Dòng Sông Kỳ Bí

Chương 2: Bốn ngày



Hóa ra Jimmy đã nhầm.

Dave Boyle trở về bốn ngày sau khi mất tích. Cậu ta trở về trên ghế trước cửa một chiếc xe ô tô cảnh sát. Hai viên cảnh sát đưa cậu về để cho cậu nghịch còi hụ và sờ vào báng khẩu súng trường đã khóa nòng. Họ tặng cho Dave một chiếc phù hiệu danh dự và khi họ mang cậu về nhà ở phố Rester thì cánh phóng viên báo và truyền hình đã xuất hiện để đưa tin.

Một viên cảnh sát, sĩ quan Eugene Kubiaki, nhấc Dave ra khỏi xe và công kênh cậu tới tận vỉa hè trước khi đặt cậu xuống trước mặt bà mẹ run rẩy vì xúc động, vừa khóc vừa cười của cậu.

Có cả một đám đông trên phố Rester ngày hôm đó – các bậc phụ huynh, trẻ con, một bưu tá, hai anh em bụ bẫm nhà Chã, chủ một cửa hàng bán bánh sandwich ở góc phố Rester và Sydney, thậm chí cả cô Powell, giáo viên lớp năm của Dave và Jimmy ở trường Looey & Dooey. Jimmy đứng với mẹ cậu. Mẹ cậu để đầu cậu dựa vào người bà, rồi áp lòng bàn tay ẩm ướt lên trán Jimmy như thể muốn biết chắc là cậu không bị lây nhiễm cái thứ bệnh nào đó mà Dave có nguy cơ mắc phải, còn Jimmy chợt cảm thấy nhói lên một nỗi ghen tị khi nhìn thấy sĩ quan Kubiaki nhấc bổng Dave lên vỉa hè rồi cả hai người bọn họ phá ra cười như những người bạn lâu năm trong khi cô Powell xinh đẹp thì vỗ tay vui mừng.

Cháu cũng suýt trèo lên chiếc xe ấy, Jimmy những muốn kể với ai đó. Nhất là với cô Powell. Cô ấy rất xinh và sạch sẽ, khi cô cười thường để lộ một chiếc răng hơi khểnh ở hàm trên, nhưng điều đó chỉ khiến cô càng trở nên đẹp hơn trong mắt Jimmy. Jimmy những muốn nói với cô rằng cậu đã suýt trèo lê cái xe đó để xem nét mặt cô có cùng biểu cảm giống như với Dave lúc này hay không. Cậu cũng muốn nói với cô rằng lúc nào cậu cũng nghĩ tới cô và trong tưởng tượng của mình thì cậu đã lớn hơn và có thể lái xe để đưa cô tới những nơi mà cô sẽ mỉm cười với cậu thật nhiều và rồi họ sẽ có một bữa ăn trưa theo kiểu picnic, tất cả những điều cậu nói đều khiến cô bật cười để lộ ra cái răng khểnh đáng yêu đó và cô sẽ áp tay mình lên má cậu.

Nhưng dầu vậy, cô Powell có vẻ không được thoải mái cho lắm. Jimmy có thể nhận ra điều đó. Cô nói với Dave vài câu, vuốt ve rồi hôn lên má cậu ta – cô ấy hôn lên má cậu ta những hai lần – sau đó nhường chỗ cho những người khác và đứng tránh sang bên trên vỉa hè nứt nẻ nhìn lên ngôi nhà ba tầng xiêu vẹo trước mặt với những lớp giấy dầu đã bong tróc để lộ lõi gỗ bên trong, trông cô dường như trẻ hơn và cũng khắc nghiệt hơn, cô đột nhiên có cái vẻ của một nữ tu sĩ, cách cô đưa tay lên sửa tóc như các nữ tu sĩ chỉnh khăn trùm đầu theo thói quen và chiếc mũi hếch chun lại như chuẩn bị đưa ra những phán xét.

Jimmy những muốn chạy tới chỗ cô nhưng mẹ vẫn giữ chặt lấy cậu, kệ cho cậu tha hồ ngọ nguậy thế nào cũng không thoát ra được và rồi cô Powell bước tới góc đường giữa phố Rester và Sydney, vẫy vẫy ai đó một cách tuyệt vọng. Một gã có vẻ ngoài hippie đi một chiếc xe hippie đỗ xịch tới và cô Powell trèo lên chiếc thể thao mui trần màu vàng, cửa xe vẽ những cánh hoa đỏ tía đã phai màu rồi bọn họ cùng lái đi mất. Ôi không, Jimmy thầm nghĩ.

Cuối cùng thì cậu cũng vùng ra được khỏi vòng kiềm tỏa của mẹ. Cậu đứng ở giữa phố quan sát đám đông vây quanh Dave và thầm mong giá như cậu cũng trèo lên chiếc xe hôm đó để giành được sự ngưỡng mộ của mọi người như Dave, mọi con mắt đều đổ dồn về phía cậu ta như thể cậu ta là một thứ gì đó hết sức đặc biệt.

Ngày hôm ấy trở thành một ngày hội lớn của phố Rester, mọi người chạy từ máy quay này sang máy quay khác, hy vọng sẽ xuất hiện trên truyền hình hay nhật báo buổi sáng – Có có, cháu có biết Dave, cậu ấy là bạn thân nhất của cháu, chúng cháu lớn lên cùng nhau, đó là một cậu bé tuyệt vời, ơn Chúa là cậu ấy không sao cả.

Ai đó đã mở vòi nước cứu hỏa, nước xả ra trên phố Rester nghe cứ như một tiếng thở phào nhẹ nhõm, bọn trẻ con để giày trên gờ đường, xắn quần lên và nhảy múa trong làn nước xối. Chiếc xe bán kem đi tới và Dave có thể chọn bất kỳ thứ gì mà cậu muốn, là quà của cửa hàng tặng cậu, thậm chí cả ông Pakinaw – một ông già góa vợ cáu bẳn, từng dùng súng hơi bắn vào lũ sóc (và đôi khi còn bắn vào cả bọn trẻ con nếu bố mẹ chúng không để ý) và lúc nào cũng quát lác ầm ĩ yêu câu người khác giữ im lặng – cũng mở cửa sổ ra, đặt hai cái loa lên bậu cửa và không thể ngờ được, tiếng hát của Dean Martin bắt đầu vang lên, nào là “Memories Are Made of This” hay “Volare” và một loạt ca khúc siêu sến thường khiến Jimmy muốn ói nhưng trong hoàn cảnh ngày hôm nay lại trở nên rất phù hợp. Hôm nay âm nhạc tràn ngập khắp phố Rester như những giải giấy màu trang trí rực rỡ giăng khắp nơi, hòa với tiếng nước phun xối xả từ chiếc vòi cứu hỏa. Mấy gã hay tổ chức đánh bài phía sau cửa hàng sandwich của hai anh em nhà Chã lôi ra một chiếc bàn gấp và một lò nướng nhỏ rồi ai đó khênh tới mấy thùng lạnh đựng đầy bia Schlitz và Narragansett, không khí lập tức béo ngậy mùi xúc xích nướng, mùi đồ nguội Ý, mùi thịt nướng chín đượm, mùi khói phảng phất, tiếng mở bia rào rào khiến Jimmy nghĩ tới sân bóng chày Fenway Park và những ngày Chủ nhật mùa hè và cái niềm vui sướng tới ngạt thở đó khi người lớn trở nên thư giãn và cư xử giống bọn trẻ con, ai cũng cười, trẻ trung hơn, nhẹ nhõm hơn và hạnh phúc hơn khi ở bên nhau.

Đó chính điều khiến Jimmy cảm thấy yêu mến khu phố nơi cậu lớn lên ngay cả trong những giây phút đen tối nhất như bị bố đánh hay bị mất trộm những thứ mà cậu quyến luyến. Đó là cách người dân nơi đây có thể đột nhiên vứt bỏ sau lưng cả một năm khốn khó, những lời than phiền, những vụ va chạm, những lo lắng về công việc và những ân oán cũ để thả lỏng hoàn toàn, như thể những điều tệ hại chưa bao giờ xảy tới trong đời họ. Vào ngày lễ Thánh Patrick, ngày hội Buckingham, hay đôi khi trong ngày quốc khánh 4/7, hay những mùa giải đội bóng chày Sox chơi xuất sắc trong tháng Chín và nhất là vào những dịp như thế này, khi một tài sản tập thể thất lạc được tìm thấy, cả khu phố có thể bừng lên một cơn hưng phấn cuồng nhiệt.

Không giống như ở trên khu Thượng. Dân khu Thượng cũng có các lễ hội khu phố nhưng lúc nào cũng được lên kế hoạch từ trước với đủ các thứ giấy phép cần thiết, ai cũng để ý nhắc nhở người khác cẩn thận không va chạm vào xe cộ xung quanh hay làm hư thảm cỏ – kiểu “Coi chừng, tôi mới sơn hàng rào đó!”

Ở khu Hạ, phân nửa không có thảm cỏ trước nhà, hàng rào thì xập xệ, nên việc quái gì phải lắm chuyện. Khi nào muốn tiệc tùng thì cứ tiệc tùng vì mẹ kiếp, anh xứng đáng được vui bỏ mẹ. Hôm nay đây chả có lão chủ nào. Nhân viên điều tra xã hội hay đám cho vay nặng lãi cũng nghỉ hết. Còn đám cảnh sát, như lúc này đây cũng đang vui vẻ chè chén với mọi người đấy thôi, sĩ quan Kubiaki thì đang xơi một chiếc xúc xích cay vừa chín tới còn đồng nghiệp của ông ta thì thủ một chai bia vào túi để lát nữa uống. Phóng viên nhà báo thì đã rút lui hết cả, mặt trời cũng sắp lặn khiến khu phố chìm trong khung cảnh của bữa tối đã điểm, nhưng chả có người phụ nữ nào đi nấu cơm và chả ai muốn về nhà.

Ngoại trừ Dave. Dave đã biến mất, Jimmy chợt nhận ra điều đó khi cậu bước ra khỏi chỗ vòi nước đang phun, vắt kiệt hai ống quần, khoác lại chiếc áo thun lên người và xếp hàng để nhận một phần xúc xích. Bữa tiệc chào mừng Dave đang cao trào nhưng Dave hẳn đã trở về nhà, mẹ cậu ta cũng vậy và khi Jimmy nhìn lên cửa sổ nhà họ, mành cửa đã kéo xuống đầy đơn độc.

Chẳng hiểu sao những tấm mành cửa khép kín ấy làm cậu nghĩ tới cô Powell lúc lcô bước lên chiếc xe ô tô kiểu hippie, khiến cậu cảm thấy buồn bã và nhơ nhuốc khi nhớ lại hình ảnh cô thu chân chui vào xe rồi đóng cửa lại. Cô ấy đi đâu? Có phải lúc này cô đang lái xe trên đường cao tốc, gió luồn qua tóc như nhạc đang tuôn trên phố Rester? Và màn đêm sẽ đổ xuống trong khi chiếc xe hippie đó chở hai người bọn họ tới… tới đâu nhỉ? Jimmy vừa muốn vừa không muốn biết. Ngày mai, cậu sẽ gặp lai cô ở trường trừ phi cả họ cũng sẽ cho học sinh nghỉ một ngày để kỷ niệm việc Dave trở lại, và lúc đó cậu sẽ muốn hỏi cô, nhưng sẽ không dám.

Jimmy nhận lấy phần xúc xích của mình và ngồi xuống ăn trên vỉa hè đối diện nhà Dave. Khi cậu ăn được một nửa thì một chiếc mành cửa kéo lên và cậu nhìn thấy Dave đứng trước cửa sổ nhìn về phía cậu. Jimmy giơ chiếc xúc xích đang ăn dở lên ra hiệu nhưng Dave dường như không nhận ra cậu, ngay cả khi cậu thử vẫy lại lần nữa. Dave chỉ nhìn chằm chằm. Cậu ta nhìn chằm chằm vào Jimmy nhưng Jimmy không tài nào đón được ánh mắt của cậu ta, chỉ cảm nhận được một sự trống rỗng. Trống rỗng và trách cứ.

Mẹ Jimmy ngồi xuống bên cạnh cậu trên vỉa hè và Dave rời khỏi cửa sổ. Mẹ Jimmy là một người phụ nữ nhỏ bé, gầy gò, tóc vàng nhạt, gần như bạch kim. Gầy như thế nhưng bà di chuyển một cách khó khăn cứ như thể hai vai bị chất đầy gạch và rất hay thở dài, theo một cái cách mà ngay cả Jimmy cũng không dám chắc là bà nhận thức được hành động đó của mình. Đôi khi cậu ngắm nhìn những bức ảnh bà chụp trước khi mang bầu cậu, trông bà đầy đặn hơn và trẻ hơn rất nhiều, cứ như một cô bé mới lớn (mà sau khi cậu tính tuổi ra thì đúng là vậy). Trong ảnh, khuôn mặt bà tròn trịa hơn, quanh mắt và trên trán không có nếp nhăn, và bà có cái nụ cười tuyệt đẹp ấy, một nụ cười tươi tắn nhưng đượm chút sợ hãi hay hiếu kỳ mà Jimmy không tài nào nhận rõ được. Cha cậu đã bảo cậu hàng nghìn lần rằng cậu suýt giết bà lúc cậu chào đời, mẹ cậu đã bị chảy nhiều máu tới mức các bác sĩ cũng lo là không cầm lại được. Lần đó đã vắt kiệt sức của bà, cha cậu nói. Và thế là dĩ nhiên chẳng có em bé nào tiếp theo. Chẳng ai muốn trải qua chuyện ấy thêm một lần nữa.

Mẹ đặt tay lên đầu gối Jimmy và bảo, “Con thế nào, binh sĩ Joe?” Mẹ cậu thường gọi cậu bằng các biệt hiệu khác nhau, thường là do bà ngẫu hứng nghĩ ra mà có tới phân nửa Jimmy không hiểu là gì.

Cậu nhún vai trả lời. “Thì mẹ biết rồi đấy.”

“Con chả nói gì với Dave cả.”

“Mẹ có để cho con nhúc nhích đâu hả mẹ.”

Mẹ cậu nhấc tay khỏi đầu gối và siết chặt quanh người, trời càng tối càng lạnh. “Ý mẹ nói là sau lúc đó. Khi thằng bé vẫn còn ở bên ngoài.”

“Con sẽ gặp cậu ấy ở trường ngày mai.”

Mẹ thò tay vào túi quần jean lôi ra một điếu thuốc Kent châm lửa hút rồi nhả mạnh khói ra.

“Mẹ không nghĩ là thằng bé sẽ đi học ngay ngày mai.”

Jimmy lúc này đã ăn xong miếng xúc xích liền bảo, “Thì cũng sẽ chóng thôi, phải không ạ?”

Mẹ cậu gật đầu, nhả thêm khói thuốc ra khỏi miệng. Một tay ôm lấy khuỷu tay đang cầm thuốc, bà nhìn lên cửa sổ nhà Dave và hỏi cậu, dù có vẻ chẳng thật lòng quan tâm tới câu trả lời. “Hôm nay con đi học thế nào?”

Jimmy nhún vai, “Cũng bình thường.”

“Mẹ có gặp cô giáo con. Cô ấy rất dễ thương.”

Jimmy không nói gì. “Thực sự là rất dễ thương,” mẹ cậu nhắc lại trong làn khói thuốc màu xám.

Jimmy vẫn không lên tiếng. Phần lớn thời gian, cậu không biết nói gì với cha mẹ mình. Mẹ cậu lúc nào cũng mệt mỏi đờ đẫn. Bà thường nhìn chăm chăm vào những khoảng trống mà Jimmy không thấy gì và hút thuốc, có tới phân nửa thời gian bà chẳng nghe cậu nói gì cho tới khi cậu phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Cha cậu thì thường xuyên cáu kỉnh, và ngay cả khi ông không giận dữ mà vui vẻ thì chỉ sau vài giây, ông lại có thể trở thành một tay nát rượu cục súc, sẵn sàng đánh Jimmy vì đã nói cái gì đó mới nửa tiếng trước đây còn khiến ông cười. Và cậu biết cho dù có đóng kịch thế nào đi nữa thì nội tâm của cậu chính là sự hội tụ tính cách của cả hai người đó, sự im lặng triền miên của mẹ và những cơn giận bộc phát của bố.

Khi không tưởng tượng ra việc làm bạn trai của cô Powell sẽ là như thế nào, Jimmy lại tự hỏi không biết làm con trai của cô ấy thì sẽ ra sao.

Mẹ cậu lại đang nhìn cậu, điếu thuốc để ngang tai, mắt bà nheo lại vẻ dò xét.

“Gì thế ạ?” Cậu nói và mỉm cười ngượng ngập với bà.

“Con có một nụ cười tuyệt vời, Cassius Clay ạ.” Bà cười lại với cậu.

“Gì cơ ạ?”

“À, ừ. Ý mẹ nói là con sẽ trở thành một tay sát gái.”

“À, thế thì được.” Jimmy trả lời và hai mẹ con phá ra cười.

“Con nên nói chuyện nhiều hơn một chút,” mẹ cậu bảo.

Mẹ cũng thế, Jimmy những muốn bảo bà.

“Nhưng thế này cũng được. Phụ nữ vốn thích kiểu đàn ông lặng lẽ.”

Qua vai mẹ, Jimmy nhìn thấy bố cậu đang loạng choạng bước ra khỏi nhà, quần áo nhàu nát, mặt thì sưng lên không biết do ngủ nhiều hay do rượu, hoặc có lẽ là do cả hai. Cha cậu nhìn cái không khí lễ hội đang diễn ra trước mắt với một vẻ sửng sốt, rõ ràng không hiểu chuyện gì đang xảy ra.

Mẹ Jimmy nhìn theo cậu và khi thấy cha, trông bà lại trở về dáng vẻ tiều tụy lúc trước, nụ cười dường như biến mất khỏi khuôn mặt, khiến người ta không khỏi giật mình tự hỏi liệu người phụ nữ này đã từng biết cười là gì chưa. “Này, Jim.”

Cậu rất thích nghe bà gọi cậu là Jim. Như thể hai người bọn họ đang cùng âm mưu một chuyện gì đó.

“Gì ạ?”

“Mẹ thực sự rất mừng là con đã không chui vào chiếc xe đó, cưng ạ.” Bà hôn lên trán cậu, Jimmy có thể nhìn thấy hai mắt bà lấp lánh, rồi bà đứng dậy tới gia nhập một đám các bà mẹ khác, quay lưng về phía ông chồng.

Jimmy nhìn lên và thấy Dave lại đang đứng ở cửa sổ nhìn cậu, lúc này đâu đó trong phòng sau lưng cậu ta có ánh đèn vàng dịu. Lần này, Jimmy không thử vẫy Dave nữa. Giờ đây khi cảnh sát và đám phóng viên đều đã đi hết, bữa tiệc bước vào giai đoạn tưng bừng nhất, tới mức có khi chẳng còn ai nhớ tới nguyên nhân khai cuộc là gì. Jimmy có thể cảm thấy Dave đang rất cô đơn trong căn hộ đó, chỉ với bà mẹ thần kinh của cậu ta, giữa bốn bức tường màu nâu và ánh đèn vàng hiu hắt trong khi ở dưới phố, lễ hội đang diễn ra rộn ràng. Và một lần nữa cậu cảm thấy vui mừng vì đã không leo lên chiếc xe đó. Hỏng rồi. Đó là từ mà cha Jimmy nói với mẹ cậu tối hôm trước. “Ngay cả khi họ tìm thấy thằng bé còn sống, thì nó cũng hỏng rồi. Chả bao giờ còn được như trước nữa.”

Dave giơ một tay lên và giữ nó lại rất lâu không động đậy. Khi Jimmy vẫy lại cậu cảm thấy một nỗi u uất ập tới, luồn sâu vào trong cậu và lan tỏa thành muôn ngàn con sóng nhỏ. Cậu không rõ sự u uất đó là vì cha cậu, mẹ cậu, cô Powell, khu phố này hay là cái cách Dave giữ bàn tay ấy thật lâu bên cửa sổ, nhưng cho dù là nguyên nhân nào đi nữa, hay là do tất cả những nguyên nhân ấy gộp lại, thì cậu vẫn biết chắc rằng, nỗi u uất đó một khi đã xâm nhậm vào bên trong thì sẽ không bao giờ còn trở ra nữa. Jimmy ngồi trên vỉa hè lúc đó chỉ là một đứa bé mười một tuổi, nhưng lại cảm thấy đã già nua. Như cha mẹ cậu, như con phố này.

Hỏng rồi, Jimmy nghĩ rồi rụt tay xuống và khép vào trong lòng. Cậu nhìn Dave gật đầu với cậu rồi kéo mành cửa xuống, trở vào bên trong căn hộ quá ư là câm lặng đó với những bức tường màu nâu, tiếng đồng hồ kêu tích tắc và Jimmy cảm thấy sự u uất đang bắt rễ và ẩn náu trong người mình như thể nó đã tìm được một ngôi nhà ấm áp khiến cậu thậm chí chả buồn xua nó đi vì phần nào hiểu rằng có làm thế cũng vô ích.

Cậu rời khỏi vỉa hè, trong giây lát không biết phải làm gì. Cậu chợt có một nhu cầu nhức nhối và bức bách được đập phá hay thử một cái gì đó mới mẻ và thú vị. Nhưng rồi bụng cậu réo gào và nhận ra rằng mình vẫn còn đói, cậu lại đi xếp hàng lấy một suất xúc xích nữa, hy vọng là vẫn còn vài chiếc.

Trong mấy ngày đầu tiên, Dave Boyle trở thành một cậu bé nổi tiếng, không chỉ trong khu phố mà trên khắp cả bang. Tờ Record American sáng hôm sau chạy tít chính: CẬU BÉ MẤT TÍCH ĐÃ ĐƯỢC TÌM THẤY. Dưới đó là bức ảnh chụp Dave ngồi trước hiên nhà, cánh tay gầy guộc của bà mẹ vòng quanh ngực cậu, một đám trẻ con khu phố đứng cạnh hai mẹ con Dave, tươi cười trước ống kính, trông ai cũng vui sướng hết mức ngoại trừ mẹ Dave, trông bà cứ như vừa lỡ chuyến xe buýt trong một ngày giá lạnh.

Chỉ trong một tuần ở trường, cũng chính những đứa trẻ xuất hiện bên cạnh cậu ở trang nhất của tờ báo bắt đầu gọi cậu là “đồ quái dị”.

Dave nhìn vào mặt chúng và nhận thấy một mối ác cảm mà có lẽ giống như cậu, chúng cũng không hề biết rõ nguyên nhân. Mẹ Dave bảo có lẽ là từ bố mẹ chúng mà ra, con đừng để ý tới chuyện đó, Davey, chúng rồi sẽ chán và quên chuyện đó đi, sang năm lại là bạn con như trước thôi.

Dave sẽ chỉ gật đầu và tự hỏi không biết cái gì ở cậu – một dấu vết nào đó trên mặt mà cậu không nhìn thấy – khiến ai cũng muốn làm cậu tổn thương. Giống như những gã trong chiếc xe ấy. Tại sao bọn chúng lại chọn cậu? Làm sao mà chúng đoán được cậu sẽ leo lên chiếc xe đó còn Jimmy và Sean thì sẽ không làm vậy? Ngẫm lại, Dave mới thấy vỡ lẽ ra. Hai kẻ đó (cậu biết tên chúng hoặc ít nhất là tên mà chúng gọi nhau nhưng cậu không tài nào gọi lên được) biết là Sean và Jimmy sẽ không trèo lên xe mà không chống cự. Sean có thể sẽ chạy về nhà, kêu gào ầm ĩ còn Jimmy, bọn chúng hẳn phải đánh cho cậu bất tỉnh thì mới lôi được vào trong xe. Lão Sói Bự thậm chí còn nói ra điều đó vài tiếng sau trong lúc lái xe. “Mày có nhìn cái thằng bé mặc áo phông trắng không? Cái cách nó nhìn tao, không mảy may sợ hãi, chả coi ra gì. Thằng bé ấy lớn lên có thể hại người thê thảm mà vẫn ngủ ngon.”

Đồng phạm của hắn, Lão Sói Dơ, cười bảo, “Tao lại thích nó chống chọi một tí.”

Sói Bự lắc đầu. “Chỉ cần lôi nó vào xe là nó sẽ cắn đứt ngón cái của mày luôn. Cái thằng nhãi khốn kiếp đó là nó cắn rụng luôn.”

Gọi chúng bằng những cái tên ác thú Sói Bự và Sói Dơ khiến cậu cảm thấy dễ chịu hơn. Như thế cậu chỉ coi chúng là những con vật, những con sói đội lốt người còn cậu là nhân vật chính trong truyện: Cậu Bé Bị Lũ Sói Bắt Cóc. Cậu Bé Trốn Thoát Khỏi Bầy Sói, vượt qua cả cánh rừng âm u tới trước một cây xăng Esso. Cậu Bé Bình Tĩnh và Mưu Mẹo, luôn tìm ra lối thoát.

Nhưng ở trường cậu chỉ là Cậu Bé Bị Đánh Cắp, và hết thảy mọi người đều ra sức tưởng tượng chuyện gì đã xảy ra trong bốn ngày cậu mất tích đó. Một buổi sáng trong nhà vệ sinh, một học sinh lớp bảy tên là Junior McCaffery đến bên bồn tiểu cạnh Dave và bảo, “Chúng có bắt mày mút cái này không?” và tất cả lũ bạn lớp bảy của cậu ta bắt đầu cười nhạo và tạo ra những tiếng hôn gió.

Dave run rẩy kéo khóa quần lên, mặt cậu đỏ bừng rồi quay sang đối mặt với Junior McCaffery. Cậu cố phóng ra một tia nhìn ghê gớm nhưng Junior chỉ cau mày rồi dang tay tát thẳng một cái giữa mặt cậu.

Âm thanh của cái tát vang khắp phòng. Một nam sinh lớp bảy rú lên như bọn con gái.

“Mày định nói gì hả cái đồ lại cái kia? Gì hả? Mày muốn tao đánh mày lần nữa không, thằng pê đê kia?”

“Cậu ta đang khóc,” ai đó nói.

“Đang khóc thật,” Junior McCaffery cười ré lên và nước mắt Dave càng tuôn trào dữ dội. Cậu cảm thấy vết tê trên mặt cậu bắt đầu nhức nhối nhưng không phải sự đau đơn thể xác làm cậu bận tâm. Sự đau đớn về thể xác chưa bao giờ khiến cậu đau lòng như thế này, và cậu cũng chẳng bao giờ vì thế mà khóc, ngay cả khi cậu ngã xe đạp, rách toạc mắt cá chân và phải khâu tới bảy mũi. Mà là thứ cảm xúc tuôn ra từ đám con trai xung quanh khiến tim cậu đau như cắt. Thù ghét, ghê tởm, giận dữ và khinh bỉ. Tất cả đều nhằm vào cậu. Cậu không hiểu tại sao. Cậu chưa bao giờ làm phiền ai trong đời. Thế nhưng họ vẫn ghét cậu. Và sự thù ghét ấy khiến cậu có cảm giác giống như một đứa trẻ mồ côi, thân cô thế cô. Cậu cảm thấy bản thân vô cùng nhơ nhuốc, tội lỗi và nhỏ bé và cậu khóc vì cậu không cam lòng.

Nhưng tất cả bọn họ đều cười trước những dòng nước mắt của cậu. Junior nhảy nhót một hồi xung quanh, mặt giả vờ nhăn nhó bắt chước dáng điệu đang khóc của Dave. Khi Dave cuối cùng cũng nín lại được chỉ còn vài tiếng sụt sùi thì Junior lại dang tay tát mạnh vào mặt cậu lần nữa, đúng vào chỗ cũ. “Nhìn tao này,” Junior nói và Dave lại cảm thấy những dòng nước mắt nóng hổi tuôn trào từ hai hốc mắt của cậu. “Nhìn tao này.”

Dave ngước lên nhìn Junior hy vọng thấy một chút cảm thông, một chút nhân tính hay thậm chí là sự thương hại trên khuôn mặt thằng bé, nhưng cậu chỉ nhìn thấy một ánh mắt mỉa mai và giận dữ. “Đúng là vậy rồi,” Junior nói, “mày đúng là đã mút cái thứ đó.”

Rồi nó giả vờ giơ tay làm bộ muốn tát Dave một lần nữa khiến cậu sợ hãi chúi đầu xuống. Nhưng Junior bỏ đi chỗ khác với lũ bạn của mình, tất cả bọn chúng đều cười ầm ĩ khi rời khỏi nhà vệ sinh.

Dave chợt nhớ tới những lời ông Peters, một người bạn của mẹ thỉnh thoảng có ngủ lại nhà, từng nói với cậu rằng, “Có hai thứ không bao giờ được nhận từ một người đàn ông khác – là bị nhổ hay tát vào mặt. Hai thứ đó còn tệ hơn cả một cú đấm mạnh, người nào làm thế với cháu thì phải cố mà giết hắn bằng được.”

Dave ngồi sụp xuống sàn nhà vệ sinh và thầm mong cậu có được thứ ý chí đó – cái ý chí giết người đó. Cậu sẽ bắt đầu với Junior McCaffery, cậu đoán vậy, rồi tới Sói Bự và Sói Dơ nếu tình cờ gặp lại bọn chúng. Nhưng sự thật là cậu không làm nổi điều đó. Cậu không biết tại sao con người cứ phải đối xử tệ với nhau. Cậu thật không hiểu nổi. Thật tình không hiểu nổi.

Sau sự việc xảy ra trong nhà vệ sinh, tin tức lập tức lan truyền khắp nơi trong trường, tất cả các học sinh từ lớp ba trở lên đều biết chuyện Junior McCaffery đã làm gì Dave và Dave đã phản ứng như thế nào. Và phán xét đã được đưa ra, ngay cả một số ít học sinh trong lớp mà Dave coi như bạn sau khi trở lại trường học bắt đầu đối xử với cậu như một kẻ mắc bệnh hủi.

Không phải ai trong số họ cũng thì thào sau lưng cậu cái từ “pê đê” khi cậu đi qua trong hành lang hay có những cử chỉ khiếm nhã như phồng mang trợn má trêu cậu. Trên thực tế, phần lớn bạn học chỉ phớt lờ cậu đi. Nhưng chính như thế lại càng tệ. Cậu cảm thấy mình bị đày đọa bởi chính sự im lặng đó.

Nếu chúng vô tình va phải nhau trên đường đi học thì Jimmy Marcus sẽ lặng lẽ rảo bước bên cạnh Dave vì nếu không làm thế thì cũng hơi nực cười, hay nói, “Xin chào” nếu gặp Dave trong hành lang hoặc nếu chúng đứng cạnh nhau khi xếp hàng vào lớp. Dave có thể nhận thấy một cảm xúc phức tạp pha trộn giữa sự hổ thẹn và lòng thương hại hiện lên trên mặt Jimmy mỗi khi mắt hai đứa gặp nhau, như thể Jimmy định nói gì đó nhưng không cất nên lời – Jimmy, lúc nào cũng vậy, chẳng bao giờ nhiều lời, trừ phi đột nhiên bị thôi thúc bởi một ý tưởng quái quỷ nào đó như nhảy xuống đường tàu hay đánh cắp ô tô. Nhưng Dave có cảm giác như thể tình bạn của chúng (mà cậu cũng không dám chắc liệu họ, trên thực tế, có từng thực sự là bạn bè của nhau, vì cậu vẫn còn hơi xấu hổ khi nhớ lại những lần cậu đã phải ép Jimmy chấp nhận tình bằng hững với mình) đã chết khi Dave leo vào chiếc xe đó còn Jimmy đứng lại như trời trồng trên phố.

Nhưng rồi hóa ra Jimmy cũng chẳng ở lại trường với Dave được bao lâu, những lần phải miễn cưỡng đi bộ cùng nhau tới lớp rốt cuộc cũng tránh được. Ở trường, Jimmy lúc nào cũng cặp kè với Val Savage, một thằng nhỏ tâm thần, đầu óc rõ ràng là có vấn đề, đã bị đúp liền hai năm và bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành một kẻ bạo lực điên cuồng khiến hết thảy mọi người đều kinh sợ, từ giáo viên cho tới học sinh. Có câu chuyện đùa về Val (dĩ nhiên là không ai dám nói trước mặt cậu ta) là bố mẹ cậu ta để dành tiền không phải để nộp học phí đại học mà là để nộp tiền bảo lãnh tại ngoại cho cậu ta. Ngay từ trước khi Dave leo lên chiếc xe đó, Jimmy đã thường xuyên giao du với Val ở trường. Đôi khi cậu ta để Dave đi theo hai đứa như lúc đi trấn lột đồ ăn nhẹ ở nhà bếp, hay khi phát hiện ra một mái nhà mới để trèo lên, nhưng kể từ sau vụ bắt cóc, Dave hoàn toàn không được tham gia những phi vụ đó nữa. Khi không còn giận Jimmy vì sự hắt hủi đột ngột của cậu ta, Dave chợt nhận thấy đám mây đen đôi khi quanh quất trên đầu Jimmy lúc trước giờ đã trở thành một thứ vĩnh viễn không rời, y như một vầng hào quang đảo ngược. Jimmy gần đây dường như đã trở nên già nua hơn, buồn bã hơn.

Jimmy cuối cùng cũng đánh cắp một chiếc xe hơi. Chuyện xảy ra gần một năm sau lần mưu toan không thành của chúng ở gần nhà Sean, khiến Jimmy bị đuổi khỏi trường Looey & Dooey và phải đi xe buýt ngang qua nửa thành phố để tới trường Carver nơi cậu ta trải nghiệm cuộc sống của một đứa trẻ da trắng ở East Bucky giữa một môi trường phần lớn là trẻ con da đen. Val cũng bị thuyên chuyển giống cậu ta và Dave nghe nói hai đứa bọn họ nhanh chóng trở thành nỗi khiếp sợ của trường Carver như hai đứa trẻ da trắng điên rồ không biết trời đất là gì.

Chiếc ô tô mà chúng đánh cắp là một chiếc mui trần. Dave nghe nói là của bạn một giáo viên trong trường nhưng cậu không bao giờ biết được là ai. Jimmy và Val lấy cắp nó trong bãi đỗ xe của trường lúc các giáo viên cùng gia đình và bạn bè của họ tham dự một bữa tiệc cuối năm tổ chức tại phòng giáo viên sau giờ học. Jimmy cầm lái và cùng Val làm một vòng càn rỡ quanh Buckingham, bóp còi inh ỏi, vẫy tay trêu gái và rú ga ầm ĩ cho tới khi một xe cảnh sát phát hiện ra chúng. Hậu quả là hai đứa lao cả xe vào một thùng rác công cộng ở Rome Basin, ngay sau phố Zayers. Val bị trật mắt cá chân trong khi chui ra khỏi xe. Jimmy lúc đó đang vượt rào bỏ chạy sang một khu đất trống liền quay lại để giúp bạn. Dave vẫn luôn hình dung ra cảnh tượng đó như một cảnh quay trong phim chiến tranh khi một binh sĩ dũng cảm quay lại cứu đồng đội bị thương, đạn bay rào rào xung quanh họ (dù Dave không tin rằng cảnh sát nổ súng, nhưng cứ nói thế cho oách). Cảnh sát tóm cổ hai đứa tại trận và chúng bị nhốt một đêm trong nhà giam dành cho trẻ vị thành niên. Chúng được phép học nốt lớp sáu vì chỉ còn vài ngày nữa là hết năm học, sau đó gia đình phải tìm trường khác cho chúng.

Dave hầu như không gặp Jimmy kể từ sau sự việc đó, có lẽ mỗi năm chỉ một đôi lần cho tới khi chúng bước sang tuổi thanh thiếu niên. Mẹ Dave không bao giờ để cậu ra khỏi nhà nữa, trừ lúc đi học. Bà tin là những gã đàn ông kia vẫn lẩn quất đâu đó, chờ đợi và lái chiếc xe đầy mùi táo ấy lao tới Dave như những chiếc tên lửa tầm nhiệt.

Dave thì biết là chúng sẽ không xuất hiện. Đó là những con sói, mà lũ sói thì luôn chờ buổi đêm để đi rình mò đánh hơi những con mồi gần nhất, yếu ớt nhất để săn đuổi. Nhưng dạo này chúng lại tới ghé thăm nhiều hơn trong đầu cậu, lão Sói Bự và Sói Dơ cũng như những gì mà chúng đã gây ra cho cậu. Những hình ảnh đó không tấn công vào các giấc mơ của cậu mà len lỏi vào đầu óc cậu trong sự tĩnh mịch khủng khiếp của căn hộ, trong những khoảng thời gian im lặng kéo dài khi cậu cố tập trung đọc truyện tranh, xem vô tuyến hay nhìn ra phố Rester bên ngoài cửa sổ. Mỗi khi chúng xuất hiện, Dave lại nhắm tịt mắt lại để xua đuổi chúng và cố không nhớ tới tên thật của Sói Bự chính là Henry và Sói Dơ là George.

Henry và George, một giọng nói gào thét trong đầu cậu cũng với những hình ảnh bấn loạn. Henry và George, Henry và George, Henry và George, thằng nhóc bẩn thỉu.

Và Dave những muốn bảo cái giọng nói đang vang lên trong đầu cậu rằng cậu không phải là một thằng nhóc bẩn thỉu. Cậu là Chú Bé Trốn Thoát Khỏi Bầy Sói. Và đôi khi để ngăn chặn những hình ảnh đó, cậu tua đi tua lại trong đầu quá trình chạy trốn của mình, từng chi tiết một – vết nứt mà cậu để ý thấy bên cạnh bản lề ở cửa hầm, tiếng xe ô tô lùi xa dần khi chúng ra ngoài nhậu nhẹt, chiếc đinh vít mất đầu mà cậu dùng để nạy vết nứt ngày một lớn dần cho tới khi chiếc bản lề hoen gỉ bung ra kéo theo một mảnh gỗ hình lưỡi dao. Cậu chui ra khỏi căn hầm, thật đúng là một Cậu Bé Nhanh Trí và bò thẳng vào trong rừng theo hướng mặt trời đang lặn tới một trạm đổ xăng của hãng Esso cách đó một dặm. Cậu sửng sốt nhìn tấm bảng hiệu hình tròn màu xanh và trắng đã lên đèn dù trời vẫn chưa tối hẳn. Cái ánh đèn nê ông màu trắng đó như lưỡi dao cắm phập vào tim cậu khiến cậu quỳ khuỵu xuống ngay tại chỗ khu rừng kết thúc và con đường nhựa xám cũ kỹ bắt đầu. Đó chính là tư thế của Dave khi Ron Pierrot, chủ trạm xăng, tìm thấy cậu: quỳ trên hai đầu gối và nhìn chằm chằm vào tấm bảng hiệu. Ron Pierrot là một người đàn ông gầy gò với đôi bàn tay rắn chắc tưởng như có thể bẻ gãy cả một thanh sắt và Dave vẫn thường tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu Cậu Bé Trốn Thoát Khỏi Bầy Sói đúng là một nhân vật trong phim. Vì sao? Vì như thế giữa cậu và Ron hẳn sẽ hình thành một mối liên hệ, Ron sẽ dạy cậu tất cả những điều mà các ông bố dạy con trai mình, hai người bọn họ sẽ cùng chuẩn bị ngựa, súng ống và dấn thân vào những cuộc phiêu lưu bất tận. Họ sẽ cùng nhau có một quãng thời gian thật tuyệt, Ron và Cậu Bé. Họ sẽ trở thành những người hùng, chiến đấu nơi hoang dã, chinh phục đám sói kia.

Trong giấc mơ của Sean, con phố chuyển động. Cậu đang nhìn cánh cửa chiếc xe ô tô có mùi táo mở ra và rồi con phố nhấc chân cậu lên và kéo cậu về phía đó. Dave đang ngồi ở bên trong, rúm ró ở góc bên kia cạnh cửa xe, miệng cậu ta há ra trong một tiếng tru dài không thành tiếng, và con phố mang Sean tới chỗ chiếc xe. Tất cả những gì cậu nhìn thấy trong giấc mơ ấy là cánh cửa xe mở ra và băng ghế sau. Cậu không nhìn thấy gã đàn ông trông giống cảnh sát. Cậu cũng không nhìn thấy gã đi cùng với hắn đang ngồi ở ghế trên. Cậu cũng không nhìn thấy Jimmy mặc dù Jimmy đứng ngay bên cạnh cậu trong suốt thời gian ấy. Cậu chỉ có thể nhìn thấy băng ghế sau, Dave, cánh cửa và đám rác rưởi trên sàn xe. Và rồi cậu nhận ra một chi tiết, giống như một tiếng chuông báo hiệu mà trước đây cậu không nghe thấy, rằng trên sàn xe có rất nhiều rác. Giấy gói đồ ăn nhanh, những vỏ bao khoai tây chiên bị vò nát, vỏ lon bia và soda, những chiếc cốc giấy đựng cà phê tan và một chiếc áo thun bẩn màu xanh lục. Chỉ khi thức dậy và suy ngẫm về giấc mơ đó cậu mới nhận ra rằng nó giống hệt với thực tế, lúc này cậu mới nhớ ra rằng đúng là trên chiếc xe ô tô đó có rất nhiều rác. Ngay cả khi cảnh sát tới nhà cậu và bảo cậu nhớ lại từng chi tiết xem có quên gì không thì cậu cũng không nghĩ tới cái băng ghế sau bẩn thỉu ấy vì cậu hoàn toàn không thể nhớ ra. Nhưng nó lại trở về trong giấc mơ của cậu, và đó cũng chính là lý do khiến cậu có cảm giác chợn rợn, dù lúc đó cậu chưa nhận ra, về gã “cảnh sát” ấy, gã “đồng nghiệp” của hắn và chiếc xe ô tô của chúng. Sean chưa bao giờ nhìn thấy băng sau của một chiếc xe cảnh sát thực thụ nhưng phần nào đó hiểu rằng nó không thể chứa đầy rác như thế. Có lẽ dưới đống rác đó có một quả táo gặm dở khiến cho cả chiếc xe mang một cái mùi như thế.

Một năm sau vụ bắt cóc Dave, cha cậu vào phòng cậu để bảo với cậu hai tin mới.

Tin thứ nhất là Sean đã được nhận vào trường Latin và có thể bắt đầu lớp bảy ở đây vào tháng Chín. Cha cậu bảo ông và mẹ cậu rất tự hào vì điều đó. Trường Latin là nơi đào tạo nhân tài, là nơi dành cho những đứa trẻ có tham vọng.

Chuyện thứ hai ông chỉ nói với lại khi đã gần ra tới cửa, sau một lát ngập ngừng.

“Họ đã bắt được một trong hai gã bọn chúng.”

“Gì cơ ạ?”

“Một trong hai gã bắt cóc Dave. Họ đã bắt được hắn. Hắn ta đã chết. Tự sát ở trong tù.”

“Thế ạ?”

Cha cậu quay lại nhìn cậu. “Đúng thế. Con có thể chấm dứt những cơn ác mộng của mình rồi.”

Nhưng Sean lại hỏi tiếp. “Thế còn gã kia thì sao ạ?”

“Cái tên bị bắt khai với cảnh sát là tên kia chết rồi. Chết trong một tai nạn ô tô hồi năm ngoái. Được chưa?” Cha cậu nhìn cậu bằng một ánh mắt mà cậu hiểu rằng đây sẽ là lần nói chuyện cuối cùng của họ quanh chủ đề này. “Thôi đi rửa ráy để ăn cơm nào, anh bạn.”

Cha cậu đi rồi, Sean vẫn ngồi lại trên giường, tấm nệm lồi lên chỗ cậu giấu chiếc găng chơi bóng chày mới của mình, bên trong có một quả bóng và bên ngoài là những sợi dây thun màu đỏ siết chặt lấy lớp vỏ da.

Tên kia cũng đã chết. Trong một tai nạn ô tô. Sean chỉ mong chính cậu là người lái chiếc xe có mùi táo đó, đâm vào vách đá và lao thẳng chiếc xe xuống địa ngục cùng hắn ta.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.