặp Lynk không?

– Trời ơi… Có, tôi tin rằng ông ta đã gặp Lynk.

– A… Vào lúc nào?

– Vâng, vào đêm mồng mười.

– Vào đêm Lynk bị giết…

– Vâng đúng thế. Ông ấy đã bị giết vào nửa đêm mồng mười.

– Làm thế nào mà ông xác định được giờ ấy?

– Ồ, đấy là điều tôi đọc được trên các báo hàng ngày…

– Ông đã gặp Lynk lần cuối cùng vào lúc nào?

– Trong buổi chiều mồng mười.

– Vào lúc mấy giờ?

– Lúc ba giờ.

– Ông ta đã nói với ông những gì?

– Ông ta nói với tôi rằng muốn nói chuyện với Peavis.

– Và ông đã làm gì?

– Tôi đi tìm Peavis.

– Ông có tham dự vào cuộc nói chuyện không?

– Có.

– Họ đã nói về việc gì?

Coll vặn mình trên ghế vẻ bối rối:

– Vâng Lynk đã nói với Peavis rằng ông ta có thể hoặc sắp giành được các cổ phần và Peavis phải sẵn sàng tiền trong tay để lấy.

– Ông đã hiểu điều đó như thế nào?

– Tôi đã diễn đạt tồi… Tôi chỉ muốn nói rằng Harvey Lynk muốn Peavis cầm sẵn tiền.

– Nói cách khác, không có tiền thì không có cổ phần, phải không?

– Tôi không biết. Tôi…

– Dù sao đi nữa, đấy chỉ là một phán đoán. – Labley nhận xét.

Mason lắc đầu.

– Không, điều đó kéo theo sự suy diễn về phần nhân chứng. Vậy thì, tôi rút lui câu hỏi này.

Chánh án Grosbeck mỉm cười, Mason tiếp tục vẻ mơ màng.

– Đúng thế. – Coll nói.

Labley gãi dưới cổ:

– Tôi tự hỏi nếu nhân chứng hiểu rõ câu hỏi ấy…

– Chúng ta sẽ cho đọc câu hỏi đó cho ông ta. – Mason nói.

Lục sự đọc câu hỏi và câu trả lời. Coll nói mạnh mẽ.

– Không, không, không phải thế… Tôi không nói Lynk đã yêu cầu ông ta ở đấy cùng với tiền… Đấy là lời luật sư đã mớm cho tôi.

Mason cười.

– Ông Coll này, dù sao đi nữa, Lynk cũng muốn Peavis mang theo tiền tới Lilac Canyon, số tiền đó có phải để thưởng cho những công việc làm được hoặc để trả tiền mua cổ phần hay không?

– Tôi… thực tình tôi không biết chính xác điều mà ông ta muốn. Tôi không nhớ rõ đã nói cái gì.

– Tới Lilac Canyon à? – Labley hỏi.

Coll giật nảy mình như bị ai châm kim vào người.

– Không, không, tôi không muốn nói như vậy, Lynk không nói về Lilac Canyon, ông ta chỉ nói rằng Peavis phải cầm sẵn tiền, bởi vì ông ta đã có các cổ phần.

– Ông ta có báo cho Peavis cần phải mang tiền tới đâu không?

– Không, ông ta không nói.

Labley ngập ngừng lưỡng lự nhìn vẻ mặt hoài nghi của chánh án Grosbeck rồi nói:

– Chỉ có thế thôi!

Mắt lim dim, chánh án ngồi thụt sâu vào ghế bành. Những câu mào đầu dặt ra đối với Mason là một chiến thuật tốt để xiết chặt Coll lại, và quấy phá ông ta bằng một loạt liên tiếp những câu hỏi trái ngược nhau, trước khi ông này lấy lại bình tĩnh. Chánh án cố ý để cho Mason hành động; ông tạo cho mình bộ mặt thản nhiên. Nhưng Mason đã làm ông và mọi người ngạc nhiên, khi ông ta tuyên bố:

– Thế là xong, ông Coll.

Rời vành móng ngựa, Coll tránh cái nhìn của Labley.

Mason gọi:

– Esther Dilmeyer.

Cô đi tới và giơ bàn tay lên. Cô rất lịch sự trong bộ quần áo nữ bằng hàng len đan, với một cái mũ nhỏ cũng màu đen. Những điểm xuyết duy nhất về màu sắc là một chiếc gim gài gần cổ bằng vàng và cái xuyến hợp với cổ tay trái.

Chánh án tò mò ngắm nghía cô. Labley tỏ ra bối rối.

– Thưa ngài, – Mason bắt đầu – thiếu phụ này vừa rời bệnh viện, nơi cô ta được chuyển đến sau một mưu toan đầu độc việc cô khỏi bệnh đã…

– Tòa đã biết tổng quát các sự kiện. – Chánh án vừa nói vừa nhìn Esther.

Cô này khai tên và địa chỉ với lục sự và mỉm cười với Mason, khi ông hờ hững hỏi cô:

– Cô Dilmeyer, cô có biết ông Peavis không?

– Có.

– Đã bao lâu?

– Vài tuần nay.

– Có phải cô đã quan hệ với Lawley theo yêu cầu của ông ta không?

– Không.

– Không à? – Mason lặp lại vừa rướn mi mắt lên.

– Không, thưa ông.

Labley chồm lên:

– Thưa ngài chánh án, câu hỏi này không thể chấp nhận được.

Chánh án nhìn Mason suy nghĩ.

– Tôi muốn nghe ông về việc đó, ông Mason.

Mason giải thích, coi như sự việc là từ ông:

– Thưa ngài chánh án, có hai góc độ đối với người thưa kiện. Trong góc độ thứ nhất, ông ta xuất hiện như một người tậu được các cổ phần, trong trường hợp đó, cái chết của Lynk trước khi bán các cổ phần đó không để lại cho ông ta một phương sách nào để đưa đơn kiện vụ này. Trường hợp thứ hai, ông ta dùng Lynk làm đại diện, giao cho ông này thay mình mua các cổ phần. Chỉ có góc độ thứ hai mới cho phép ông ta bảo vệ vụ kiện hiện nay. Từ khi ông ta chấp nhận nó, ông ta trở thành người có trách nhiệm về tất cả mọi việc mà Lynk đã làm với tư cách là đại diện của ông ta. Nếu Lynk người đại diện của ông ta đã dùng những phương tiện bất hợp pháp để giành những cổ phần đó, nếu Lynk đã dùng mánh khóe gian lận hoặc gây sức ép, thì rõ ràng là người thưa kiện không có quyền đòi bồi thường và không có cả quyền được vào dự phiên tòa này của ông ta với tư cách là người thưa kiện.

Chánh án Grosbeck gật đầu đồng tình.

Labley đứng dậy như một hung thần thoát khỏi chiếc hũ sành:

– Nhưng thưa ngài chánh án, điều này là trái với luật…

– Tôi không cho là như vậy. – Chánh án nói bằng giọng bình tĩnh và quyết đoán.

– Nhưng Peavis không biết rõ tất cả hành động của Lynk.

– Nếu Lynk là đại diện cho Peavis, – Chánh án nói – thì nhiệm vụ của ông ta là phải cho Peavis biết tất cả các phương pháp tiến hành, bởi vì ông ta làm những việc đó cho Peavis. Peavis không thể nhận cái lợi của biện pháp này và khước từ trách nhiệm đối với chúng.

Labley điềm tĩnh, dè dặt. Sau sự việc vừa xảy ra, ông sẽ không ngạc nhiên lắm nếu có một bàn tay phản trắc giật mất ghế của mình. Mason kết hợp:

– Tôi sẽ diễn giải khác, cô Dilmeyer. Người ta đã bảo với cô rằng ông Lawley có những chứng thư mà ông Peavis thèm muốn. Do đó họ yêu cầu cô phải tử tế với ông Lawley…

– Không ai yêu cầu tôi như thế cả.

– Thực không? Thế thì làm thế nào mà cô quen được ông Lawley?

– Người ta khuyên tôi vun trồng quan hệ với ông ta.

– Ai đã khuyên cô?

– Ông Coll.

Labley đắc chí.

– Và ông Peavis không có gì chung với ông Coll. Coll không phải là đại diện của ông ta, thưa ngài chánh án.

– Điều này còn phải chứng minh. – Chánh án lưu ý.

– Hãy xem nào, cô Dilmeyer, – Mason tiếp tục – trong đêm Lynk bị giết, cô có nghe cuộc đàm thoại về vấn đề cổ phần giữa ông ta và ông Coll không?

– Không phải đêm mà là buổi chiều.

– Lynk đã nói gì?

– Ông ta bảo đã có cổ phần trong tay. Và nếu Peavis muốn lấy những cổ phần đó, ông ta phải cầm tiền mặt đến vào trước nửa đêm. Lynk không muốn nhận séc.

– Cô có nghe cuộc đàm thoại đó không?

– Có, thưa ông.

– Nó diễn ra ở đâu?

– Ở Golden Horn.

– Đấy là một hộp đêm, phải không?

– Vâng.

– Cuộc đàm thoại đó đã diễn ra ở đâu trong Golden Horn?

– Ở phía trên… Vâng, trong một phòng trên tầng một.

– Có phải sau khi nghe câu chuyện này, cô đã là nạn nhân của một mưu toan đầu độc không?

– Phản đối! – Labley thét lên – Đối thủ của tôi định chi phối tòa. Ông ta làm cho mọi người hiểu rằng khách hàng của tôi đã có thể phạm tội giết người để mua số cổ phần ấy.

Chánh án nhìn Mason thản nhiên:

– Luật sư, ông hãy khẳng định xem có mối quan hệ nào giữa hai sự kiện không?

– Được tòa cho phép, tôi tin rằng chúng ta sẽ phát hiện vài thông tin rất quan trọng – Mason trả lời – Câu hỏi của tôi chỉ ăn nhập khi xem xét kỹ về thời gian. Ngài chánh án thì quá sành sỏi để không bị chi phối bởi một lời nói bóng gió không có căn cứ.

– Ông tiếp tục đi. – Chánh án vừa nói vừa gật đầu tán thành.

– Hãy trả lời câu hỏi của tôi. – Mason ra lệnh cho Esther.

– Vâng. – Cô ta nói thấp giọng.

– Giữa chúng ta, cô hãy nói thật đi, cách ăn kẹo sô- cô- la của cô có phải là hơi kỳ cục không? Cô nhai rau ráu hết cái này sang cái khác, rất nhanh…

– Vâng, có lẽ… đúng thế.

– Cô có thói quen này từ bao giờ?

– Lúc mười chín tuổi, khi tôi làm việc ở xưởng sô- cô- la. – Cô trả lời với một nụ cười.

– Trong thời gian làm công nhân, cô đã tập ăn kẹo theo cách đó phải không?

Cô cười nhè nhẹ.

– Vâng, người ta cấm công nhân ăn kẹo, nhưng… Tôi không thích ông chủ, và tôi cho rằng làm như vậy là để trả thù.

– Tôi hiểu – Mason cười – Nhưng chắc là có người nào đó biết thói quen ăn kẹo của cô, nhai rau ráu hết cái này sang cái khác, phải không?

Esther ngập ngừng rồi lắc đầu. Chánh án Grobeck tham gia.

– Cô cần phải trả lời to lên, để cho lục sự có thể ghi lại.

– Không, không ai biết cả… Có lẽ trừ vài người bạn thân như Irma Radine chẳng hạn.

– Cô có xem ông Lawley như là một người bạn thân không?

– Không!

– Còn ông Coll?

– Càng không!

Trong ngữ điệu của cô có sự thách thức.

– Thế ông Magard?

– Ông Magard là một ông chủ, hơn là một người bạn thân.

– Nhưng ông ta có biết cách ăn sô- cô- la của cô không?

Cô ta vẫn ngập ngừng, sợ nói ra một câu khẳng định, có thể trở thành lời buộc tội.

Lúc này, chánh án cúi xuống chiếc bàn lớn bằng gỗ dái ngựa, tò mò nhìn không chớp vào cô gái. Frank Labley lưỡng lự vì bị chưng hửng do cách triển khai phiên tòa, nhìn từ Mason đến Esther, rồi lại từ Esther đến Mason.

Mason ra lệnh:

– Cô hãy trả lời câu hỏi đi.

– Ông Magard có biết tôi đã làm việc trong một xưởng kẹo sô- cô- la.

– Làm sao ông ta biết điều đó?

– Vì ông ta đã thuê tôi.

– Như vậy là ông ta đã thuê cô đến làm việc ở Golden Horn khi cô còn ở xưởng kẹo, phải không?

– Không, ông ta xem xét hồ sơ của tôi.

– Cô không xem ông Coll như một người bạn hay sao?

– Không.

– Thế nhưng ông ta đã từng là bạn thân, phải không?

– Trời ơi… Điều đó tùy thuộc vào cái mà ông gọi là một người bạn…

– Còn ông Lawley? Ông ta cũng là một người bạn, phải không?

– Không. A mà… có, trong nghĩa là… Tôi tin là có.

– Ông Peavis có biếu cô sô- cô- la không?

– Có, nhiều lần. Ông ta thật tử tế.

– Ông ta có thấy cô ăn kẹo không?

– Có.

– Thưa ngài, tôi nghĩ rằng bây giờ tôi sẽ yêu cầu ngài cho hoãn phiên tòa đến ngày mai. – Mason tuyên bố – Dĩ nhiên tôi phó thác vào sự kiện kín đáo của tòa…

– Không có sự phản đối từ phia chúng tôi. – Lawley mạnh mẽ ngắt lời.

– Rất tốt. – Chánh án Grosbeck quyết định – Theo yêu cầu của bên bị, phần sau của vụ kiện sẽ tiếp tục vào lúc mười giờ sáng mai.

Có lúc người ta đã tin rằng chánh án sẽ đặt ra cho Esther một câu hỏi. Chắc chắn ông thay đổi ý kiến để giữ vai trò trọng tài vô tư, và ông đã đứng dậy rời phòng xử.

Magard đã dự phiên tòa, ngồi ở chỗ trong cùng của phòng xử. Ông ta tiến ra và tiến thẳng đến chỗ Mason:

– Tại sao ông lại định dính tôi vào câu chuyện sô- cô- la ấy?

– Tôi không làm gì cả – Mason vừa sắp hồ sơ vừa đáp lại – Tôi chỉ đặt ra những câu hỏi cho nhân chứng trả lời.

– Ông đã đặt ra những câu hỏi một cách buồn cười!

Mason mỉm cười.

– Đấy là một thói quen của tôi, nhất là khi tôi có việc cần giải quyết với những người có tham vọng dạy cho tôi cách cư xử.

Magard bước gần lại một bước. Khinh khỉnh nhìn Mason với thái độ thù địch lạnh lùng. Đúng như một tên đao phủ xem xét người bị án ước lượng cân nặng khổ vai, cơ bắp của người ta.

– Sao? – Mason nói.

– Điều đó không làm cho tôi vui lòng. – Magard vừa nói vừa đột ngột quay gót.

Mildreth Faulkner lại gần và đăt bàn tay lên tay Mason:

– Tôi không có khả năng đánh giá được tất cả sự tế nhị pháp lý nhưng hình như ông đã dùng mánh khóe đối với họ.

– Tôi đang đi trên con đường nào đó… Cô đã gặp chị chưa?

Mildreth xúc động, hai mắt long lanh nước và cô chỉ gật đầu trả lời.

– Bà ấy thế nào? – Mason hỏi.

– Chưa khả quan lắm, thầy thuốc ở bệnh viện nơi chị tôi được đưa đến đã cấm các cuộc viếng thăm ít nhất trong bốn mươi tám tiếng. Ông ta đã dành cho tôi một ngoại lệ, vì chị tôi luôn luôn đòi tôi đến và ông ta nghĩ rằng sự có mặt của tôi có thể giúp đỡ ông ta. Nhưng ông ta dặn không được nói công việc với chị tôi.

– Cô có nói công việc với bà ấy không?

– Thực sự là không, nhưng chị ấy có những việc để nói với tôi. Lúc đầu, tôi định ngăn lại, rồi tôi nghĩ rằng để cho chị tôi nói thì tốt hơn, vì điều đó sẽ làm cho chị ấy đỡ hơn. Chị tôi băn khoăn nhiều lắm.

– Đặc biệt về cái gì?

– Họ bắt chị tôi thừa nhận rằng đã đưa chứng thư cho ông. Họ bảo với chị tôi rằng để tự bảo vệ mình, ông đã đưa nó cho cảnh sát… Ông Mason, làm thế nào mà cảnh sát lại có thể tàn nhẫn và thiếu đắn đo đến như vậy?

– Họ nghĩ rằng khi có việc cần giải quyết với những kẻ phạm tội, để cốt đạt mục đích, thủ đoạn gì cũng được.

– Nói dối và dùng sức mạnh, đấy không phải là cách để giải quyết một tội ác. Không bao giờ người ta kính trọng họ nếu họ hành động như vậy. Họ không giá trị gì hơn những người phạm tội.

– Đấy là một trường hợp ngoại lệ.

– Lúc này, tính mạng của Carla như ngàn cân treo sợi tóc. Tôi không biết chị ấy liệu có bình phục được không? Chưa bao giờ tôi thấy chị tôi ốm đến như thế trước đây, chị tôi bình phục rất nhanh…

– Tôi biết điều đó, – Mason nói vẻ thiện cảm – để xảy ra đúng điều mà tôi muốn tránh cho bà ấy.

– Không phải lỗi tại ông. Nếu chị tôi làm theo những chỉ dẫn của ông thì mọi sự đã tốt, bây giờ chị tôi mới nhận thức được.

– Bà ấy không nói gì khác với họ hay sao? Chỉ nói về các cổ phần, phải không?

– Chỉ nói về các cổ phần… nhưng với những chứng cứ mà họ có để chống chị ấy thì thế là đủ. Chị tôi không thể tiếp tục như vậy, ông Mason. Và nếu họ buộc tội chị tôi? Có lẽ tốt nhất là chị ấy…

– Không thoát ra? – Mason hoàn thành câu nói.

Cô Dilmeyer không cầm được nước mắt và ra hiệu đồng ý. Mason nói tiếp.

– Lời khai của một nhân chứng đã cho tôi một ý mới.

– Ông tin rằng chị tôi còn có hy vọng sao?

– Nhiều hy vọng.

– Nếu ít ra, Bob là một người dũng cảm và nói sự thật! Nếu anh ta thú nhận là đã ở tại nhà nghỉ mát và chị Carla chỉ đi theo mình… Nhưng Bob đã giết Lynk nên chắc chắn là anh ta sẽ không nói những gì có thể làm nguy hại đến mạng sống của mình…

– Có lẽ ông ta không biết chị cô đi theo…

– Chắc chắn là biết. – Mildreth phẫn nộ nói – Ông phải biết rằng anh ta đã đi tìm chị Carla ở khách sạn Clearmount. Anh ta đã đưa chị tôi về bằng ô- tô và họ đã nói với nhau nhiều. Anh ta đã nói dối chị tôi. Anh ta không muốn thừa nhận đã tống hết các cổ phần đi cũng như việc đã tới chỗ Lynk. Ông có nhận thấy không? Tuy rằng chị tôi đã đi theo anh ta và tận mắt thấy anh ta đến Lilac Canyon.

– Ông ta giải thích việc đó như thế nào?

– Ồ, ông phải biết rằng, anh ta đã sẵn câu trả lời cho tất cả… Anh ta khẳng định rằng cách nhà họ mười dãy anh ta đã gặp một người bạn, và đã đưa người này lên xe; anh ta không muốn nêu tên người đó. Người bạn muốn mượn xe một giờ, Bob đồng ý và đã xuống xe để cho ông bạn lái đi.

– Chị cô có tin chuyện ấy không?

– Chắc chắn là tin. Chị tôi tin tất cả những gì anh ta nói.

– Theo ý cô, điều đó không đứng vững được phải không?

– Tôi không thấy nó sẽ đứng vững được như thế nào? Chị Caslotta đã theo anh ta trong suốt thời gian ấy. Dĩ nhiên có những lúc, chị tôi bị chậm lại vì giao thông. Bob đã khéo léo để hỏi trước chị tôi về những thời điểm đó, những lúc mà chị tôi không thấy xe của anh ta… Sau đó anh ta đã đặt việc thay đổi người lái vào một trong những lúc đó…

– Cô đã làm cho Carla nhận thấy điều đó chưa?

– Tôi đã thử làm, nhưng có ích gì? Chị ấy yếu quá. Chị ấy kể cho tôi tất cả những cái đó để kể cho ông biết. Cái ông trung úy Tragg này… Nếu lúc nào tôi có dịp nói cho ông ta điều mà tôi nghĩ về ông ấy…

– Có sẽ có dịp, – Mason nói – ông ta kia kìa.

Mildreth ngoảnh mặt về phía cửa trong cùng. Thấy Tragg đang đi vào. Ông ta mỉm cười với ông thẩm phán rồi lách qua nhóm người đang làm tắc lối đi và tiến thẳng tới chỗ họ.

– Xin chào. – Ông ta thân tình nói.

Mildreth hất cằm lên và xoay người đi, chỉ để cho trung úy thấy được một phía vai mà thôi.

– Này cô Faulkner, cô đừng làm thế. – Tragg nói.

– Tôi không thích những lời dối trá cũng như những người nói dối. – Cô lạnh lùng đáp lại.

Tragg đỏ mặt. Mason đặt tay lên cánh tay Mildreth:

– Cô hãy bình tĩnh lại…

– Quên mọi hiềm thù chăng, Mason? – Tragg hỏi.

– Quên mọi hiềm thù. Tôi biết nện và cũng biết chịu đựng. Nhưng tôi lo lắng cho bà khách hàng của tôi.

– Chính vì điều đó mà tôi muốn nói chuyện với ông. – Tragg nói.

– Mời ông.

– Nhưng trước hết tôi cần phải làm một nhiệm vụ khó chịu…

– Đúng, – Mildreth nói – ông muốn là bạn của người ta, và lại phụ lòng tin của họ… ông…

– Bình tĩnh – Mason cắt ngang – Chúng ta chờ xem ông Trung úy nói gì…

Mặt Tragg rầu rĩ hơn ngày thường, ông chỉ nói với Mason, để Mildreth ra ngoài cuộc thảo luận.

– Ông đã thừa nhận ở phiên tòa là mình có chứng thư… Tôi rất tiếc, nhưng không còn sự chọn lựa nào khác. Tôi phải yêu cầu ông đưa lại cho tôi bản chứng thư đó và báo cho ông biết rằng ông sẽ bị gọi ra trước một ban Hội thẩm lớn.

– Về vấn đề gì thế?

– Ông biết Loring Churchill chứ?

– Thẩm phán thay biện lý ở Hạt Attorney, phải không?

– Đúng thế!

– Ông ta có liên quan gì đến việc này.

– Ông ta không thích ông.

– Rồi sao nữa? Tôi cũng không thích ông ấy. Đó là một gã vô tích sự, hợm mình. Ông ta có bộ óc của một cuốn từ điển và cá tính của một cuốn sách lịch Vermot cũ.

Tragg cười.

– Dù thế nào đi nữa, ông ta cũng đã cử tôi đến đây để lấy bản chứng thư đó.

– Làm thế nào mà ông ta biết được tôi có bản đó?

– Chúng tôi đã được báo cho biết khi ông nói ở phiên tòa. Và Churchill chỉ đợi cơ hội đó.

– Hừ, các ông sẽ không có bản chứng thư đâu. – Mason tuyên bố.

– Tại sao?

– Vì tôi đã nhận được lệnh đem trình nó trước tòa.

– Đừng có thái độ như vậy, ông Mason. Thái độ đó sẽ không đưa ông đến đâu đâu. Ông đang ở trong tình thế khó khăn…

– Tại sao?

– Vì ông đã hủy các chứng cứ…

– Chứng cứ nào?

– Cái chứng thư ấy…

– Tôi đã đứng đây, ở phiên tòa, công khai để tuyên bố rằng tôi đã có nó. Đấy chính xác không phải là cái mà người ta có thể gọi là “hủy bỏ các chứng cứ”.

– Ông đã không “tuyên bố” điều đó như ông nói, nếu tôi không làm cho bà Lawley công nhận rằng bà ta đã đưa cho ông bản chứng thư đó…

– Đúng thế, không có gì để cho ông huyênh hoang cả. – Mildreth khinh khỉnh ngắt ngang.

– Này Tragg – Mason nói – Ông muốn biết xem tôi đã nói hay không à? Đấy là một vấn đề quan điểm thuần túy.

– Tôi có quan điểm của tôi.

– Ông có quyền về việc đó.

– Tôi cũng có quyền về bản chứng thư.

– Không, nếu không có lệnh của tòa án. Người ta đã gọi tôi đến như là một nhân chứng; ra lệnh cho tôi mang theo bản chứng thư đó. Tôi có nó và tôi đang ở đây.

– Tôi chắc rằng chánh án Grosbeck sẽ cho là tôi có lý…

– Trong trường hợp đó, ông ta chỉ còn việc cho tôi một lệnh.

– Việc đó sẽ cần thời gian.

– Đúng thế.

– Và khi nào tôi có lệnh, ai bảo rằng tôi sẽ không thể bắt ông?

– Không có chuyện gì mách bảo ông điều đó cả, nó đã rõ…

– Tất cả những điều đó làm cho Churchill nhảy lên đến tận trần nhà. Chúng không làm cho ông ta bằng lòng. – Tragg nói.

– Thật tiếc quá! – Mason mỉa mai – Ban đêm tôi sẽ không nhắm mắt được mất vì Churchill không thích tôi.

– Ông hãy nghe tôi, ông Mason. Mỗi người chúng ta đứng ở một phía hàng rào, nhưng nếu ông không làm phật ý tôi, thì tôi sẽ để cho ông đứng ngoài cuộc. Nếu ông đưa chứng thư đó cho Churchill thì có lẽ ông ta sẽ không đến Ban Hội thẩm lớn..

– Đồ chết tiệt Churchill!

– Đấy là lời nói cuổi cùng của ông, phải không?

– Không, nếu sau một giờ nữa, ông ta thả bà Lawley ra, thì ông ta sẽ có chứng thư của bà ấy…

– Tôi sợ bà Lawley không đương đầu nổi với Ban Hội thẩm.

– Vì bị buộc tội gì?

– Giết người cấp một.

– Ông đã định gán tội giết người cho bà ta hay sao?

– Chúng tôi không có sự lựa chọn. Chồng bà ta đã có những lời khai không chối cãi được.

– Không chối cãi được đối với ai? Với ông ta hay bà vợ.

– Đối với bà ta.

Mildreth quên đi một lúc sự hung hăng đối với Ttagg.

– Ông muốn nói rằng những lời khai của Bob đã làm hăng thêm tình huống của Carlotta phải không? – Cô hoài nghi hỏi.

– Đúng – Tragg trả lời, nhưng vội vàng nói thêm – Tôi không được nói với cô điều đó… Nhưng tôi muốn nói tất cả cho ông, ông Mason ạ, điều đó không làm ông thích thú…

– Tại sao?

– Bob Lawley đã tạo cho tôi cảm giác rằng đấy là một tên vô lại, một tên nói dối. Tóm lại, một thằng tồi. Còn bà vợ tỏ ra thẳng thắn, trung thực.

– Lawley đã kể cho ông những gì? – Mason hỏi.

Tragg ngập ngừng:

– Này, ông Mason. Nói chung, ông xoay xở rất tài để gỡ khó cho khách hàng của mình, Churchill sẽ xạc tôi nếu ông ta biết rằng…

– Nói đi…

– Tôi là một người đầy tớ của nhân dân. Một bánh xe rất nhỏ trong cỗ máy lớn. Tôi có việc cần phải giải quyết với những người phạm tội. Tôi có trách nhiệm phải hoàn thành…

– Nói những lời mào đầu này để làm gì?

– Bởi vì tôi hối tiếc về những hành động mình đã làm đối với bà Lawley. Tôi thành thực nói với ông điều này, nếu tôi biết tình trạng của bà ta trầm trọng như thế, thì tôi đã không bao giờ làm việc đỏ.

– Nhưng ông đã làm. – Mildreth nhận xét…

– Tôi không chối cãi. Bà ta sấp bị đối xử như bất kỳ một nữ tù nhân nào khác. Luật pháp không dự kiến tình huống của bà ấy… Một người đàn bà bị ốm nặng mà bất kỳ một xúc động nhỏ nào cũng có thể làm nguy hại đến tính mạng.

– Chúng ta hãy xem xét điều mà bà Lawley đã nói với ông; coi như là sự trả lời. – Mason nói.

– Lawley hình như hoàn toàn suy sụp trước tình trạng của vợ. Ông ta khóc và luôn luôn rên rỉ về việc đó. Chúng tôi đã để cho ông ta đến thăm vợ. Ông ta đã quỳ xuống và hôn lên ống tay áo ngủ của bà ấy…

– Nói tiếp đi.

– Hừ, đúng là trước đây ông ta đã chịu khai và nói tất cả những điều mình biết cho cảnh sát.

– Ông ta biết cái gì?

– Ông ta bảo là mình đã ra đi bằng ô- tô, gặp một người bạn và người bạn đã mượn xe, trong lúc đó ông ta đi gọi điện thoại, chính người bạn mà vợ ông ta đã theo đến Lilac Canyonn, tưởng rằng đi theo chồng.

– Làm sao ông ta biết điều đó?

– Bà vợ đã nói với ông ta.

– Và ông ta đã lặp lại với cảnh sát… trong khi đó là một câu chuyện riêng, kín đáo. Không ai được hôi ông ta về những điều mà bà vợ đã nói.

– Ồ, ông ta đã bắt đầu bằng lời thề độc rằng người ta không thể moi ở ông ấy một lời nào về vấn đề ấy cả, – Tragg nói – nhưng mười phút sau thì ông ta khóc, nước mắt tuôn ra như suối và ông ta khai tất cả những gì mà mình biết.

– Đúng là anh ta. – Mildreth nói.

– Ông hiểu điều ông ta làm phải không, Tragg? – Mason hỏi.

– Ông ta muốn cứu mạng mình, tất nhiên…

– Không, không phải thế…

– Thế thì là gì nào?

– Ông hãy diễn lại tình cảnh. Vợ ông ta đang lâm nguy. Những xúc cảm gây nguy hiểm cho bà ấy, và hơn nữa là sự mệt nhọc và lo lắng. Hiệu quả của chúng ít nổi rõ, nhưng lâu ngày, chúng có thể gây chết người. Vậy thì ai sẽ là người thừa kế Carlotta Lawley? Bob. Ai sẽ là người thừa hưởng tiền bảo hiểm tính mạng của bà ấy? Bob.

– Ông nói bóng gió rằng ông ta muốn giết vợ, phải không?

– Ông ta sẽ không phải là người đầu tiên, và đã lợi dụng được một cơ hội vô song… Tất cả những điều ông ta làm là để tự thúc đẩy chống lại vợ mình. Ngày nào quả tim bà ấy ngừng đập, chính ông sẽ nhận được sự khiển trách và ông ta sẽ lãnh tiền lãi.

– Những lời bóng gió của ông căn cứ vào đâu?

– Đây không phải là những lời nói bóng gió. Đấy là những lời buộc tội.

– Cảnh sát sẽ không ra sức hành hạ bà ta đến tình trạng…

– Ông không ở xa kết quả mà Lawley đã tính đến, đây…

– Chúng tôi không làm hại bà ấy…

– Ông chớ tự an ủi bằng ảo tưởng. Trước đây bà ta đã trên đường khỏi bệnh. Từ khi…

– Tôi không chịu trách nhiệm về sự xúc động do một vụ giết người…

– Bà ta không phạm tội giết người. Bà ta đã bị xúc động – điều đó, đúng, và sự xúc động ấy đã tái phát. Nhưng sáng hôm qua, tôi đã cho một bác sĩ giỏi đến xem cho bà ta, ông sẽ không dám để cho bác sĩ này đến nghe lại tim của bà ấy bây giờ và nghe bác sĩ nói với ông về kết quả y tế của việc đã xảy ra trong hai mươi bốn giờ vừa qua.

– Chúng tôi không chịu trách nhiệm. – Tragg lặp lại.

– Ông phải chịu trách nhiệm một phần, còn như Churchill… Anh chàng ngốc, thông thái rỏm này sẽ quấy rầy bà ta đến chết. Chỉ cần Bob cho hắn vài yếu tố của vụ việc thì hắn sẽ vào, ra ở buồng bà Lawley cho đến khi xới được một luống cày trên sàn nhà…

– Bob có nói gì khác nữa không? – Mildreth hỏi.

– Không có gì quan trọng. – Tragg trả lời.

– Hãy suy nghĩ đi, Tragg – Mason nói – Tại sao bà Lawley lại giết Lynk.

– Vì các cổ phần…

– Tầm phào. Bob đã giết Lynk vì các cổ phần chứ không phải bà ấy. Bà ấy chỉ muốn hỏi Lynk xem ông ta muốn bao nhiêu tiền cho số cổ phần, rồi xùy tiền ra; về cho Bob một trận đòn vào mông, sẽ nghe Bob khóc hờ, rồi vuốt ve tóc hắn, sửa lại cà vạt cho hắn, và lại cho tiền để hắn tiếp tục chơi trò đánh cá ngựa.

Tragg đứng im vài giây, trán nhăn lại. Hồi đột ngột ngước mắt lên:

– Được rồi, ông Mason, ông đã thắng.

– Thế nào?

– Tôi sẽ chơi thẳng thắn với ông. Tên Lawley này là đồ hèn hạ, rất có vẻ giả dối. Tôi tin rằng hắn phạm tội gấp mười vợ hắn. Chỉ có điều là nếu hắn không chi phối được tôi thì hắn chi phối được Loring Churchill đến tận xương. Và Churchill lo bận bịu lập bản tội trạng của bà Lawley đến nỗi vất đi tất cả những gì không giúp chứng minh cho luận đề của ông ta.

– Chúng ta đi hóng gió một chút, được không? – Mason gợi ý.

– A, được.

– Cô có đi không? – Mason hỏi Mildreth.

Cô gái đồng ý và Mason ra hiệu cho Della cùng đi.

– Ông đi đâu? – Tragg hỏi.

– Tôi có một luận thuyết đang cần đôi chút suy nghĩ nữa và vài câu hỏi…

– Những câu hỏi đó ông đã đặt ra rồi, phải không?

– Đúng.

– Câu trả lời như thế nào.

– Gần như chắc chắn là tôi có lý. – Mason nói.

– Ông không muốn nói gì với tôi hay sao?

– Không, không phải bây giờ. Quả chưa đủ chín để hái. Chúng tôi chưa có một chút xíu chứng cứ để chống lại người phạm tội. Chúng tôi chỉ có một vài tư liệu để làm nồng cốt cho một luận thuyết hoàn toàn lôgic. Vả lại nếu tôi nói với ông nhiều hơn nữa về điều đó thì ông sẽ nói lại với tôi rằng: “Điều này tỏ ra bổ ích cho tôi, nhưng chúng ta không tham gia trò chơi này trước khi có tất cả các con chủ bài. Đầu tiên, hãy bắt tay xây dựng một ca hoàn hảo đã”.

– À, rồi sao nữa? – Tragg nói – Có gì khập khiễng bên trong không? Ông sợ con vật săn trốn mất hay sợ cái gì?

– Không cái khập khiễng là việc ông giữ bà Lawley ở trong tù với bản cáo trạng treo lơ lửng trên đầu bà ấy, còn cái tay Loring Chuchill này sẽ dày vò bà ta đến chết. Cần phải giải phóng bà ta khỏi tất cả những cái đó. Cần thả bà ta ra ngay từ tối nay.

– Ông định làm nổ tung tất cả chăng?

– Tất cả sẽ nổ tung – Ông có tới không?

– Tôi không tán thành.

– Tôi đã rõ rằng ông sẽ không tán thành.

– Nếu ông làm như vậy, – Tragg nói, vẻ cáu kỉnh – tôi buộc phải tới.

– Thế thì mời ông tới. – Mason nói.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.