Kẻ Nhắc Tuồng

Chương 23



Nó đã ở trước mắt họ ngay từ đầu.

Ngôi nhà đối diện đã quan sát họ hoài công đi tìm lời giải đáp trong câm lặng suốt cả ngày trời. Nó ở đó, cách họ vài bước chân, và kêu gọi họ bằng cách nhắc đi nhắc lại tín hiệu cầu cứu lỗi thời duy nhất ấy.

Ngôi nhà hai tầng thuộc về một bà Yvonne Gress nào đó. Một họa sĩ, theo như lời kể của hàng xóm. Bà ta sống với hai người con, một cậu bé mười một và một cô bé mười sáu tuổi. Họ dọn đến Capo Alto sau khi Yvonne ly dị chồng, và bà quay lại với niềm đam mê nghệ thuật đã từng từ bỏ để đi lấy một luật sư trẻ nhiều triển vọng.

Lúc đầu, những bức tranh trừu tượng của Yvonne không được công chúng đón nhận. Phòng tranh không bán được một bức nào sau cuộc triển lãm cá nhân. Nhưng tin tưởng ở tài năng của mình, bà đã không bỏ cuộc. Khi một người bạn đặt vẽ một bức chân dung gia đình bằng chất liệu sơn dầu để treo trên lò sưởi, Yvonne đã phát hiện ra mình có một thế mạnh ở trường phái hội họa ngây thơ. Chỉ trong thời gian rất ngắn, bà đã trở thành họa sĩ vẽ tranh chân dung được yêu cầu nhiều nhất bởi những ai đã chán những tấm ảnh thông thường và muốn lưu giữ hình ảnh gia đình mình trên vải.

Khi thông điệp bằng mã Morse hướng sự chú ý của mọi người sang ngôi nhà bên kia đường, một người bảo vệ sực nhớ ra rằng bà Yvonne và các con đã không xuất hiện một thời gian.

Rèm cửa sổ đã được buông xuống, nên không thể quan sát bên trong.

Trước khi thanh tra Roche ra lệnh tiến vào trong nhà, Goran đã gọi vào số điện thoại của Yvonne. Ngay sau đó, giữa sự yên tĩnh của con đường, họ nghe thấy tiếng chuông điện thoại vang ra từ trong nhà, nhỏ nhưng rõ. Không ai bắt máy.

Các cảnh sát cũng đã cố liên lạc với người chồng cũ của bà Yvonne Gress với hy vọng ít ra bọn trẻ đang ở cùng ông ta. Khi tìm ra người đàn ông đó, cảnh sát được cho biết là bố con họ không gặp nhau từ lâu. Chẳng có gì phải ngạc nhiên vì ông ta đã bỏ gia đình để chạy theo một cô người mẫu ngoài hai mươi tuổi và cho rằng việc gửi một khoản tiền chu cấp hàng tháng là đã làm tròn nghĩa vụ của một người cha.

Đội kỹ thuật đã đặt các cảm ứng nhiệt độ quanh nhà để tìm nguồn nhiệt nếu có.

– Nếu như có vật thể sống trong nhà, chúng ta sẽ biết ngay. – Roche nói, tin tưởng một cách mù quáng vào công nghệ.

Trong lúc đó, các chỉ số tiêu thụ điện, ga và nước được kiểm tra kỹ lưỡng. Tất cả không bị cắt do các hóa đơn được thanh toán tự động qua ngân hàng, nhưng côngtơ đã ngừng từ ba tháng trước đó, cho thấy không ai bật dù chỉ một bóng đèn trong nhà trong khoảng chín mươi ngày vừa qua.

– Nghĩa là từ khi ngôi nhà của gia đình Kobashi được hoàn thành và cả nhà họ dọn đến đây. – Stern lưu ý.

Goran nói:

– Rosa này, tôi muốn cô kiểm tra băng hình các camera an ninh. Có một mối liên hệ giữa hai ngôi nhà, và chúng ta cần phải phát hiện ra nó.

– Hy vọng là không có lần mất điện hệ thống nào nữa. – Rosa đáp.

– Chúng ta chuẩn bị vào thôi. – Gavila tuyên bố.

Trong lúc đó, Boris mặc áo chống đạn trong chiếc xe cơ động.

– Tôi muốn vào bên trong. – Anh nói khi gặp Mila ở cửa xe. – Họ không thể ngăn tôi được. Tôi muốn tự mình vào trong đó.

Boris không thể chịu được ý nghĩ rằng Roche sẽ yêu cầu đơn vị đặc nhiệm vào nhà trước.

– Bọn họ sẽ làm hỏng việc. Ở trong đó họ sẽ phải dò dẫm trong bóng tối…

– Tôi nghĩ họ sẽ xoay xở được. – Mila bình luận, tuy không muốn phủ nhận lời Boris.

– Vậy họ cũng biết bảo vệ các bằng chứng chứ? – Boris hỏi với giọng mỉa mai.

– Vậy thì tôi cũng muốn vào. Tôi nghĩ mình đáng được làm chuyện này. Nói cho cùng tôi là người đã phát hiện ra thông điệp…

Boris ngừng phắt lại và nhìn Mila không nói. Sau đó anh ném cho cô một chiếc áo chống đạn.

Lát sau hai người rời khỏi xe cơ động đến gặp Goran và Roche để giải thích vì sao họ phải vào nhà.

– Không có chuyện đó. – Ngài chánh thanh tra lập tức gạt phăng. – Đây là việc của đội đặc nhiệm. Tôi không thể chấp nhận một hành động khinh suất như vậy.

– Ông nghe này, thanh tra. – Boris đứng đối mặt với Roche để ông ta không thể tránh né cái nhìn của anh. – Cứ để Mila và tôi vào do thám trong đó. Những người khác chỉ vào khi thực sự cần. Tôi là một cựu binh, tôi đã được huấn luyện cho những chuyện này. Stern đã có hai mươi năm kinh nghiệm thực địa, anh ấy sẽ xác nhận với ông, và nếu như không thiếu một quả thận thì anh ấy đã xung phong đi cùng tôi. Ông thừa biết điều đó. Còn với đặc vụ Mila Vasquez, cô ấy từng một mình vào trong hang ổ của kẻ điên khùng đã giam giữ một thằng bé và một cô gái.

Mila chua xót tự nhủ nếu Boris biết chuyện gì đã xảy ra khi cô để cho tính mạng của con tin và của bản thân mình bị đe dọa, chắc anh chàng đã không hăng hái bảo vệ cô đến thế.

– Ông nghĩ kỹ đi. Có một bé gái còn sống đang ở đâu đó, nhưng không lâu nữa đâu. Mỗi hiện trường lại cho chúng ta biết thêm điều gì đó về kẻ thủ ác. Nếu ở trong kia có gì giúp chúng ta tiếp cận được Albert, – anh đưa tay chỉ ngôi nhà của Yvonne, – thì cần phải bảo đảm là nó không bị phá hủy. Và cách duy nhất là phái chúng tôi vào trong đó.

– Tôi không nghĩ vậy. – Roche cương quyết phản đối.

Boris dấn tới thêm một bước, mắt nhìn thẳng vào mắt ông thanh tra.

– Ông có muốn mọi chuyện phức tạp hơn không? Như thế này là đã khó khăn lắm rồi nha…

Câu này nghe như một lời đe dọa, Mila nghĩ bụng. Cô ngạc nhiên khi Boris dám ăn nói với cấp trên bằng giọng như thế. Có chuyện gì đó giữa hai người này mà cả cô lẫn Goran đều không biết.

Roche nhìn Gavila khá lâu: ông ta đang cần lời khuyên, hay chỉ đơn giản là cần một ai đó để chia sẻ trách nhiệm trong quyết định này?

Nhưng ông giáo sư tội phạm học không mảy may tính toán. Ông chỉ gật đầu.

– Tôi tin là chúng ta sẽ không phải hối tiếc. – Thanh tra Roche dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nhấn mạnh phần trách nhiệm của Goran.

Đúng lúc đó, một kỹ thuật viên tiến đến, trên tay là màn hình của thiết bị tầm nhiệt.

– Thưa thanh tra, máy dò đã xác định được thứ gì đó trên gác… Một sinh vật sống.

Mọi người cùng quay nhìn về phía ngôi nhà.

– Đối tượng vẫn ở trên tầng hai, không di chuyển. – Stern thông báo qua radio.

Boris đếm ngược trước khi xoay nắm đấm cửa ra vào. Trưởng nhóm bảo vệ đã đưa cho anh chìa khóa dự phòng. Mỗi ngôi biệt thự đều có một chiếc để phòng trường hợp khẩn cấp.

Mila quan sát sự tập trung của Boris. Phía sau họ, đội đặc nhiệm đã sẵn sàng để can thiệp. Boris bước qua ngưỡng cửa trước, Mila theo sau, giơ cao súng, và ngoài bộ áo chống đạn, họ còn đội một chiếc mũ cối có gắn tai nghe, micro cùng một đèn pin nhỏ ở thái dương bên phải. Stern chỉ đường cho hai người từ bên ngoài qua radio, trong khi vẫn để mắt đến vật thể được ghi nhận trên màn hình của thiết bị tầm nhiệt. Nó có nhiều cấp độ màu sắc để thể hiện những vùng nhiệt khác nhau của cơ thể, đi từ xanh dương sang vàng rồi đến đỏ. Không thể phân biệt rõ hình thù của đối tượng.

Nhưng nó trông giống như một người nằm trên sàn nhà.

Có thể đó là một người bị thương, nhưng trước khi đoán chắc về điều này, Boris và Mila phải thăm dò một cách kỹ lưỡng, đặt tiêu chí an toàn lên trên hết.

Phía bên ngoài biệt thự, hai đèn chiếu cực mạnh được đặt để rọi sáng hai mặt tiền nhà, tuy vậy ánh sáng lọt vào bên trong khá yếu do bị rèm cửa che chắn. Mila cố gắng tập cho mắt quen với bóng tối.

– Mọi chuyện ổn cả chứ? – Boris thì thầm hỏi cô.

– Vẫn ổn. – Cô đáp.

Trong khi chờ đợi, Goran Gavila đứng ở nơi từng là khu vườn của Kobashi, thèm một điếu thuốc lá như thể chưa được hút hàng năm trời. Ông thấy lo lắng. Nhất là cho Mila. Bên cạnh ông, Sarah Rosa đang xem lại các đoạn băng an ninh trên bốn màn hình trước mặt. Nếu thực sự có một mối liên hệ giữa hai ngôi nhà đối diện nhau thì họ sẽ sớm tìm ra thôi.

Điều đầu tiên Mila ghi nhận được là nhà của Yvonne Gress rất lộn xộn.

Ngay từ cửa vào, họ đã thấy toàn bộ phòng khách ở bên trái và gian bếp bên phải. Trên bàn là hàng đống hộp ngũ cốc đã mở, những chai nước cam vơi phân nửa và các hộp sữa đã hỏng. Ngoài ra còn có nhiều vỏ lon bia rỗng. Tủ chạn đang mở toang và một phần đồ ăn bên trong đã bị đổ lung tung xuống sàn.

Quanh bàn có bốn chiếc ghế. Chỉ có một chiếc bị dời chỗ. Bồn rửa đầy chén đĩa bẩn và xoong nồi dính cặn thức ăn. Mila chiếu đèn vào tủ lạnh: bên dưới một miếng nam châm hình con rùa là tấm ảnh của một phụ nữ tóc vàng ngoài bốn mươi đang tươi cười, hai tay quàng qua một cậu bé và một cô bé lớn hơn.

Trong phòng khách, trên chiếc bàn thấp đặt phía trước màn hình ti vi cực lớn ngổn ngang các chai rượu đã cạn, lon bia và gạt tàn đầy đầu lọc thuốc lá. Một chiếc trường kỷ đã bị kéo ra giữa phòng. Thảm lót sàn lem luốc dấu giày.

Boris khều Mila và chỉ vào sơ đồ ngôi nhà, giải thích cho cô hiểu rằng họ phải tách nhau ra trước khi gặp lại tại chân cầu thang dẫn lên tầng trên. Anh chỉ cho cô một khu vực nằm phía sau bếp, để thư viện và phòng làm việc lại cho mình.

– Stern, mọi thứ trên lầu vẫn ổn chứ?

– Không có động tĩnh gì. – Stern trả lời.

Hai người ra hiệu cho nhau rồi Mila tiến đến khu vực được phân công.

– Đây rồi. – Trong lúc đó Sarah Rosa tuyên bố trước dãy màn hình. – Ông nhìn này…

Goran nghiêng người qua vai cô: theo như ngày tháng ghi trên một góc màn hình, đoạn băng đã được quay chín tháng trước đó. Biệt thự của Kobashi lúc đó hãy còn là một công trường đang xây dựng. Trong đoạn băng tua nhanh, các công nhân ríu rít xung quanh mặt tiền dang dở như những chú kiến hoảng loạn.

– Giờ thì ông xem cái này…

Rosa tua đoạn băng đến thời điểm chiều tối, khi mọi người rời công trường để về nhà trước khi quay lại vào sáng hôm sau. Cô cho đoạn băng chạy với tốc độ bình thường trở lại.

Họ có thể thoáng thấy một thứ gì đó ở ngay cửa ra vào ngôi nhà của Kobashi.

Đó là một cái bóng bất động, như thể đang chờ đợi. Nó hút thuốc.

Đốm lửa chập chờn của điếu thuốc tiết lộ vị trí của cái bóng.

Cái bóng đứng ở trong ngôi biệt thự của ông nha sĩ, chờ đợi cho trời tối hẳn, rồi mới bước ra ngoài. Hắn nhìn quanh, sau đó băng qua đoạn đường vài mét giữa hai ngôi nhà và bước vào trong ngôi nhà đối diện, không buồn gõ cửa.

– Nghe này…

Mila đang ở trong xưởng vẽ của Yvonne Gress, ở đó các tấm tranh nằm chồng chất khắp nơi, giá vẽ và màu vẽ nằm lung tung. Nghe thấy giọng nói của Goran, cô dừng bước.

– Chúng tôi có lẽ đã biết được chuyện gì xảy ra trong ngôi nhà này.

Cô chờ đợi.

– Chúng ta đang gặp phải một tên ăn bám: một trong các công nhân được thuê để xây dựng ngôi nhà của Kobashi tối nào cũng ở lại sau giờ làm việc và lẻn sang nhà đối diện. Chúng tôi e là hắn… – ông ngừng một lúc để tìm từ diễn đạt sự việc kinh hoàng – đã giam cầm gia đình bà Yvonne trong chính ngôi nhà của họ.

Kẻ lạ mặt chiếm lấy cái tổ và hành xử như những người khác, tự thuyết phục rằng hắn là một thành viên của nó. Hắn chứng tỏ mọi thứ bằng tình yêu bệnh hoạn của mình. Nhưng khi đã chán, hắn loại bỏ gia đình mới quen và đi tìm một cái tổ khác.

Trong khi quan sát các dấu ấn ghê tởm hắn để lại trong xưởng vẽ của Yvonne, Mila lại nhớ đến những con giòi Sarcophaga carnaria lúc nhúc trên tấm thảm nhà Kobashi.

Sau đó cô nghe tiếng Stern hỏi:

– Trong bao lâu?

– Sáu tháng. – Goran đáp.

Mila thấy bụng quặn lên. Suốt trong sáu tháng trời, bà Yvonne và các con đã bị giam cầm bởi một kẻ tâm thần được tùy ý muốn làm gì họ thì làm. Quá đáng hơn, hắn làm chuyện đó ngay giữa một tá các ngôi nhà khác, nơi các gia đình khép mình trong thiên đường xa hoa này để tách rời khỏi thế giới tàn khốc và đặt niềm tin vào một sự an ninh lý tưởng đến vô lý.

Sáu tháng. Và không một ai nhận ra chuyện gì.

Khu vườn được xén cỏ hàng tuần, các luống hoa hồng đều đặn nhận sự chăm sóc tận tâm của các bác làm vườn. Ánh đèn trước hiên nhà được bật lên mỗi tối, nhờ công tắc hẹn giờ theo đúng quy định của ban quản lý. Đám trẻ đạp xe và chơi đá bóng trên con đường trước nhà, các quý bà vừa đi dạo vừa tán gẫu và trao đổi công thức làm bánh, còn cánh đàn ông chạy bộ mỗi sáng Chủ nhật và rửa xe trước gara nhà mình.

Sáu tháng trời. Mà không ai thấy gì.

Họ không tự hỏi vì sao các tấm rèm luôn che kín mít, kể cả vào ban ngày. Họ không nhận ra đống thư từ dồn ứ trong hộp thư. Không ai buồn chú ý đến sự vắng mặt của Yvonne và các con trong các dịp sinh hoạt của câu lạc bộ, chẳng hạn như vũ hội mùa thu và buổi quay xổ số may mắn ngày 23 tháng Mười hai. Các món đồ trang trí Giáng sinh – nhà nào cũng như nhà nào – được các công nhân sắp đặt như thường lệ, rồi gỡ đi sau dịp lễ. Điện thoại đổ chuông không người nhấc máy, bà Yvonne và các con không mở cửa khi có người gọi, nhưng chẳng ai lo lắng.

Các họ hàng của bà Yvonne Gress đều ở xa. Mà ngay cả họ cũng không thấy gì bất thường bởi sự im lặng quá lâu này.

Trong suốt khoảng thời gian dài đó, gia đình nhỏ đã ao ước, hy vọng, cầu nguyện hàng ngày cho một sự giúp đỡ hoặc một sự chú ý chẳng bao giờ đến.

Có lẽ gã là một kẻ ác dâm. Và đây là trò chơi, là thú tiêu khiển của hắn.

Ngôi nhà búp bê của hắn, Mila thầm nghĩ trong đầu khi nhớ đến trang phục mà Albert đã mặc cho thi thể đặt trong nhà Kobashi.

Cô nghĩ đến những trò bạo lực không đếm xuể mà bà Yvonne và các con đã phải hứng chịu trong khoảng thời gian dài đó. Sáu tháng đày ải. Sáu tháng bị tra tấn. Sáu tháng thống khổ. Nhưng nghĩ cho cùng, chỉ cần một khoảng thời gian ngắn hơn là đã đủ để cho mọi người quên hẳn họ.

Ngay cả “đội ngũ giữ gìn pháp luật” cũng không nhận ra điều gì, dù họ đứng trước nhà suốt hơn hai mươi bốn giờ vừa qua, trong tình trạng báo động. Họ cũng có tội và là những kẻ đồng lõa theo một nghĩa nào đó. Ngay cả cô cũng vậy.

Một lần nữa. Albert đã cho thấy thói đạo đức giả nơi nhóm người cảm thấy “bình thường” chỉ vì mình không giết và cắt tay của các bé gái vô tội. Chính sự vô tâm của họ cũng là một tội ác nghiêm trọng không kém.

Boris cắt ngang dòng suy nghĩ của Mila.

– Stern, trên đó vẫn ổn chứ?

– Đường vẫn thông.

– Vậy chúng ta đi thôi.

Họ gặp nhau như đã hẹn ở chân cầu thang dẫn lên tầng trên, ở đó có các phòng ngủ.

Boris ra hiệu cho Mila yểm trợ phía sau. Từ lúc này, họ phải quan sát trong tình trạng yên lặng hoàn toàn để không bị lộ. Stern chỉ được phép lên tiếng để cảnh báo họ trong trường hợp vật thể sống trên màn hình di chuyển.

Hai người bước lên các bậc thang. Kể cả thảm trải cầu thang cũng dính đầy vết bẩn, dấu giày và đồ ăn. Trên tường treo những tấm ảnh chụp các chuyến du lịch, những dịp sinh nhật hoặc lễ kỷ niệm gia đình, và một bức chân dung bà Yvonne cùng các con nơi đầu cầu thang. Kẻ nào đó đã khoét đi những đôi mắt trên đó, chắc là cảm thấy khó chịu vì cái nhìn thiêu đốt.

Khi lên đến nơi, Boris tránh sang bên đợi cho Mila bắt kịp mình. Sau đó anh đi trước mở đường. Có nhiều cánh cửa khép hờ hai bên hành lang. Ở phía cuối, hành lang rẽ sang trái.

Sau chỗ rẽ là nơi phát ra nguồn nhiệt.

Boris và Mila chầm chậm tiến về phía đó. Khi đi ngang qua một trong những cánh cửa khép hờ, Mila nhận ra tiếng động nhịp nhàng của thông điệp kêu cứu bằng mã Morse mà họ đã nhận được. Cô nhẹ nhàng mở cửa và phát hiện ra đó là phòng của cậu con trai mười một tuổi. Những tấm áp phích hình các hành tinh phủ kín các bức tường, sách thiên văn học chiếm đa số trên các kệ sách. Một chiếc kính viễn vọng được đặt ngay trước cửa sổ.

Trên chiếc bàn học nhỏ, cô thấy một mô hình thu nhỏ tái hiện lại thiết bị đánh điện tín hồi đầu thế kỷ XX. Nó gồm một miếng gỗ nhỏ và hai cục pin khô được nối thông qua các điện cực và dây đồng với một chiếc đĩa đục lỗ quay trên một bánh răng theo từng đợt – ba chấm, ba gạch, ba chấm. Tất cả được nối dây với một máy bộ đàm hình khủng long. Mô hình được gắn một tấm bảng nhỏ bằng đồng để chữ GIẢI NHẤT.

Tín hiệu phát ra từ đây.

Cậu bé đã biến bài tập của mình thành một trạm phát tín hiệu, tránh được sự kiểm soát và cấm đoán của kẻ cầm tù ba mẹ con.

Mila hướng chùm sáng đèn pin vào chiếc giường chưa dọn. Bên dưới nó có một cái xô nhựa. Cô còn để ý thấy những vết trầy xước nơi gờ của đầu giường.

Căn phòng đối diện trong hành lang là của cô chị gái mười sáu tuổi. Trên cửa phòng dán những chữ cái đủ màu tạo thành một cái tên: Keira. Đứng trên ngưỡng cửa, Mila quét mắt nhìn nhanh trong phòng. Vải trải giường bị vo thành một cục tròn nằm dưới sàn. Một cái tủ nhiều ngăn đựng quần áo lót lăn kềnh trên sàn. Chiếc gương của tủ commốt đã bị quay vào giường. Không khó để hiểu lý do tại sao. Ở đây cũng có những vết trầy xước trên thanh đầu giường.

Còng số tám, Mila thầm nghĩ. Ban ngày hắn còng họ vào giường.

Một cái xô nhựa bẩn khác được đặt trong một góc phòng. Chắc nó được dùng cho nhu cầu cá nhân.

Cách đó vài ba mét là phòng ngủ của Yvonne. Nệm giường bẩn thỉu, chỉ có một lớp vải trải. Trên lớp thảm trải sàn có dấu vết nôn mửa và băng vệ sinh đã sử dụng. Ở một bức tường, trên cái đinh lúc trước từng dùng để treo tranh là một chiếc thắt lưng da đập vào mắt, lời nhắc nhở đến kẻ ra lệnh và cách thức thực thi mệnh lệnh của hắn.

Đây là phòng chơi bời của mày, thằng khốn nạn! Tao nghĩ mày cũng thỉnh thoảng lượn sang phòng của con bé nữa! Và khi đã chán hai mẹ con, mày sẽ mò sang phòng thằng bé để tẩn cho nó mấy cái…

Cơn giận là thứ cảm xúc còn lại duy nhất của Mila. Và cô tận dụng nó, hút lấy hút để từ trong cái giếng tối tăm đó.

Đã bao nhiêu lần, bà Yvonne Gress bị buộc phải “chiều chuộng” con quái vật ấy, nhằm giữ hắn lại trong căn phòng này và không để hắn trút giận lên đầu hai đứa con của bà?

– Chú ý, có gì đó đang chuyển động. – Stern cảnh báo.

Boris và Mila nhất loạt quay về phía chỗ rẽ ngoặt trong hành lang. Không còn thời gian để trinh sát nữa. Họ chĩa súng và đèn về hướng đó, chờ đợi một thứ gì đó xuất hiện.

– Đứng yên! – Boris hô to.

– Nó đang tiến đến chỗ hai người.

Mila đặt ngón trỏ lên cò súng và bắt đầu ấn nhẹ vào đó. Tim cô đập càng lúc càng mạnh.

– Nó ở ngay đằng sau góc tường.

Con vật kêu rên một tiếng nhỏ. Một cái mõm lông lá xuất hiện và quan sát họ. Một con chó giống Terre-neuve. Mila hạ vũ khí, Boris cũng làm theo.

– Mọi chuyện ổn cả. – Anh nói vào bộ đàm. – Chỉ là một con chó thôi.

Con vật có bộ lông cứng và dính bết, đôi mắt đỏ. Nó đang bị thương ở một chân.

Hắn đã không giết nó, Mila thầm nghĩ trong khi tiến lại gần con vật.

– Lại đây nào, cưng, lại đây…

– Nó đã sống sót một mình trong gần ba tháng ròng. Làm sao nó sống được? – Boris hỏi.

Mila càng tiến tới thì con chó càng thụt lùi.

– Coi chừng. Nó đang hoảng sợ. Nó có thể cắn cô đấy.

Cô phớt lờ lời khuyến cáo của Boris và tiếp tục tiến về phía con chó. Cô quỳ xuống để làm nó an tâm, trong khi tiếp tục gọi:

– Lại đây, bé cưng, lại đây nào.

Khi đã đến đủ gần, cô nhìn thấy một bảng tên gắn vào vòng cổ của con chó. Nhờ ánh sáng đèn pin, cô có thể đọc được tên của con vật.

– Terry, lại đây nào, ngoan nào…

Rốt cuộc con chó cũng để cho cô tiếp cận. Mila đưa một tay lên trước mõm nó để nó ngửi.

Boris tỏ ra sốt ruột.

– Được rồi đấy, chúng ta kiểm tra nốt tầng trên này rồi gọi mọi người vào.

Con chó giơ một chân khều Mila, như thể nó muốn chỉ cho cô xem một thứ gì đó.

– Chờ đã…

– Cái gì vậy?

Cô không đáp mà chỉ đứng dậy. Con chó lại quay về chỗ rẽ của hành lang.

– Nó muốn chúng ta đi theo.

Hai người đi sau con chó. Sau ngã rẽ, hành lang chỉ còn tiếp tục thêm vài mét. Ở cuối hành lang, bên phải, có một căn phòng cuối cùng. Boris xem sơ đồ.

– Nó trông ra mặt hậu, nhưng tôi không biết nó là phòng gì.

Cửa phòng đang đóng. Phía trước nó có nhiều món đồ nằm lộn xộn. Một cái chăn may chần với họa tiết khúc xương, một cái tô, một quả bóng nhiều màu, một sợi dây dắt chó và đồ ăn thừa.

– Ra đây là kẻ đã lục đồ ăn. – Mila nói.

– Tôi tự hỏi sao nó lại đem đồ chơi của mình đến chỗ này…

Con chó tiến lại gần cánh cửa, như thể muốn khẳng định cái ổ của nó nằm ở đó.

– Anh nghĩ nó dọn vào chỗ này một mình à? Tại sao chứ?

Như để trả lời cho câu hỏi của Mila, con chó bắt đầu cào vào cánh cửa và rên ư ử.

– Nó muốn chúng ta vào trong.

Mila cầm lấy sợi dây và buộc con vật vào một cái máy sưởi.

– Ngoan nào, Terry.

Con chó sủa một tiếng, xem vẻ đã hiểu. Nó tránh khỏi lối đi trong lúc Mila cầm lấy tay nắm và Boris chĩa súng vào cánh cửa. Thiết bị tầm nhiệt không phát hiện được sự hiện diện của sinh vật sống nào khác, nhưng ai mà biết được. Tuy vậy cả hai người đều tin rằng, phía sau tấm chắn mỏng manh này là kết cục bi thảm của những điều đã xảy ra trong những tháng vừa qua.

Mila ấn mạnh tay nắm để mở khóa cửa, rồi đẩy nhẹ. Ánh sáng đèn pin chọc xuyên qua bóng tối, nhảy từ bên này sang bên kia căn phòng.

Nó trống không.

Căn phòng rộng khoảng hai mươi mét vuông. Sàn phòng không trải thảm, các vách tường được sơn trắng. Ô cửa sổ bị che kín bởi một tấm rèm dày. Một bóng đèn treo trên trần. Dường như căn phòng này chưa từng được sử dụng.

– Sao con chó dẫn chúng ta vào trong này? – Mila tự hỏi chính mình nhiều hơn là hỏi Boris. – Bà Yvonne và bọn trẻ đâu?

Cô tránh không hỏi thẳng rằng “Xác của ba mẹ con ở đâu?”

– Stern.

– Tôi đây.

– Anh bảo đội khoa học vào đi. Chúng tôi xong việc rồi.

Mila bước ra hành lang, cởi dây buộc con chó. Nó lập tức lao vào trong phòng. Mila chạy theo và thấy nó chúi mũi vào một góc.

– Terry, mày không thể ở đây được.

Nhưng con chó không nhúc nhích. Mila bèn tiến lại gần, tay cầm sợi dây dắt chó. Con vật lại sủa, nhưng không có vẻ đe dọa. Rồi nó bắt đầu hít hít sàn nhà gần chân tường. Mila cúi xuống cạnh nó, đẩy mõm nó ra và rọi đèn pin vào. Chẳng có gì. Nhưng rồi cô nhìn thấy.

Một vết màu nâu.

Nó có đường kính nhỏ hơn ba milimet. Mila cúi xuống gần hơn. Cô thấy nó có góc cạnh và bề mặt dợn sóng.

Cô không còn nghi ngờ gì về nó nữa.

– Đây là nơi chuyện đó xảy ra.

Boris không hiểu chuyện gì.

Rồi cô quay về phía anh

– Đây là nơi hắn đã giết họ.

– Thật ra chúng tôi biết có người vào nhà, nhưng mà… các anh biết đấy, Yvonne Gress là một phụ nữ hấp dẫn, sống một mình nên… thỉnh thoảng vẫn được đàn ông khu này ghé chơi vào đêm hôm khuya khoắt.

Tay đội trưởng đội bảo vệ gục gặc đầu đầy ngụ ý khiến cho Goran phải phản ứng bằng cách nhón gót, đưa mắt mình ngang tầm mắt anh ta.

– Sao anh dám bóng gió những chuyện như thế…

Ông nói với một giọng bình thường nhưng hàm chứa đầy vẻ đe dọa.

Tay bảo vệ đáng lẽ phải giải thích về sai sót nghiêm trọng của mình và các thuộc cấp. Nhưng ngược lại, anh ta đang cố dùng thủ đoạn đã thống nhất với đám luật sư của Capo Alto. Họ tìm cách biến bà Yvonne Gress thành một phụ nữ dễ dãi dựa trên việc bà đã bỏ chồng và sống độc thân.

Goran lưu ý rằng kẻ lạ mặt – vì họ chưa thể xác định danh tính của hắn – kẻ đã ra vào nhà bà Yvonne trong suốt sáu tháng trời, đã lợi dụng chính cái cớ đó để hành động tùy thích.

Ông và Rosa đã xem hầu hết các đoạn video an ninh được quay trong thời gian trên. Cùng một sự việc như thế đã diễn ra gần như mỗi ngày. Thỉnh thoảng gã đàn ông không ở lại qua đêm, Goran tự nhủ đó là những thời điểm dễ thở nhất cho gia đình bị cầm tù kia. Nhưng biết đâu đó là những lúc tệ hại nhất, vì họ bị trói vào giường và không được ăn uống gì nếu bị hắn bỏ mặc.

Bị bạo hành cũng có nghĩa là còn sống, trong hành trình vô tận đi tìm cái ác ít kinh khủng hơn.

Trong các đoạn băng ghi hình, họ nhìn thấy gã đàn ông vào ban ngày, trong khi hắn làm việc trên công trường. Hắn luôn đội mũ lưỡi trai để không bị quay rõ mặt.

Stern đi dò hỏi công ty chủ quản đã thuê hắn theo hợp đồng mùa vụ. Họ bảo hắn tên là Lebrinsky, nhưng đó là một cái tên giả. Chuyện này xảy ra cũng là điều bình thường, đặc biệt là vì các công trường xây dựng hay dùng lao động nước ngoài chưa có giấy tờ lưu trú. Theo luật, chủ lao động phải có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ của họ để xem họ có hợp pháp hay không.

Nhiều công nhân từng làm việc ở công trình xây dựng biệt thự Kobashi cho biết kẻ có tên Lebrinsky là một người ít nói, sống khép mình. Họ cung cấp những mô tả về hắn nhằm dựng lên một chân dung trên máy tính. Nhưng các mô tả quá khác biệt nên không thể sử dụng được.

Khi đã xong việc với tay đội trưởng đội bảo vệ, Goran vào gặp những người còn lại trong ngôi nhà của bà Yvonne Gress, vốn đã được nhóm của Krepp “càn quét” nãy giờ.

Mấy cái khuyên xỏ lấp lánh trên khuôn mặt của chuyên gia vân tay trong khi ông di chuyển như một vị thần trong khu rừng ma thuật. Bởi bây giờ ngôi nhà trông thật khác thường: thảm trải sàn đã được bao phủ toàn bộ bằng một lớp nhựa trong, các ngọn đèn halogen được đặt đây đó để chiếu sáng nhiều chỗ, có khi chỉ một chi tiết rất nhỏ. Những con người trong bộ đồ bảo hộ màu trắng và đeo mặt nạ trong suốt đang phủ bột hóa chất lên mọi thứ.

– Đối tượng của chúng ta không được thông minh cho lắm. – Krepp bình phẩm. – Ngoại trừ sự lộn xộn do con chó gây ra, hắn đã bỏ lại đủ thứ rác rưởi: lon bia, đầu lọc thuốc lá, ly cốc bẩn. Dữ liệu di truyền nhiều đến độ ta có thể nhân bản hắn!

– Còn dấu tay? – Sarah Rosa hỏi.

– Cả đống! Nhưng đáng tiếc là hắn chưa bao giờ vào tù nên ta chưa có thông tin trong hệ thống.

Goran lắc đầu: dấu vết nhiều như thế mà họ thậm chí không tìm ra nổi một kẻ tình nghi. Rõ ràng tên ăn bám này bất cẩn hơn nhiều so với Albert, kẻ đã phá hoại hệ thống camera an ninh trước khi đưa thi thể bé gái vào trong nhà của Kobashi. Chính vì vậy ông thấy có điều gì đó không hợp lý.

– Vậy còn xác của các nạn nhân? Chúng ta đã xem hết băng an ninh, kẻ ăn bám chưa bao giờ mang thứ gì ra khỏi căn nhà này.

– Vì gã không đưa họ ra ngoài qua cửa chính…

Mọi người bối rối nhìn nhau, cố hiểu ý nghĩa của câu nói. Krepp giải thích thêm:

– Chúng tôi đang kiểm tra các cống rãnh. Tôi tin là hắn đã phi tang các xác chết theo ngả đó.

Hắn đã cắt họ thành từng mảnh nhỏ, Goran thầm kết luận. Tên cuồng sát đã nhập vai ông chồng và người cha hờ dễ thương, để rồi một ngày kia khi đã chán, hoặc có thể là khi đã hết việc ở công trình đối diện, hắn đã vào đây một lần cuối cùng. Ông tự hỏi liệu bà Yvonne và các con có dự cảm được kết cục của họ hay không.

– Nhưng tôi dành chuyện quái lạ nhất để nói sau cùng… – Krepp lên tiếng.

– Chuyện gì mới được chứ?

– Căn phòng trống trên gác, nơi cô bạn cảnh sát của chúng ta đã tìm thấy vết máu nhỏ tí ấy.

Mila cảm thấy cái nhìn đầy ẩn ý của Krepp chiếu vào mình. Goran thấy cô cứng người phòng thủ. Krepp làm nhiều người phát sợ.

– Căn phòng trên gác là nhà nguyện Sixtine của tôi. – Ông nói. – Vết máu khiến chúng ta nghĩ đó là nơi xảy ra vụ thảm sát, trước khi được hắn lau chùi sạch sẽ, mặc dù còn để sót một vết máu nhỏ. Nhưng hắn thậm chí còn đi xa hơn thế. Hắn đã sơn lại các bức tường.

– Tại sao? – Boris hỏi.

– Vì hắn rất ngu. Rõ ràng là thế. Sau khi đã để lại cả đống rác rưởi lẫn dấu vết và xả tuột mọi thứ xuống cống, hắn đã kiếm cho mình đủ án chung thân. Vậy thì, việc quái gì phải đi sơn lại căn phòng đó?

Goran cũng thấy động cơ của hành động đó không rõ ràng.

– Vậy anh sẽ làm gì tiếp?

– Tôi sẽ bóc đi lớp sơn để xem có gì bên dưới. Việc này cần nhiều thời gian, nhưng với các công nghệ mới tôi có thể thu thập mọi vết máu mà tên đần kia đã phi tang một cách tầm thường đến thế.

Goran cảm thấy chưa được thuyết phục.

– Hiện tại chúng ta chỉ mới có một vụ giam giữ người bất hợp pháp và che giấu thi thể. Hắn sẽ bị kết án chung thân, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta đã lập lại công lý. Để làm sáng tỏ sự thật và buộc hắn nhận tội giết người, chúng ta cần chỗ máu đó.

– Ông sẽ có, thưa giáo sư.

Cho đến lúc này, họ vẫn chỉ có được một mô tả rất vắn tắt về đối tượng tìm kiếm. Họ kết hợp chúng với các thông tin mà Krepp thu thập được.

– Tôi có thể nói đây là một gã đàn ông tuổi từ bốn mươi đến năm mươi. – Sarah Rosa khơi mào. – Vóc người vạm vỡ, cao khoảng một mét sáu tám.

– Các dấu giày trên thảm có cỡ bốn mươi ba, nên tôi nghĩ mô tả tương đối trùng khớp.

– Nghiện thuốc.

– Hắn hút thuốc rê.

– Giống tôi. – Boris nói. – Rất vui khi được có một điểm chung nào đó với một gã như hắn.

– Có thể nói hắn yêu chó. – Krepp chốt lại.

– Chỉ vì hắn để cho con chó sống sót thôi à? – Mila hỏi.

– Không phải thế. Chúng tôi đã tìm thấy nhiều loại lông chó lai.

– Nhưng làm sao có thể khẳng định hắn là người đem lông chó vào nhà?

– Lông chó nằm trong chỗ bùn của các vết giày trên thảm. Đương nhiên trong đó có cả các vật liệu xây dựng, xi măng, mát tít, dung môi – thứ trở thành keo dán cho tất cả những thứ khác. Và dĩ nhiên cho cả những thứ hắn mang từ nhà mình đến.

Krepp nhìn Mila theo kiểu một người bỗng dưng đụng phải thách thức nhưng đã vượt qua một cách khéo léo. Sau phút giây đắc thắng đó, ông quay mắt đi và thoắt biến trở lại thành chuyên gia lạnh lùng như mọi người vẫn biết.

– Và còn một điều này nữa, nhưng tôi vẫn chưa rõ liệu nó có ý nghĩa gì không…

– Nói luôn đi. – Goran ra lệnh, biết tỏng Krepp thích được người khác nài nỉ.

– Trong chỗ bùn của các dấu giày, có một lượng vi khuẩn lớn. Tôi đã tham khảo ý kiến một nhà hóa học đáng tin cậy…

– Tại sao là hóa học mà không phải vi sinh vật học?

– Bởi vì tôi nghĩ chúng là những vi sinh vật “ăn rác” tồn tại trong thiên nhiên nhưng được sử dụng cho các chức năng khác nhau, chẳng hạn như tiêu hủy nhựa, hoặc các dẫn chất của dầu mỏ. Thực ra không phải chúng “ăn” thực sự, mà chỉ sản xuất ra một loại men. Người ta dùng men đó để xử lý các bãi rác cũ…

Nghe đến đây, Goran thấy Mila và Boris quay sang nhìn nhau.

– Bãi rác cũ? Khốn nạn… Chúng tôi biết gã này!


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.