Sáng Chủ nhật, Jimmy thức dậy trong âm thanh văng vẳng của tiếng trống hội từ xa vọng lại.
Không phải là tiếng trống nhàn nhạt và tiếng chũm chọe chan chát của một ban nhạc đeo khuyên mũi trong hộp đêm ngột ngạt mà là tiếng trống nện bùm bùm, dồn dập, hùng hồn của một đoàn quân nhạc đang đóng ngay bên ngoài Buckingham. Rồi đột nhiên vang lên một tiếng kèn đồng yếu ớt, lạc nhịp. Thế nhưng đó cũng chỉ là một âm thanh xa xôi văng vẳng lại từ cách đó nhiều dãy nhà và gần như tắt ngấm ngay khi chạm đến tai hắn. Trong sự tĩnh lặng tiếp theo đó, hắn nằm im lắng nghe những tiếng động khẽ khàng của buổi sáng Chủ nhật muộn – một buổi sáng đầy nắng dựa vào vạt nắng vàng sậm phía bên kia rèm cửa. Hắn nghe thấy tiếng gật gù của đám chim bồ câu đậu trên bậu cửa sổ và tiếng sủa khô khan của một con chó dưới phố. Hắn nghe thấy tiếng cửa xe ô tô mở ra, đóng vào và chờ đợi tiếng động cơ nổ máy nhưng mãi mà không thấy, và rồi hắn lại nghe thấy tiếng trống bùm bùm, ngày càng tự tin, mạnh mẽ hơn.
Hắn nhìn chiếc đồng hồ trên bàn ngủ, đã mười một giờ trưa. Lần cuối cùng hắn ngủ muộn như thế này là từ cách đây… hắn thực tình nhớ không ra. Có lẽ là từ nhiều năm trước. Dễ tới một thập kỷ cũng nên. Hắn nhớ lại những ngày mệt nhoài vừa qua, cái cảm giác quan tài của Katie nâng lên hạ xuống như một cái cầu thang máy trong người hắn. Và rồi hắn nhớ đêm hôm qua, tới lượt Just Ray Harris cùng Dave Boyle tới thăm trong lúc hắn ngồi uống rượu ở phòng khách, một tay cầm súng, nhìn theo hai người bọn họ vẫy chào hắn từ ghế sau một chiếc xe có mùi táo. Và rồi cái gáy của Katie xuất hiện giữa hai người kia trong khi chiếc xe tiếp tục lăn bánh xuống phố Gannon, Katie không một lần quay đầu nhìn lại, chỉ có Just Ray và Dave vẫy lấy vẫy để, miệng cười toét như hai thằng ngốc, và rồi Jimmy cảm thấy khẩu súng bắt đầu trở nên ngứa ngáy trong lòng bàn tay hắn. Hắn ngửi thấy mùi dầu khét và nghĩ đến việc nhét nòng súng vào trong miệng mình.
Lễ viếng Katie đúng là cơn ác mộng. Celeste xất hiện đúng lúc khách khứa tới đông nhất vào lúc tám giờ tối và dùng nắm đấm của mình tấn công Jimmy, gọi hắn là tên sát nhân. “Anh còn xác của con bé!” Cô ta kêu gào. “Còn tôi thì còn lại gì của anh ấy? Anh ấy đâu, Jimmy, ở đâu?” Bruce Reed và mấy người con trai của ông kéo cô ra khỏi người Jimmy và lôi ra ngoài nhưng Celeste vẫn còn đủ thời gian hét toáng lên. “Sát nhân! Hắn là một kẻ sát nhân. Hắn đã giết chồng tôi! Tên sát nhân kia.”
Sát nhân.
Và rồi sau đó là lễ tang và lễ hạ huyệt, Jimmy đứng đó nhìn người ta đưa con gái hắn vào trong một cái hố rồi ném hàng đống đất đá bẩn thỉu lên nắp quan tài và Katie vĩnh viến biến khỏi cuộc đời hắn dưới ba tấc đất kia như thể nó chưa bao giờ tồn tại.
Cho tới đêm qua, tất cả những áp lực đó như đã ngấm vào tới tận xương tủy của hắn và ăn mòn chúng, cỗ quan tài của Katie không ngừng nâng lên, hạ xuống nâng lên hạ xuống nên tới khi hắn cất súng vào ngăn kéo và ngã xuống giường thì hắn chỉ còn lại một cảm giác bất động, như thể cái chết đã nằm trong tủy sống và máu trong người hắn đã vón cục cả lại.
Ôi Chúa ơi, hắn nghĩ, mình chưa bao giờ mệt mỏi thế này. Quá mệt mỏi, quá buồn bã, quá vô dụng và quá đơn độc. Mình đã kiệt sức bởi chính những lỗi lầm của mình, bởi sự điên rồ và cái nỗi buồn cay đắng và chua xót ấy. Hủy hoại mình bằng chính những tội lỗi của mình. Ôi, Chúa ơi, hãy để con một mình và hãy để con chết để con không tiếp tục làm những việc sai trái nữa và sẽ không còn mệt mỏi, không còn phải mang những gánh nặng về trách nhiệm và tình yêu. Hãy phóng con khỏi tất cả những thứ đó vì con đã quá mệt mỏi vì phải một mình đương đầu với tất cả.
Annabeth đã cố gắng cảm nhận tội lỗi của hắn, những nỗi dằn vặt khủng khiếp của hắn nhưng cô không thể. Vì cô không phải người bóp cò súng.
Và giờ đây, hắn vừa ngủ tới tận mười một giờ. Ngủ suốt mười hai tiếng đồng hồ, say như chết vì hắn không hề biết Annabeth thức dậy khi nào.
Hắn đã đọc ở đâu đó rằng biểu hiện rõ nét của chứng trầm cảm nặng là mệt mỏi kéo dài và nhu cầu bức thiết được ngủ, nhưng khi hắn đã ngồi dậy trên giường, tiếng trống đập thình thịch, hòa lẫn với tiếng kèn đồng trong cùng một nhịp khiến hắn cảm thấy sảng khoái. Hắn có cảm giác trở lại thuở đôi mươi. Hắn cảm thấy vô cùng tỉnh táo như thể sẽ không bao giờ cần phải ngủ lại nữa. Là cuộc diễu hành, hắn chợt nhận ra. Tiếng trống và tiếng kèn và từ đội quân nhạc đang tổng duyệt lần cuối trước khi diễu hành trên đại lộ Buckingham vào buổi trưa. Hắn đứng dậy tới bên cửa sổ kéo rèm lên. Lý do khiến chiếc xe hơi lúc nãy mãi không nổ máy là vì người ta đã phong tỏa đại lộ Buckingham từ khu Hạ cho tới Rome Basin. Cả thảy ba mươi sáu dãy nhà. Hắn nhìn qua cửa sổ xuống đại lộ, mặt đường nhựa màu ghi xanh trông giống như một dải lụa óng ánh dưới mặt trời với một vẻ sạch sẽ chưa từng thấy. Những cột chắn đường màu xanh được đặt trên khắp các ngả rẽ vào đại lộ và trải dài dọc trên các lề đường, tới xa hút tầm mắt.
Mọi người bắt đầu ra khỏi nhà và giữ chỗ trên vỉa hè. Jimmy nhìn họ bày các thùng lạng đựng đồ uống, radio, và các giỏ đồ ăn xuống đường và vẫy tay chào Dan và Maureen Guden lúc này đang mở ghế gấp ra ngồi ở trước của tiệm giặt là Hennessey. Khi họ vẫy tay chào lại, tự dưng hắn thấy cảm động bởi sự quan tâm hiện lên trên gương mặt họ. Maureen chụm tay lên miệng gọi hắn. Jimmy mở cửa sổ, tì vào tấm màn che, hứng lấy ánh mặt trời buổi sáng, không khí rạo rực và cả thứ mùi vị còn sót lại của đám bụi xuân vươn trên rèm cửa.
“Có chuyện gì vậy, Maureen?”
“Tôi nói, cậu khỏe không, chàng trai?” Maureen nói to. “Cậu ổn chứ?”
“Vâng,” Jimmy đáp lại và ngạc nhiên khi nhận ra rằng hắn thực sự cảm thấy rất ổn. Hắn sẽ vẫn mang Katie như một trái tim thứ hai, một trái tim tan nát và giận giữ không bao giờ ngừng những nhịp đập điên cuồng của nó. Hắn chắc chắn về điều đó, hoàn toàn không có ảo tưởng khác. Đau thương sẽ là thường trực, là một phần cơ thể của hắn khó tách rời hơn cả tứ chi. Tuy nhiên vì một lý do nào đó mà trong giấc ngủ dài của mình hắn căn bản đã chấp nhận nó. Nó ở đó, giống như một phần cơ thể hắn và hắn có thể thỏa hiệp với nó. Với nhận định đó, hắn thực sự cảm thấy khá hơn nhiều so với hắn mong đợi. “Tôi…khỏe.” Hắn nói với Maureen và Dan. “Cũng không đến nỗi ấy. Ông bà biết đấy!”
Maureen gật đầu còn Dan lại hỏi, “Cậu có cần gì không. Jim?”
“Ý tôi là nếu cậu có cần bất cứ thứ gì, đừng ngại,” Maureen nói.
Và Jimmmy cảm thấy trào dâng lên một niềm yêu mến và tự hào vô tận đối với họ cũng như đối với cả khu phố này. “Không, tôi rất ổn. Nhưng cảm ơn. Cảm ơn ông bà đã hỏi thăm. Điều đó rất có ý nghĩa với tôi,” hắn nói.
“Cậu sẽ xuống đường chứ?” Maureen hỏi.
“Chắc thế, vâng.” Trong lòng Jimmy lúc này vẫn đang do dự nhưng không hiểu tại sao lại buột miệng nói tiếp, “Lát nữa gặp lại ông bà ở dưới nhé!”
“Chúng tôi sẽ để dành cho cậu một chỗ,” Dan nói.
Họ vẫy Jimmy, Jimmy vẫy lại rồi rời khỏi cửa sổ, ngực vẫn tràn ngập thứ cảm giác pha trộn giữa yêu thương và tự hào. Những người đó là người của hắn. Và đây là khu phố của hắn. Nhà của hắn. Họ sẽ dành cho hắn một chỗ. Không còn nghi ngờ gì nữa. Vì hắn là Jimmy của khu Hạ.
Đó là biệt hiệu mà những người hàng xóm lớn tuổi đặt cho hắn trước khi hắn ở tù Deer Island. Họ dẫn hắn tới những câu lạc bộ trên phố Prince ở North End và giới thiệu, “Carlo này, đây là người bạn mà tôi đã kể với cậu, Jimmy. Jimmy của Khu Hạ.”
Rồi Carlo hay Gino hay một người nào đó có thể kết thúc với chữ O sẽ trợn tròn mắt lên và nói, “Không đùa đấy chứ? Jimmy Khu Hạ. Rất vui được gặp cậu, Jimmy. Tôi ngưỡng mộ danh tiếng của cậu đã lâu.”
Sau đó họ sẽ tiếp tục trêu đùa về tuổi của hắn – “Gì cơ, cậu mở cái két sắt đầu tiên bằng kim băng cài tã của mình?” – nhưng Jimmy có thể thấy sự tôn trọng, nếu không nói là hơi e dè của những người từng trải này đối với sự hiện diện của hắn.
Hắn là Jimmy của Khu Hạ. Lập nên băng nhóm ở tuổi mười bảy. Mười bảy tuổi – ai có tin được không? Một gã hoàn toàn nghiêm túc. Không thể đùa được. Một kẻ biết giữ mồm giữ miệng, hiểu luật chơi và biết tôn trọng người khác. Một kẻ biết mang lại tiền tài lại cho bạn bè.
Trước kia hắn là Jimmy Khu Hạ, bây giờ hắn vẫn là Jimmy Khu Hạ, và những con người bắt đầu tụ tập dưới đường theo dõi cuộc diễu hành kia – tất cả bọn họ đều yêu mến hắn. Họ lo lắng cho hắn và muốn chia sẻ nỗi đau của hắn hết mức có thể. Và hắn đã làm gì để đền đáp lại sự thương yêu đó? Điều này khiến hắn suy nghĩ. Hắn thực sự có thể làm gì để đáp trả?
Gần đây nhất của khu phố này kể từ khi băng nhóm của Louie Jello bị cảnh sát liên bang và luật chống hoạt động băng đảng phạm tội làm cho tan rã là việc bảo kê khu phố dường như đã rơi vào tay, hừm, Bobby O’Donnel? Bobby O’Donnell và Roman Fallow. Hai tên buôn thuốc phiện hạng gà chuyển sang làm bảo kê và cho vay nặng lãi. Jimmy nghe đồn chúng đã đạt được một thỏa thuận ngầm với các băng đảng người Việt ở Rome Basin để cho lượng người Việt nhập cư vào đây tiếp tục gia tăng, rồi cùng nhau phân chia địa bàn và đã ăn mừng liên minh này bằng cách đốt thành tro tiệm hoa của Connie như một lời cảnh cáo đối với bất cứ ai không muốn trả tiền bảo kê cho chúng.
Đó không phải là một cách làm đúng. Mà thượng sách là phải tránh làm ăn ở nơi mình sinh sống hay chớ biến nơi mình sinh sống thành chỗ làm ăn. Nếu biết bảo vệ những người xung quanh, cho họ cuộc sống yên ổn thì đổi lại, để bày tỏ sự biết ơn, họ sẽ trông chừng cho anh và trở thành tai mắt của anh mỗi khi có rắc rối. Đôi khi sự biết ơn ấy xuất hiện dưới hình dạng một chiếc phong bì, một chiếc bánh gato hay một chiếc xe hơi, tùy tâm của họ, giống như một phần thưởng cho công sức của anh đã bỏ ra để bảo vệ cuộc sống yên lành của họ.
Đó chính là thượng sách để quản lý một khu dân cư. Ra tay nghĩa hiệp. Quyền lợi của người khác cũng chính là quyền lợi của mình. Không thể để Bobby O’Donnell và mấy tên học nghề da vàng mắt dẹt kia nghĩ rằng chúng có thê nghênh ngang tới đây muốn làm gì thì làm. Trừ khi chúng không muốn bị đuổi ra mà không còn hai chân để đi nữa.
Jimmy rời khỏi phòng ngủ và nhận ra trong nhà không có ai. Cánh cửa ở cuối hành lang mở rộng và hắn có thể nghe thấy giọng nói Annabeth vang lên từ căn hộ ở tầng trên và tiếng bàn chân nhỏ xíu của các con gái hắn chạy nhốn nháo trên sàn gỗ đuổi theo con mèo của Val. Hắn đi vào buồng tắm, mở nước và chờ cho nước ấm rồi mới bước vào, ngửa mặt lên hứng lấy những tia nước dưới vòi hoa sen. Lý do duy nhất khiến O’Donnell và Farrrow chưa bao giờ dám quấy rầy cửa hàng của Jimmy là vì chúng biết hắn có quan hệ chặt chẽ với anh em nhà Savege. Và giống như bất cứ ai biết suy nghĩ, O’Donnell rất e dè bọn họ. Và nếu như hắn và Roman sợ đám anh em nhà Savage thì suy ra chúng cũng sẽ sợ Jimmy.
Chúng sợ Jimmy. Jimmy của Khu Hạ. Bởi vì đúng như danh tiếng của hắn, Jimmy là một người rất có đầu óc. Và với anh em nhà Savage ở đằng sau chống lưng thì hắn sẽ có tất cả, sức mạnh, trí tuệ, chả còn sợ hãi bất cứ điều gì. Jimmy Marcus với anh em nhà Savage mà hợp lực với nhau thì họ có thể…
Sao chứ?
Khiến khu phố này an toàn như nó xứng đáng được vậy.
Và điều hành cả cái thành phố khốn kiếp này.
Biến nó thành của mình, làm chủ nó.
“Xin đừng, Jimmy. Chúa ơi. Tôi muốn gặp vợ tôi. Tôi muốn sống cuộc đời của mình. Jimmy? Xin đừng tước đoạt đi của tôi điều đó. Hãy nhìn tôi!”
Jimmy nhắm mắt lại và cảm thấy những tia nước nóng đang khoan vào sọ hắn. “Hãy nhìn tôi!”
Tôi đang nhìn cậu đây, Dave. Tôi đang nhìn cậu đây.
Jimmy nhìn khuôn mặt van nài của Dave, nước dãi tứa ra chả khác gì đám nhớt dãi trên môi và cằm Just Ray Harris mười ba năm về trước.
“Hãy nhìn tôi!”
Tôi đang nhìn, Dave. Tôi đang nhìn đây. Cậu không nên chui ra khỏi chiếc xe đó. Cậu có biết không? Cậu nên đi hẳn. Cậu trở về đây, về khu phố này nhưng không còn nguyên vẹn. Cậu không bao giờ phù hợp với cuộc sống ở đây nữa, Dave, vì bọn chúng đã đầu độc cậu và chất độc đó chỉ chờ cơ hội phát tác.
“Tôi không giết con gái anh, Jimmy. Tôi không giết Katie. Tôi không có, tôi không có.”
Có lẽ cậu đã không làm chuyện đó, Dave. Giờ thì tôi đã biết. Mọi việc bắt đầu sáng tỏ, dường như cậu thực sự không liên quan gì tới chuyện đó cả. Nhưng vẫn có chút khả năng là cảnh sát đã bắt nhầm mấy thằng nhóc ấy, nhưng tôi phải thú nhận rằng, nhìn chung cuộc, có vẻ như cậu thực sự vô tội trong cái chết của Katie.
“Vậy thì sao?”
Nhưng cậu vẫn giết người, Dave. Cậu đã giết một người nào đó. Celeste đã đoán đúng về điều này. Với lại cậu cũng biết chuyện gì sẽ xảy ra với những đứa bé bị lạm dụng.
“Không, Jim. Hãy nói cho tôi xem nào?”
“Rồi chính chúng cũng sẽ biến thành những kẻ lạm dụng trẻ con. Chỉ là vấn đề sớm hay muộn. Chất độc vẫn nằm trong cơ thể cậu và nó cần phải phát tác. Tôi chỉ là muốn bảo vệ các nạn nhân tương lai đáng thương khỏi chất độc của cậu thôi, Dave. Có thể là bảo vệ chính con trai cậu.”
“Đừng có lôi con trai tôi vào chuyện này, hãy để cho nó được yên.”
Được thôi. Thế thì có lẽ là con cái của bạn bè cậu vậy. Nhưng Dave, sớm hay muộn thì cậu cũng sẽ bộc lộ thân phận thực sự của mình.
“Đó là cách cậu tự biện minh cho hành động giết người của mình ư, Jim?”
Một khi đã chui vào chiếc xe đó, Dave, cậu không bao giờ nên quay lại nữa. Đó chính là lý do của tôi đấy. Cậu không thuộc về chỗ này. Cậu vẫn chưa hiểu sao? Đó chính là tính chất của một khu phố – là nơi những người giống nhau, gắn bó với nhau cùng sinh sống. Một kẻ khác tuyệt đối không được hoan nghênh.
Giọng Dave xuyên qua làn nước và âm vang trong đầu Jimmy. “Tôi hiện đang cư trú trong người cậu. Cậu không thể nào khiến tôi im lặng.”
Có chứ, Dave, tôi hoàn toàn có thể làm được điều đó.
Và Jimmy tắt vòi nước bước ra khỏi bồn tắm. Hắn lau khô người và hít thứ không khí đầy hơi nước đó vào hai lỗ mũi. Hắn thậm chí cảm thấy đầu óc mình thông suốt hơn lúc trước. Hắn chùi đi đám hơi nước trên chiếc cửa sổ nhỏ trong góc buồng tắm và nhìn xuống con hẻm phía sau ngôi nhà. Trời hôm nay nắng và trong trẻo tới mức ngay cả con hẻm đó trông cũng sạch sẽ. Chúa ơi, đúng là một ngày đẹp trời. Một Chủ nhật tuyệt vời. Hoàn hảo cho cuộc diễu hành. Hắn sẽ dẫn vợ con xuống phố, nắm tay nhau và ngắm những người đi diễu hành, các đội lễ nhạc, xe rước và các quan chức đi thành từng đoàn dưới ánh mặt trời rực rỡ. Và họ sẽ ăn xúc xích, kẹo bông, hắn sẽ mua cho các con cờ và áo sơ mi với biểu tượng của Buckingham. Qua trình hồi phục của hắn sẽ bắt đầu giữa tiếng chũm chọe, tiếng trống, tiếng kèn và tiếng reo hò mừng vui của khu phố. Mọi thứ sẽ được chữa lành, hắn tin như vậy khi họ đứng đó trên vỉa hè ăn mừng ngày khu phố của họ ra đời. Và khi cái chết của Katie lại đè nặng lên họ vào những giờ tiếp theo của buổi tối, khi cơ thể họ bắt đầu có dấu hiệu suy sụp trước sức nặng của con bé thì họ ít nhất cũng đã có một buổi chiều thư giãn vui vẻ để một phần cân bằng nỗi đau. Đó sẽ là bước khởi đầu của sự phục hồi. Tất cả bọn họ sẽ đều nhận thức được rằng, ít nhất thì trong vài tiếng đồng hồ của buổi chiều này họ sẽ được nếm mùi vui vẻ, nếu không nói là sung sướng.
Hắn rời khỏi cửa sổ, vốc nước ấm lên mặt, bôi kem cạo râu lên má và cổ rồi khi bắt đầu cạo râu, hắn chợt vỡ ra một điều, hắn là một người xấu. Nhưng hắn không có cảm giác chấn động, trong lòng nổ tung vì một phát hiện long trời lở đất. Chỉ là một ý nghĩ vừa lóe lên, một nhận thức mới giống như những ngón tay đang nhẹ nhàng tú lấy ngực hắn.
Ừ thì mình là người xấu.
Hắn nhìn vào gương và chẳng cảm thấy gì ghê gớm. Hắn yêu các con mình, hắn yêu vợ. Và họ yêu hắn. Họ tìm thấy ở hắn một niềm tin vững chắc. Trên đời này rất ít người có được điều đó.
Hắn đã giết một người đàn ông vì một tội ác mà có lẽ anh ta không phạm phải, nhưng tệ hơn là hắn không cảm thấy ân hận gì lắm. Trước đó rất lâu rồi hắn cũng đã giết một người khác. Và hắn chôn hai người họ dưới đáy dòng sông Kỳ Bí. Hắn thực sự quý mến cả hai người đó, có lẽ với Ray nhỉnh hơn một chút nhưng đúng là hắn thích cả hai. Thế nhưng hắn vẫn giết họ. Vì nguyên tắc.
Hắn nhớ cái lần đứng trên một mỏm đá cạnh bờ sông nhìn gương mặt của Ray chuyển sang trắng bệch, sệ xuống và chìm dưới làn nước mắt vẫn mở to, chết chóc. Vậy mà trong tất cả những năm sau đó hắn chẳng cảm thấy dằn vặt ghê gớm gì dù vẫn tự nhủ rằng mình đã gây ra tội lỗi. Nhưng cái mà hắn gọi là tội lỗi thực ra là nỗi sợ hãi bị rước lấy nghiệp chướng, rằng những việc hắn làm sẽ trở thành nghiệp chướng giáng xuống đầu người thân của hắn. Cái chết của Katie chính là hoàn thành nghiệp chướng đó – Ray tái sinh trong bụng vợ hắn rồi chui ra để giết Katie không vì nghiệp chướng thì là vì cái gì.
Còn Dave? Họ lồng xích sắt vào lỗ gạch rồi buộc chặt thi thể của Dave rồi khóa hai đầu lại. Sau đó họ nâng thi thể của Dave lên vừa đủ để quăng xuống sông và Jimmy có cảm giác như người chìm xuống đáy sông đó là cậu bé Dave hồi xưa chứ không phải Dave trưởng thành của ngày hôm nay. Chẳng ai biết chính xác được cậu sẽ rơi xuống chỗ nào. Chỉ biết là cậu nằm đó, dưới đáy dòng sông Kỳ Bí và nhìn lên. Hãy ở lại đó, Dave. Hãy ở lại đó.
Sự thật Jimmy chẳng bao giờ hối hận gì nhiều về những việc mà hắn đã làm. Đúng là hắn có nhờ một người quen ở New York gửi cho nhà Harris mỗi tháng năm trăm đô la trong suốt mười ba năm qua nhưng không phải là vì lòng tốt mà chỉ để cho họ tiếp tục nghĩ rằng Just Ray vẫn còn sống và không bao giờ nghĩ tới chuyện đi tìm hắn. Bây giờ, khi con trai Ray phải ngồi tù thì mặc xác, hắn sẽ không gửi tiền nữa. Dùng tiền đó vào việc nào khác có ích hơn.
Hắn quyết định sẽ dùng tiền đó cho khu phố. Sẽ dùng chúng để bảo vệ khu phố của mình. Khi nhìn mình trong gương, hắn một lần nữa xác định, khu phố này chính là của hắn. Từ giây phút này trở đi hắn sẽ là chủ nhân của khu phố này. Hắn đã sống lừa dối suốt mười ba năm qua, giả vờ suy nghĩ như một công nhân gương mẫu và bỏ phí không biết bao cơ hội làm ăn lớn. Họ sẽ xây dựng một sân vận động ở đây? Đươc thôi. Hãy nói về những công nhân mà chúng ta đại diện? Đươc thôi. Nhưng tốt hơn hết các anh nên để mắt tới đám máy móc của mình, lũ ngốc. Ghét nhất là xảy ra những chuyện hỏa hoạn với đám máy móc đó.
Hắn sẽ ngồi sẽ ngồi xuống với Val và Kevin thảo luận tương lai của mình. Thị trấn này đang chờ được khai quật. Và Bobby O’Donnell nữa. Tương lai của hắn sẽ không sáng sủa chút nào nếu hắn tiếp tục quanh quẩn ở East Bucky.
Hắn kết thúc việc cạo râu, nhìn lại mình một lần nữa trong gương. Hắn là người xấu? Thì cứ như thế đi. Hắn có thể sống với điều đó vì trong tim hắn có tình yêu và trong lòng hắn có niềm tin. Tương quan lực lượng hoá ra cũng khá cân bằng.
Hắn mặc quần áo. Trong lúc đi qua bếp hắn có cảm giác như người đàn ông mà hắn giả dạng suốt bằng ấy năm vừa trôi tụt xuống cống cùng với nước bẩn. Hắn nghe thấy tiếng mấy đứa con gái hắn ré lên cười, chắc là bị con mèo của Val liếm mặt và nghĩ, Chúa ơi, âm thanh đó mới tuyệt vời làm sao.
Trên phố, Sean và Lauren tìm thấy một chỗ trước quán cà phê Nate & Nancy. Nora đang ngủ trong xe đẩy và họ đặt con bé dưới bóng râm của mái hiên. Hai người đứng dựa lưng vài tường ăn kem ốc quế. Sean nhìn vợ mình và tự hỏi không biết hai người bọn họ có thể vượt qua cơn sóng gió này hay một năm dài chia cắt đã gây ra quá nhiều thương tổn, hủy hoại tình yêu của họ cùng tất cả những năm tháng tươi đẹp cuả cuộc hôn nhân trước kia. Lauren nắm lấy tay anh siết chặt và anh nhìn xuống con gái mình. Con bé trông thật đáng yêu, giống như một cô công chúa nhỏ, khiến lòng anh tràn ngập ấm áp.
Xuyên qua đám diễu hành dưới lòng đường, Sean thấy Jimmy và Annabeth Marcus cùng hai cô con gái nhỏ xinh xắn của họ ngồi vắt vẻo trên vai Val và Kevin Savage vẫy ta chào đón từng chiếc xe rước và xe mui trần diễu qua.
Hai trăm mười sáu năm về trước người ta đã cho xây nhà tù đầu tiên trong vùng dọc theo bờ con kênh mang tên nó. Những cư dân đầu tiên của Buckingham là những người quản ngục cùng gia đình họ và vợ con của các phạm nhân đó. Đó không phải là một thỏa ước dễ dàng. Khi những người tù mãn hạn, họ thường đã quá mệt mỏi hay già yếu để chuyển đi chỗ khác và Buckingham nhanh chóng được biết đến như một nơi chứa chấp các thành phần bất hảo. Các quán rượu mọc lên nhan nhản dọc theo đại lộ chính, trên các con phố bẩn thỉu của nó trong khi gia đình những người quản ngục chiếm lĩnh những quả đồi và xây nhà mình trên khu Thượng để một lần nữa nhìn xuống những người mà họ quản thúc. Những năm 1800, việc chăn nuôi gia súc bùng nổ, những bãi rào chăn nuôi gia súc và lò mổ bùng nổ, những bãi rào chăn nuôi gia súc và lò mổ mọc lên như nấm xung quanh khu vực đường cao tốc hiện nay, một đường tàu chở hàng chạy song song trên phố Sydney và đám gia súc xuống tàu ở đây sẽ được dẫn vào trung tâm theo đúng lộ trình của đoàn diễu hành lúc này. Các thế hệ gia đình tù nhân và truyền nhân của những người làm việc trong các lò giết mổ súc vật ngày càng đẩy về khu Hạ về sát với đường tàu. Nhà tù đóng của sau một động thái cải cách từ lâu đã bị quên lãng và rồi cơn sốt chăn nuôi cũng chấm dứt nhưng những quán rượu vẫn không ngừng mọc lên. Làn sóng những người nhập cư gốc Ailen tràn vào, kế tiếp dòng người nhập cư gốc Ý nhưng với lực lượng đông đảo gấp đôi và tuyến đường sắt trên cao ra đời khiến mọi người đổ xô vào thành phố kiếm việc làm nhưng hết ngày lại quay về đây. Mọi người quay lại vì chính họ đã dựng lên cái làng này, biết rõ những mối nguy cũng như ưu điểm của nó và điều quan trọng nhất là ở đây không có gì khiến họ ngạc nhiên. Từ những vụ ăn đút, chém giết đẫm máu, hay những vụ ẩu đả trong quán bar, những trận khúc côn cầu trên phố hay những cuộc làm tình sáng thứ Bảy đều có lôgic riêng của nó. Một lôgic mà người ngoài không nhìn thấy được. Và chính vì vậy mà người lạ không được hoan nghênh ở đây.
Lauren dựa vào người anh, đầu cô chạm vào cằm anh và Sean cảm thấy mối hoài nghi trỗi dậy trong lòng anh nhưng đồng thời cả sự quyết tâm và khao khát xây dựng lại niềm tin. Cô nói, “Anh có sợ lắm không khi thằng bé đó chĩa súng vào mặt anh?”
“Em muốn biết sự thật?”
“Vâng.”
“Xém chút nữa thì không còn điều khiển được bàng quang.”
Cô nhích mái đầu đang tựa vào cằm anh ra để nhìn anh. “Thật ư?”
“Ừ.”
“Lúc đó anh có nghĩ tới em không?”
“Anh có. Anh nghĩ tới hai mẹ con em.”
“Anh nghĩ gì?”
“Anh nghĩ tới quang cảnh này, tới ngày hôm nay.”
“Về cuộc diễu hành và mọi thứ?”
Anh gật đầu.
Cô hôn lên gáy anh. “Anh chỉ nói nhăng nói cuội, nhưng mà em vẫn thích khi nghe anh nói thế.”
“Anh không nói dối.” anh nói.
Cô nhìn xuống Nora. “Con bé có đôi mắt của anh.”
“Và cái mũi của em.”
Cô nhìn con gái họ và nói, “Em hi vọng chuyện của chúng ta sẽ đâu vào đó.”
“Anh cũng vậy,” anh nói và hôn cô.
Họ lại đứng dựa lưng vào tường, một dòng người không ngừng chuyển động dọc theo vỉa hè trước mặt họ và Celeste đột nhiên xuất hiện. Da cô tái mét, tóc lấm tấm gàu và không ngừng kéo các ngón tay như thể muốn lôi chúng ra khỏi các khớp xương.
Cô chớp mắt nhìn Sean và nói, “Chào anh, nhân viên Devine.”
Sean chìa tay ra vì trông Celeste có vẻ rất cần ai đó nói chuyện, nếu không thì sẽ tan biến mất. “Chào Celeste. Gọi tôi là Sean được mà.”
Cô bắt tay anh. Tay cô nhơm nhớp, những ngón tay nóng rực, và buông ra ngay khi tay họ chạm vào nhau.
Sean nói, “Đây là Lauren, vợ tôi.”
“Xin chào,” Lauren nói.
“Chào cô.”
Trong giây lát không ai trong ba người họ biết nói gì. Họ đứng đó, yên lặng, hơi lúng túng và rồi Celeste nhìn sang phía bên kia đường và Sean dõi theo ánh mắt của cô tới chỗ Jimmy đang đứng đó vòng tay ôm lấy Annabeth, hai người bọn họ trông rực rỡ tựa ánh nắng, vây quanh bởi bạn bè và người thân. Trông họ như sẽ không bao giờ để tuột khỏi tay bất cứ thứ gì nữa.
Celeste nói, “Hắn đã giết chồng tôi.”
Sean cảm thấy Lauren đang nhìn anh sững sờ.
“Tôi biết. Hiện giờ tôi chưa thể chứng minh được nhưng tôi biết là hắn.”
“Anh sẽ làm được chứ?”
“Làm gì cơ?”
“Chứng minh hắn là thủ phạm?” cô nói.
“Tôi sẽ cố gắng, Celeste. Tôi xin thề có Chúa.”
Celeste nhìn ra đại lộ và điên cuồng gãi đầu như thể đang tìm chấy. “Gần đây, đầu óc tôi gần như không biết thế nào là phải trái nữa.” Cô cười. “Nghe thật ngớ ngẩn đúng không? Nhưng tôi không thể. Thực sự là không thể phân biệt được nữa.”
Sean vươn tay nắm lấy cổ tay cô. Cô ngước lên nhìn anh, đôi mắt nâu của cô già hẳn đi và đầy vẻ điên dại. Cứ như cô đang nghĩ anh sẽ tát cô.
Anh nói. “Tôi có thể đưa cho cô tên của một bác sĩ, Celeste, một chuyên gia về những người bị mất thân nhân trong những tội ác nghiêm trọng.”
Cô gật đầu mặc dù những lời của anh dường như chẳng đem lại chút an ủi nào. Cô vùng tay ra khỏi tay anh và lại tiếp tục kéo các ngón tay của mình. Cô để ý thấy Lauren đang quan sát mình liền lập tức nhìn xuống các ngón tay. Cô buông chúng ra rồi lại giơ lên, cuối cùng khoanh lại trước ngực rồi giấu hai bàn tay xuống dưới khuỷu, cứ như sợ chúng bay đi mất. Sean để ý thấy Lauren hơi do dự mỉm cười, một biểu hiện của sự đồng cảm với nỗi đau khổ của người khác và anh ngạc nhiên thấy Celeste cũng đáp lại bằng một nụ cười và sự biết ơn trong mắt.
Anh cảm thấy yêu vợ mình sâu đậm và có cảm giác trở nên nhỏ bé trước khả năng tương thân tương ái của cô đối với những người trong hoàn cảnh thiệt thòi. Cho tới lúc này anh tin rằng kẻ phá hoại cuộc hôn nhân của họ chính là anh với sự ích kỷ và cái tôi quá lớn của nghề nghiệp, sự khinh bỉ tích tụ của anh đối với lỗi lầm và khiếm khuyết của con người.
Anh vươn tay vuốt má Lauren và cử chỉ đó khiến Celeste ngại ngùng quay mặt đi.
Cô nhìn xuống đại lộ, xuống chiếc xe rước hình chiếc găng tay bóng chày đang lướt qua, bám trên thành xe là những cầu thủ bóng chày nhỏ tuổi mặt mũi tươi rói, ra sức vẫy tay, sung sướng phát cuồng vì sự ngưỡng mộ của người xem.
Có gì đó ở cái xe rước hình găng tay khiến Sean lạnh buốt sống lưng, giống như chiếc găng khổng lồ không che chở cho lũ trẻ mà đang âm mưu nhốt chúng lại mà bọn nhóc vẫn tươi cười hớn hở không hề hay biết.
Trừ một thằng bé. Nó ngồi rúm lại một góc, đầu chúi xuống là lập tức Sean nhận ra: Đó là con trai của Dave.
“Michael!” Celeste vẫy thằng bé nhưng nó không hề nhìn lại. Mắt nó vẫn nhìn xuống dù mẹ liên tục gọi tên nó. “Michael, cưng ơi! Con trai yêu quý này, Michael!”
Chiếc xe rước tiếp tục trôi đi, Celeste tiếp tục gọi và con trai cô tiếp tục khước từ nhìn về phía mẹ mình. Sean có thể nhìn thấy một Dave trẻ hơn trên đôi vai thằng bé, ở cái cằm rũ xuống và vẻ ngoài gần như thanh tú của nó.
“Michael!” Celeste vẫn gọi. Cô kéo các ngón tay của mình và bước hắn xuống lòng đường.
Chiếc xe rước đã đi qua chỗ họ nhưng Celeste vẫn đi theo nó, di chuyển trong đám đông và không ngừng vẫy gọi con trai mình.
Anh cảm thấy Lauren đang vơ vẩn vuốt tay anh và nhìn sang bên kia đường về phía Jimmy. Cho dù mất cả đời, anh cũng sẽ bắt được hắn. Cậu có nhìn thấy tôi không hả Jimmy? Nhìn sang đây lần nữa đi nào.
Và Jimmy khẽ quay ra và mỉm cười với Sean.
Sean giơ tay lên, ngón cái dựng lên, ngón trỏ chĩa thẳng ra như hình khẩu súng rồi gập ngón cái xuống và bóp cò.
Jimmy toét miệng cười đáp lại.
“Người phụ nữ đó là ai?” Lauren hỏi.
Sean nhìn Celeste đang lóc cóc đi theo đám đông xem diễu hành, bóng dáng mỗi lúc một nhỏ đi, khi chiếc xe rước tiếp tục tiến về phía trước, tà áo bay phấp phới sau lưng.
“Một người vợ mất chồng,” Sean đáp.
Và anh nghĩ tới Dave Boyle, thầm mong giá như anh có thể mời cậu ấy cái ly bia mà anh đã hứa ngày thẩm vấn thứ hai. Giá như anh có thể đối xử tử tế hơn với Dave khi còn nhỏ, giá như cha không bỏ rơi cậu ấy còn mẹ thì không mắc bệnh thần kinh và biết bao nhiêu điều bất hạnh khác xảy ra với Dave. Đứng đó trên con đường diễu hành giữa tưng bừng lễ hội với vợ và con mình, anh mong ước biết bao điều tốt đẹp cho Dave Boyle. Nhưng hơn tất cả, anh mong Dave bình an. Trên hết, anh hy vọng rằng Dave, cho dù cậu ấy đang ở đâu đi nữa thì cũng tìm được cho mình một chút bình an.