Đó không thể chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Mila trình bày cho những người có mặt nghe các tình tiết nổi bật của vụ án gần nhất mà cô đảm trách, vụ thầy dạy nhạc. Khi nghe cô thuật lại lời của trung sĩ Morexu về việc phát hiện ra cái tên Priscilla trong cuốn sổ của “con quỷ”, Sarah ngước mắt nhìn trời, còn Stern cũng lắc đầu hùa theo.
Họ không tin cô. Cũng dễ hiểu thôi. Nhưng Mila không chịu chấp nhận ý nghĩ cho rằng không có mối liên quan nào cả. Chỉ mình Goran là để mặc cô. Không biết ông muốn đi đến đâu với điều đó. Mila muốn bằng mọi giá tìm hiểu sâu hơn về sự tình cờ này. Nhưng từ cuộc trao đổi với Veronica Bermann, cô chỉ thu được một kết quả duy nhất: cô ta nói đã theo dõi ông chồng đến tận nhà của nhân tình, nơi hiện tại nhóm điều tra đang tìm đến. Có thể chỗ đó đang che giấu các bí mật kinh hoàng khác. Biết đâu là thi thể của các bé gái còn lại.
Và còn lời giải đáp cho câu hỏi về nạn nhân số sáu.
Mila những muốn nói với mọi người rằng cô muốn đặt tên Priscilla cho cô bé, nhưng cô nín thinh. Giờ đây cái tên đó giống như một lời chế nhạo. Như thể cái tên ấy đã được lựa chọn bởi chính Bermann, tên đao phủ của cô bé.
Tòa chung cư nhỏ có cấu trúc điển hình của một khu ngoại ô. Một khu nhà tồi tàn kinh điển, được xây dựng vào thập niên sáu mươi, hệ quả của một khu công nghiệp mới mở hồi ấy. Nó bao gồm nhiều tòa nhà màu xám, bị thời gian phủ lên lớp bụi đỏ bay ra từ một nhà máy thép trong khu vực. Các ngôi nhà có giá trị thương mại thấp và cần được trùng tu khẩn cấp. Sống trong đó là một lớp người tạm cư, gồm chủ yếu là dân nhập cư, thất nghiệp và các gia đình sống nhờ vào trợ cấp của chính phủ.
Goran nhận thấy không ai dám nhìn Mila. Họ giữ khoảng cách vì nữ cảnh sát dường như đã vượt qua giới hạn khi nêu ra một ý kiến không ai chờ đợi.
– Làm thế nào bọn họ chọn sống trong một nơi như thế này? – Boris lẩm nhẩm tự hỏi trong khi kinh tởm nhìn xung quanh.
Căn hộ họ tìm kiếm nằm ở cuối khối nhà. Nó là một tầng lửng chỉ có thể tiếp cận bởi cầu thang lộ thiên. Cửa vào bằng sắt. Ba ô cửa sổ duy nhất nhìn ra đường được lắp chấn song và bịt ván gỗ từ bên trong.
Stern cố gắng nhìn qua cửa trong một tư thế lom khom kì cục, tay khum lại che mắt, hông đưa ra phía sau để giữ cho quần khỏi bị vấy bẩn.
– Ta chẳng thể tìm ra được gì từ chỗ này.
Boris, Stern và Rosa gật đầu với nhau rồi đứng vào vị trí bên cạnh cửa. Stern ra hiệu cho Goran và Mila lùi lại phía sau. Boris tiến đến gần cánh cửa. Nhà không có chuông, nên anh dùng bàn tay đập cửa rất mạnh. Tiếng động có tác dụng trấn át, nhưng ngược lại anh cất tiếng nói bằng một giọng điềm tĩnh:
– Thưa bà, cảnh sát đây. Vui lòng mở cửa…
Đó là kỹ thuật gây sức ép tâm lý để làm đối tượng mất phương hướng: nói chuyện bằng giọng cố tình kiên nhẫn, trong khi vẫn gây sức ép. Nhưng có vẻ lần này nó không thành công, vì căn hộ dường như không có người.
– Ta vào thôi. – Rosa đề nghị. Cô ta là người sốt ruột nhất trong nhóm.
– Cần phải đợi Roche gọi điện báo là đã xin được lệnh khám nhà. – Boris nói, mắt nhìn đồng hồ. – Chắc cũng không còn lâu nữa đâu..
– Mặc xác ông ta với cái lệnh khỉ gió kia! – Rosa phản đối. – Trong nhà chẳng biết đang có cái quái gì nữa!
Goran can thiệp:
– Rosa có lý, chúng ta vào thôi.
Theo như cách mà bọn họ tiếp nhận quyết định của ông, Mila có thể khẳng định, trong đội điều tra, tiếng nói của Goran có trọng lượng hơn của Roche.
Mọi người vào vị trí quanh cánh cửa. Boris rút ra một cái tuốcnơvít và bắt đầu phá ổ khóa. Nó nhanh chóng bị tháo tung. Súng nắm chắc trong tay, anh đẩy cánh cửa bằng sắt ra.
Thoạt nhìn, căn hộ dường như không có người ở.
Nhà có một hành lang hẹp, trống trải. Ánh sáng ban ngày không đủ rọi sáng nó. Rosa bật đèn pin. Ba cánh cửa hiện lên. Hai cái nằm bên trái. Cái cuối cùng nằm ở cuối hành lang. Nó đã bị đóng.
Cả đội chầm chậm tiến vào trong căn hộ. Boris đi đầu, tiếp đến là Rosa, rồi Stern và Goran. Mila khóa đuôi. Ngoại trừ nhà tội phạm học, những người còn lại đều có súng trong tay. Mila chỉ là một thành viên “dự thính” của đội, và trên lý thuyết cô không được dùng súng, nhưng cô vẫn để nó trong túi quần, tay siết chặt báng, sẵn sàng rút nó ra. Chính vì lý do này mà cô là người vào sau cùng.
Boris thử bật công tắc trên tường.
– Không có điện.
Anh giơ đèn pin lên để quan sát bên trong căn phòng thứ nhất. Nó trống rỗng. Trên tường là một vết ố lan từ dưới sàn ra trên lớp thạch cao, nom như một con cua. Các đường ống của lò sưởi và nước bẩn dính với nhau trên trần nhà. Một lỗ nước thải xuất hiện trên sàn nhà.
– Tởm quá! – Stern thốt lên.
Không ai có thể sống trong điều kiện như thế này.
– Tôi thấy rõ ràng là căn hộ không có người ở. – Rosa nói.
– Vậy cái chỗ này là gì? – Boris hỏi.
Họ chuyển sang căn phòng thứ hai. Cánh cửa đã bị kẹt, hơi long ra khỏi tường, bản lề han gỉ: cái xó này tạo thành một nơi lẩn trốn dễ dàng cho một tên giết người, nếu có. Boris đá tung cánh cửa, nhưng phía sau nó không có ai. Căn phòng hoàn toàn giống hệt với cái đầu tiên. Gạch lát nền bị bong lên đôi chỗ, để lộ lớp xi măng bên dưới. Không hề có đồ đạc gì, ngoại trừ khung thép của một chiếc xa lông. Họ tiếp tục công cuộc khám nhà.
Chỉ còn một căn phòng nằm ở cuối hành lang, nơi có cánh cửa đóng kín.
Boris đưa ngón cái và ngón trỏ trái lên, chỉ vào mắt mình. Stern và Rosa hiểu ý, lập tức đứng vào hai bên cửa. Chàng cảnh sát trẻ lùi lại một bước, rồi đá một cú đúng vào chỗ nắm cửa. Cánh cửa bật mở và ba người lập tức chĩa súng, rọi đèn pin vào trong phòng. Bên trong phòng cũng không có ai.
Goran lách qua các cảnh sát, lướt bàn tay đi găng cao su trên tường. Ông tìm thấy công tắc. Sau hai hồi chớp tắt, một ngọn đèn tuýp bật sáng trên trần, rọi xuống căn phòng thứ ánh sáng huỳnh quang của nó. Căn phòng rất khác biệt so với hai cái trước. Trước tiên, nó sạch sẽ. Các bức tường không có vết ố nào vì được dán giấy chống thấm. Lớp gạch lát sàn còn nguyên vẹn và sạch sẽ. Căn phòng không có cửa sổ, nhưng sau vài giây, một cái máy điều hòa bắt đầu chạy. Các thiết bị điện không được gắn ngầm trong tường, chứng tỏ chúng đã được lắp vào sau này. Các ống nhựa dẫn dây cáp điện tỏa ra từ công tắc mà Goran vừa bật, và từ một bảng điện ở phía bên phải của căn phòng. Ở đó, có một cái bàn và một chiếc ghế văn phòng kê sát tường. Trên bàn là một máy tính đang tắt.
Đó là những món đồ hiện diện trong căn phòng, ngoài ra một chiếc ghế bành bọc da cũ kê dựa vào bức tường bên trái, phía đối diện.
– Có vẻ như đây là căn phòng duy nhất mà Alexander Bermann quan tâm. – Stern nói với giáo sư Goran.
Rosa tiến lại gần máy vi tính.
– Tôi bảo đảm là các câu trả lời chúng ta đang tìm kiếm nằm ở trong này.
Nhưng Goran đã giữ tay Rosa lại.
– Không. Nên tiến hành theo trình tự. Chúng ta sẽ ra khỏi đây để không làm ảnh hưởng đến độ ẩm của không khí. – Sau đó ông nói với Stern. – Anh gọi cho Krepp, để anh ta cùng nhóm của mình đến thu thập dấu vân tay. Còn tôi sẽ báo cho Roche.
Căn cứ vào ánh sáng lấp lánh trong đôi mắt của nhà tội phạm học, Mila hiểu ông đang tin chắc mình đã đến gần sát một điều rất quan trọng.
Krepp lướt các ngón tay trên đầu tựa như để chải lại tóc, mặc dù chẳng còn mấy sợi ngoài một vành tóc sau gáy cột thành chiếc đuôi ngựa dài xuống lưng. Một con rắn hai màu xanh đỏ duỗi mình trên cẳng tay, há miệng ngay vị trí bàn tay ông. Ngoài hình xăm đó, ông còn một hình tương tự trên cánh tay kia cũng như trên ngực, lộ ra qua lớp áo sơmi. Đằng sau những cái khuyên xỏ trên mặt, người ta có thể nhận ra Krepp, chuyên viên của đội khoa học hình sự.
Mila ngẩn người trước ngoại hình của ông già sáu mươi khác người. Cô tự nhủ chắc đây là hình ảnh về già của những người hâm mộ nhạc rock. Tưởng vậy, nhưng cho đến vài năm trước đây, Krepp vẫn là một người đàn ông trung niên hoàn toàn bình thường, khá nghiêm khắc và có ngoại hình tương đối nhàm chán. Sau khi đã biết ông không mất trí, chẳng ai còn phàn nàn gì về ngoại hình hiện tại của ông, vì Krepp là người giỏi nhất trong lĩnh vực của mình.
Sau khi cám ơn giáo sư Goran vì đã gìn giữ độ ẩm nguyên bản của hiện trường, Krepp lập tức bắt tay vào công việc. Ông ở trong căn hộ một tiếng đồng hồ cùng với nhóm làm việc của mình, tất cả đều mặc áo blu và đeo khẩu trang để tự bảo vệ mình trước các loại hóa chất dùng để phát hiện dấu vân tay. Sau đó Krepp xuống khỏi căn gác lửng, tiến lại gần nhà tội phạm học và Roche, lúc này đã đi đến nơi.
– Anh khỏe không Krepp? – Ngài chánh thanh tra chào ông.
– Vụ nghĩa địa cánh tay khiến tôi phát điên. – Krepp bình phẩm. – Chúng tôi đang khám nghiệm các cánh tay này để tìm kiếm một dấu vân tay hữu ích thì các anh gọi.
Goran biết việc lấy dấu vân tay trên lớp da người là điều cực kỳ khó, do sự nhiễm bẩn có thể xảy ra, do mồ hôi của chủ thể, hoặc là do hiện tượng phân hủy nếu là da của tử thi, giống như trường hợp của các cánh tay.
– Tôi đã thử xông iốt, giấy Kromekote, thậm chí dùng cả điện ký.
– Nó là gì vậy?
– Đó là phương pháp hiện đại nhất để lấy dấu vân tay in trên da: chụp X-quang điện tử… Cái gã Albert đáng nguyền rủa này quá khôn khéo trong việc xóa dấu vết. – Krepp nói.
Mila nhận thấy Krepp là người duy nhất còn dùng cái tên đó để gọi kẻ sát nhân, vì đối với những người còn lại, kể từ nay kẻ sát nhân đã mang nhân dạng của Alexander Bermann.
– Vậy, ở đây chúng ta có gì nào? – Roche hỏi, tỏ vẻ mệt mỏi khi phải nghe những điều mà ông cho là vô ích.
Người kỹ thuật viên tháo găng tay và thuật lại những việc ông vừa làm, mắt vẫn nhìn xuống đất.
– Chúng tôi đã sử dụng ninhydrin, nhưng do kết quả không rõ nét dưới đèn laser, nên tôi đã thay bằng dung dịch muối kẽm chlorua. Chúng tôi đã tìm thấy nhiều loạt vân tay trên giấy dán tường cạnh công tắc, và trên lớp phủ nhiều lỗ xốp của chiếc bàn. Còn với máy vi tính, mọi việc có khó khăn hơn. Các dấu vân tay chồng chéo lên nhau chúng tôi sẽ phải dùng đến cyanoacrylate, nhưng cần phải đem bàn phím vào buồng áp suất và…
– Để sau hãy hay. Chúng ta không có thời gian để kiếm một cái bàn phím khác thay thế, trong khi cần phải kiểm tra máy tính ngay. – Thanh tra Roche vội vã cắt ngang. – Nói tóm lại, các dấu vân tay thu được là của cùng một người à?
– Phải, tất cả đều là của Alexander Bermann.
Những chữ ấy khiến mọi người chấn động, ngoại trừ những ai đã biết trước câu trả lời, và những người đã biết ngay từ lúc đặt chân vào căn hộ tầng lửng này.
– Có vẻ như Priscilla không hề tồn tại. – Giáo sư Gavila nói.
Ông buông ra lời khẳng định mà không buồn nhìn sang Mila. Cô thấy tự ái ghê gớm.
Krepp tiếp tục nói:
– Còn một điều nữa… Cái ghế bành bọc da.
– Sao cơ? – Mila cất tiếng hỏi.
Krepp nhìn cô cảnh sát như khi người ta quan sát một ai đó lần đầu tiên, sau đó mắt ông chiếu vào đôi tay băng bó của cô và tỏ ra kinh ngạc. Mila không thể không cảm thấy ngược đời khi Krepp, với tác phong ăn mặc của ông, lại đi nhìn cô như vậy. Nhưng cô không để lộ điều đó.
– Trên ghế không có dấu vân tay.
– Như thế là không bình thường à? – Mila hỏi.
– Tôi không rõ. – Krepp nói gọn lỏn. – Tôi chỉ nói là dấu tay có ở khắp nơi, ngoại trừ trên đó.
– Nhưng chuyện đó thì nhằm nhò gì? Chúng ta có dấu vân tay của Bermann ở trên tất cả những thứ khác. – Roche chen ngang. – Như vậy là đủ để cho chúng ta buộc tội hắn… Mà, nếu anh cần biết thì, cái tay này làm tôi càng ngày càng ngán đấy.
Mila lại nghĩ lẽ ra Roche phải rất đỗi hài lòng mới phải, vì hắn là giải pháp cho mọi vấn đề rắc rối của ông ta kia mà.
– Vậy tôi làm gì với cái ghế đây? Tiếp tục phân tích à?
– Kệ cha cái ghế đi. Anh để cho người của tôi xem qua cái máy tính đã.
Nghe thấy viên thanh tra nói chuyện bằng giọng ấy, các thành viên trong đội điều tra phải cố không nhìn nhau để khỏi bật cười. Đôi khi Roche nói chuyện bằng giọng điệu còn ngang tàng hơn cả bộ dạng của Krepp.
Roche tiến về phía chiếc xe đang đợi ông ở cuối khối nhà, trước đó không quên buông lời động viên mọi người:
– Các bạn, tôi trông cậy ở các bạn đấy nhé.
Khi ông ta đã đi đủ xa, Goran nói với cả nhóm:
– Được rồi, ta cùng xem trong cái máy tính kia có gì.
Họ quay trở vào trong phòng. Lúc này các bức tường đã được phủ vải nhựa, nom như một bào thai khổng lồ. Sào huyệt của Alexander Bermann cuối cùng cũng phải mở cửa với họ. Chí ít thì đó là điều cả nhóm đang hy vọng. Mọi người đeo găng tay cao su vào. Sarah Rosa ngồi vào vị trí. Đã đến lượt cô ra tay.
Trước khi bật nguồn, cô nhét một thứ vào cổng USB. Stern bật máy ghi âm đặt cạnh bàn phím. Rosa bắt đầu diễn giải:
– Tôi vừa kết nối một bộ nhớ ngoài vào máy tính của Bermann: nếu như máy bị treo, lập tức mọi dữ liệu trong ổ cứng sẽ được chuyển sang bộ nhớ ngoài.
Những người còn lại im lặng đứng chung quanh Rosa.
Cô mở máy.
Đèn tín hiệu nhấp nháy, nối tiếp bằng tiếng ro ro đặc trưng khi ổ đĩa cứng khởi động. Mọi thứ có vẻ bình thường. Chiếc máy vi tính uể oải thức dậy. Nó thuộc một đời máy cũ, giờ đã không còn được bán trên thị trường nữa. Trên màn hình lần lượt xuất hiện các dữ liệu hệ thống trước khi nhường chỗ cho một màn hình làm việc. Chẳng có gì quan trọng: một hình nền bầu trời xanh, với các biểu tượng chương trình hoàn toàn bình thường.
– Trông chẳng khác gì cái máy ở nhà mình. – Boris thử tếu táo một câu, nhưng không ai cười cả.
– Tốt… giờ thì ta xem trong thư mục hồ sơ của ngài Bermann có gì nào…
Rosa nhấp chuột vào biểu tượng hồ sơ. Trống rỗng. Cũng giống như thư mục hình ảnh và dành sách các tập tin được mở gần đây.
– Không có một tập tin văn bản nào… Chuyện này rất lạ. – Goran nhận xét.
– Có lẽ hắn xóa tất cả sau mỗi lần sử dụng. – Stern phỏng đoán.
– Nếu là thế, tôi có thể thử khôi phục lại chúng. – Rosa khẳng định, chắc như đinh đóng cột.
Cô nhét một chiếc đĩa vào trong đầu đọc và nhanh chóng cho chạy một chương trình có thể khôi phục bất cứ tập tin bị xóa nào.
Bộ nhớ của máy tính không bao giờ bị xóa hoàn toàn, và ta không thể xóa được một số thông tin nhất định, tựa như chúng đã được khắc sâu không thể xóa nhòa. Mila còn nhớ đã từng nghe nói là hợp chất silicone hiện diện trong mỗi chiếc máy tính hoạt động hơi giống não người. Ngay cả khi người ta ngỡ đã quên một điều gì đó, trên thực tế ở đâu đó trong bộ não vẫn có một nhóm tế bào lưu giữ lại thông tin ấy, và một ngày kia sẽ cung cấp nó cho chúng ta dưới dạng một hình ảnh hoặc một linh tính. Điều cốt yếu không phải là ghi nhớ xem khi nào chúng ta bị bỏng lửa lần đầu tiên, mà quan trọng là, sau khi lược bỏ mọi tình huống sinh học gây ra nó, ý thức đó được ghi sâu vào bộ nhớ của chúng ta và nhắc ta mỗi khi đến gần thứ gì quá nóng. Đó là điều Mila nghĩ đến khi một lần nữa nhìn xuống đôi tay băng bó… Rõ ràng là ở đâu đó trong đầu cô đã lưu giữ một thông tin sai lạc.
– Trong này chẳng có gì.
Lời nhận xét đầy tiếc nuối của Rosa đưa Mila trở lại với thực tại. Chiếc máy tính hoàn toàn trống rỗng.
Nhưng Goran không bỏ cuộc.
– Còn trình duyệt mạng nữa.
– Nhưng máy tính này không có kết nối Internet. – Boris lưu ý.
Tuy nhiên lần này Rosa đã hiểu ý đồ của nhà tội phạm học. Cô rút điện thoại di động ra và bấm các nút điều chỉnh trên màn hình.
– Có sóng… Có lẽ hắn vào mạng nhờ điện thoại.
Rosa mở trình duyệt trên máy tính và kiểm tra danh sách các địa chỉ trang mạng lưu trong quá khứ. Chỉ có một địa chỉ duy nhất.
– Hóa ra đây là thứ Bermann làm ở trong cái xó này!
Đó là một dãy số. Địa chỉ là một mã số.
http://4589278497.89474525.com
– Nó có thể là địa chỉ của một máy chủ tư nhân. – Rosa phỏng đoán.
– Nghĩa là sao? – Boris hỏi.
– Tức là cậu không thể truy cập nó từ một trang tìm kiếm, và để vào được cậu phải có mật mã. Có lẽ nó được cài trực tiếp trong chiếc máy tính này rồi cũng nên. Nhưng nếu không phải vậy, chúng ta có nguy cơ bị từ chối truy cập vĩnh viễn.
– Vậy thì ta phải thận trọng và làm chính xác những gì Bermann đã làm… – Goran nói, trước khi quay sang phía Stern. – Ta có điện thoại di động của hắn không?
– Có, tôi để nó trong xe hơi, cùng với máy vi tính nhà hắn.
– Vậy anh ra lấy nó đi…
Khi Stern quay lại, mọi người đón anh trong im lặng. Rõ ràng mọi người đang rất sốt ruột đợi anh quay vào. Anh đưa di động của Bermann cho Rosa. Cô kết nối nó với máy tính, sau đó bắt đầu kết nối vào mạng. Máy chủ phải cần một lúc để tiếp nhận máy tính. Nó thiết lập các thông số, sau đó nhanh chóng tải dữ liệu.
– Có vẻ như nó để cho chúng ta truy cập không gặp trở ngại…
Mọi người dán mắt vào màn hình, chờ đợi một hình ảnh có thể hiện lên vào bất cứ lúc nào. Đó có thể là bất cứ cái gì, Mila thầm nghĩ. Một sự căng thẳng tột độ bao trùm lên mọi thành viên trong nhóm tựa như một dòng năng lượng chạy xuyên từ cơ thể người này sang người khác. Họ có thể cảm nhận được nó trong không khí.
Trên màn hình xuất hiện các điểm ảnh nằm lung tung như những miếng ghép bé xíu của một bức tranh ghép hình. Nhưng mọi người không ngờ đến điều họ nhìn thấy. Luồng năng lượng cao tràn ngập trong không gian nãy giờ đột ngột tụt xuống, sự nhiệt tình của mọi người tan biến.
Màn hình hóa đen.
– Chắc hẳn là có một hệ thống bảo vệ. – Rosa tuyên bố. – Nó coi lần thử vừa rồi của chúng ta như một sự xâm nhập.
– Nó giấu tín hiệu đi à? – Boris lo lắng hỏi.
– Tất nhiên rồi! – Rosa nổi cáu. – Cậu nghĩ tôi ngu chắc? Có lẽ phải cần từ khóa, hoặc một thứ gì đó…
– Cái gì đó kiểu như “Tên đăng nhập” và “Mật mã” ấy à? – Goran hỏi, ông đang cố hiểu tình hình.
– Đại loại như thế. – Rosa lơ đãng đáp. – Cái chúng ta có là một địa chỉ kết nối trực tiếp. Tên đăng nhập và mật mã là cơ chế bảo mật xưa rồi. Chúng để lại dấu vết và luôn cho phép ta truy ngược ra người sử dụng. Những kẻ truy cập vào đây không muốn để lộ danh tính.
Mila không nói tiếng nào. Tất cả những chuyện này khiến cô căng thẳng. Cô hít thật sâu và siết chặt nắm đấm làm các khớp xương kêu răng rắc. Có một điều gì đó không hợp lý, nhưng cô không tài nào xác định được. Goran quay sang cô trong một thoáng, như thể rất bứt rứt về cái nhìn của cô. Mila vờ như không nhận thấy điều đó.
Trong khi chờ đợi, không khí trong căn phòng bắt đầu nóng dần. Boris trút giận vào Rosa vì cú thử nghiệm vô ích.
– Nếu chị nghĩ có thể tồn tại một hàng rào ngăn chặn truy cập, tại sao chị không thực hiện quy trình kết nối song song?
– Thế sao cậu không đề nghị chuyện đó lúc nãy?
– Tại sao? Chuyện gì đang xảy ra thế? – Giáo sư Goran hỏi.
– Chuyện là khi có một hệ thống bảo vệ như thế này thì ta không có cách nào truy cập được!
– Chúng ta sẽ thử chế ra một từ khóa mới và cố gắng lần nữa. – Sarah Rosa đề nghị.
– Thật á? Nhưng phải có đến hàng triệu tổ hợp ấy! – Boris chế nhạo.
– Cậu xéo ra chỗ khác đi! Cậu muốn đổ lỗi lên đầu tôi đấy à?
Mila im lặng chứng kiến màn quặc nhau của họ.
– Nếu ai có đề nghị hay định dạy dỗ gì, cứ việc nói ngay từ đầu có phải hơn không!
– Nhưng hễ ai nói một chữ là chị lại nhảy chồm chồm lên!
– Này, Boris, khôn hồn thì biến! Tôi có thể cho cậu…
– Cái gì thế này?
Câu nói của Goran rơi xuống như một thanh chắn giữa hai đối thủ. Giọng điệu của ông không hoảng hốt, cũng không sốt ruột như Mila tưởng, nhưng nó vẫn có hiệu quả để buộc hai người kia phải im lặng.
Nhà tội phạm học đang chỉ một thứ gì đó phía trước mặt. Nhìn theo cánh tay phải của ông, mọi người lại một lần nữa chú ý màn hình máy tính.
Nó không còn đen ngòm nữa.
Ở góc trên bên trái, một hàng chữ xuất hiện.
“a do ha?”
– Khỉ thật! – Boris rủa.
– Này, có chuyện gì thế? Ai đó giải thích cho tôi nghe được không? – Goran hỏi lại một lần nữa.
Rosa lại ngồi vào trước màn hình, đưa tay vào bàn phím.
– Chúng ta đã vào được. – Cô thông báo.
Những người khác xúm lại quanh cô để nhìn cho rõ hơn.
Dấu chuột trên hàng chữ vẫn tiếp tục nhấp nháy, như thể đợi một câu trả lời cho đến lúc này vẫn chưa xuất hiện.
“a ha?”
– Tóm lại, ai đó có thể giải thích cho tôi chuyện đang diễn ra được không? – Goran sốt ruột nói.
Rosa nhanh chóng đưa ra lời giải thích:
– Đây là một cái cổng.
– Nghĩa là sao?
– Cổng truy cập. Rõ ràng chúng ta đang vào trong một hệ thống phức tạp. Trên màn hình là một hộp thoại: một kiểu chát… Ở đầu bên kia có một kẻ nào đó.
– Và kẻ đó muốn nói chuyện với chúng ta… – Boris nói thêm.
– Hay đúng hơn là với Alexander Bermann. – Mila đính chính.
– Vậy thì còn đợi gì nữa? Trả lời đi! – Stern vội vàng nói.
Giáo sư Gavila nhìn Boris: anh chàng cảnh sát chính là chuyên gia thương thuyết. Anh tiến đến đứng sau lưng Rosa để nhắc cho cô dễ hơn.
– Cứ trả lời là chị đang ở đây.
Rosa gõ phím:
“Uh, anh day”
Họ đợi một vài giây. Sau đó một hàng chữ khác xuất hiện trên màn hình.
“ko co tin gi cua a, e lo wa”
Boris đọc tiếp một câu trả lời khác cho Rosa. Anh nhắc cô viết chữ thường, giống như kẻ đối thoại, do rằng một số người thấy e ngại khi đối phương dùng chữ hoa. Mà họ thì đang muốn kẻ kia cảm thấy thoải mái.
“a ban lam, e sao roi?”
“ho hoi e nhiu lem, nhung e ko noi gi het”
Người nào đó đã đặt câu hỏi? Về chuyện gì?
Mọi người, đặc biệt là giáo sư Goran, lập tức có cảm giác là người mà họ đang đối thoại có dính líu đến một điều gì đó mờ ám.
– Có thể hắn đã bị cảnh sát hỏi thăm, nhưng rồi họ thấy không cần thiết phải bắt giữ hắn lại. – Rosa phỏng đoán.
– Hoặc có thể là họ không có đủ bằng chứng. – Stern ủng hộ ý kiến của Rosa.
Trong đầu mọi người bắt đầu vẽ lên hình ảnh kẻ tòng phạm của Bermann. Mila nhớ lại chuyện đã xảy ra ở nhà nghỉ, khi cô cảm thấy bị bám theo. Cô chưa tiết lộ chuyện này với ai, do sợ rằng đó chỉ là ảo giác.
Boris quyết định hỏi người đối thoại bí mật:
“ai hoi e?”
Bên kia ngừng một chút.
“ho”
“ho la ai?”
Không có câu trả lời. Boris quyết định phớt lờ sự im lặng và thử đi vòng qua chướng ngại vật bằng cách đặt một câu hỏi khác.
“e da noi gi voi ho?”
“e noi voi ho chien a dan e, vay la ok”
Ngoài sự tối nghĩa của từ ngữ sử dụng, Goran còn lưu ý các lỗi chính tả mà kẻ kia liên tục mắc phải.
– Đây có thể là một kiểu mật mã nhận diện. – Ông lý giải. – Có thể hắn cũng chờ đợi chúng ta phạm các lỗi chính tả tương tự. Nếu như chúng ta không làm thế, hắn có thể chấm dứt đối thoại.
– Có lý đấy. Chị hãy bắt chước lối viết và các cách sử dụng từ ngữ của hắn. – Boris nhắc Rosa.
Trong lúc đó, một hàng chữ khác xuất hiện trên màn hình.
“e da chun bi moi thu nhu a dan. e mun di lem. bao gio a?”
Cuộc đối thoại này chẳng đưa họ tới đâu cả. Vậy nên Boris bảo Rosa trả lời là hắn sẽ sớm biết “thời điểm”, nhưng lúc này cần phải ôn lại kế hoạch để bảo đảm là nó trót lọt.
Mila thấy đó là một ý rất hay. Làm như thế, họ có thể thu được thêm thông tin về kẻ mà họ đang đối thoại. Một lát sau, hắn hồi âm:
“ke hoach la: ra khoi nha ban dem de ko ai thay. 2h ra dau duong nup trong bui cay doi. a se nhay den xe 3 lan de e chui ra”
Chẳng ai hiểu chuyện gì. Boris nhìn quanh dò hỏi. Mắt anh chạm mắt giáo sư Goran.
– Giáo sư, ông nghĩ sao?
Nhà tội phạm học suy nghĩ một lúc.
– Tôi không biết nữa… Có một thứ gì đó không ổn, nhưng tôi không tài nào chộp được nó.
– Tôi cũng thế, tôi cũng có cùng cảm giác như thế. – Boris đáp. – Kẻ ở đầu bên kia… có thể nói là hắn bị chậm phát triển trí tuệ hoặc là thiểu năng tâm lý.
Goran tiến lại gần Boris hơn nữa.
– Cần phải buộc hắn lộ diện.
– Bằng cách nào?
– Tôi không biết nữa… Cứ bảo hắn là anh không chắc chắn được, rằng anh tự hỏi liệu có nên chấm dứt mọi chuyện. Cứ bảo hắn “họ” cũng đang sờ gáy anh, sau đó yêu cầu hắn cung cấp một minh chứng… Chẳng hạn, bảo hắn gọi điện cho anh theo một số an toàn!
Rosa vội vã đánh máy. Sau đó suốt một lúc lâu, dòng hồi đáp trên màn hình chỉ có dấu nháy. Rồi rốt cuộc câu trả lời cũng xuất hiện.
“e ko goi dien dc. ho nghe len”
Rõ quá rồi: hoặc hắn rất khôn ranh, hoặc hắn sợ bị rình mò thật.
– Thúc ép hắn. Xoay đường khác. Tôi muốn biết “họ” ở đây là ai. – Goran nói. – Hỏi hắn xem “họ” đang ở đâu lúc này.
Câu trả lời đến ngay lập tức.
“ho o gan lem”
– Hỏi hắn xem gần đến mức nào? – Goran nhấn mạnh.
“ho o ke ben e”
– Nhưng thế là thế nào? Khỉ thật! – Boris văng tục, anh cáu tiết đưa tay lên ôm lấy gáy.
Rosa ngả người dựa vào lưng ghế, lắc đầu chán nản.
– Nếu như “họ” ở gần hắn đến thế, và lại đang trông chừng hắn nữa, tại sao họ không nhìn thấy những điều hắn đang viết?
– Vì họ không thấy những gì chúng ta đang thấy. – Mila đáp.
Cô hài lòng nhận thấy mọi người không quay lại để nhìn cô như nhìn một bóng ma vừa lên tiếng. Nhưng ngược lại, nhận xét của cô làm cho cả nhóm chú ý trở lại.
– Ý cô là thế nào? – Giáo sư Gavila hỏi.
– Chúng ta cứ nghĩ là hắn cũng giống như chúng ta, đang ngồi trước một màn hình đen. Nhưng theo tôi nghĩ, hộp thoại của hắn nằm trong một trang mạng cùng với nhiều thứ khác, có thể là những hình trang trí chuyển động, các văn bản hoặc hình ảnh… Đó là lý do mặc dù “họ” ở rất gần, nhưng vẫn không nhận ra hắn đang trao đổi với chúng ta.
– Cô ấy nói có lý! – Stern thốt lên.
Một không khí sảng khoái kỳ lạ lại tràn ngập trong phòng. Giáo sư Goran nói với Rosa:
– Ta có thể thấy những gì hắn thấy được không?
– Tất nhiên rồi. – Rosa đáp. – Tôi sẽ gửi cho hắn một tín hiệu nhận biết, và khi máy tính của hắn gửi lại, chúng ta sẽ có địa chỉ trang web mà hắn đang kết nối.
Trong lúc nói, cô đã kịp mở điện thoại di động để tạo một kết nối mạng thứ hai.
Một lúc sau, trên màn hình xuất hiện dòng chữ:
“a con o do ko?”
Boris nhìn Goran:
– Ta trả lời thế nào đây?
– Tìm cách câu giờ. Nhưng đừng để hắn nghi ngờ.
Boris viết cho hắn, bảo đợi một lát vì có người gọi cửa nên phải ra mở.
Trong lúc đó, trên điện thoại của mình, Sarah Rosa đã sao chép thành công địa chỉ Internet mà kẻ kia đang vào để chát.
– Đây rồi, ta tìm ra rồi… – Cô thông báo.
Cô đưa các thông tin vào trong cửa sổ truy cập và nhấn nút “chạy”. Sau một vài giây, một trang web xuất hiện.
Không ai rõ liệu sự kinh ngạc hay nỗi kinh hoàng đang làm mọi người câm lặng.
Trên màn hình, những con gấu đang nhảy múa cùng với bầy hươu cao cổ, hà mã dùng chân đánh trống châu Phi theo nhịp và một con tinh tinh chơi đàn ukulele. m nhạc tràn ngập căn phòng. Giữa không gian rừng xanh, một con bướm đủ màu sắc chào mừng sự kết nối của họ.
Tên của nó là Priscilla.
Tất cả mọi người không tin nổi vào mắt mình và hoàn toàn câm lặng. Boris ngước mắt nhìn màn hình máy tính, nơi một câu hỏi vẫn đang nhấp nháy:
“a con o do ko?”
Chỉ đến giây phút đó, anh mới có thể thốt ra những chữ đau lòng:
– Chó chết… Đây là một đứa trẻ.