Cơn bão cuối cùng cũng nổi lên trên phiến băng Milne, phô trương sức huỷ diệt khủng khiếp của nó trước ngôi nhà bán sinh quyển của NASA, khiến ngôi nhà rung lên từng đợt như thể sắp bị giật tung khỏi mặt băng và kéo phăng ra ngoài biển. Dây trại bằng thép bị kéo căng như dây đàn, phát ra những tiếng ren rĩ thê lương. Máy phát điện đặt ngoài trời cũng ậm ạch, khiển đèn điện nháy liên tục, để doạ nhấn chìm cả ngôi nhà trong bóng đêm thăm thẳm.
Lawrence Ekstrom, Giám đốc NASA sải bước trong bán sinh quyển, lòng thầm ước đêm nay ông có thể thoát khỏi nơi quỷ quái này, dĩ nhiên đó là điều không thể. Ông còn phải ở đây thêm một ngày nữa, để sáng mai tổ chức họp báo tại chỗ, và để giám sát việc đưa tảng thiên thạch về Washington. Lúc này ông chỉ ước gì được ngủ một giấc thật sự, những sự kiện ngoài dự kiến ngày hôm nay đã khiến sức lực ông cạn kiệt.
Tuy nhiên, tâm trí ông lại quay về với Wailee Ming. Rachel Sexton, Corky Marlinson. Norah Mangor, và Michael Tolland. Vài nhân viên của NASA đã bắt đầu nhận thấy sự vắng bóng của các nhà khoa học dân sự này.
Bình tĩnh nào, Ekstrom tự nhủ. Tất cả vẫn ở trong tầm kiểm soát mà.
Ông hít thật sâu, tự nhắc nình rằng khắp nơi trên thế giới người ta đang ca ngợi NASA và trở nên háo hức với để tài vũ trụ.
Chưa bao giờ để tài sự sống ngoài trái đất lại trở nên nóng hổi đến thế kể từ “sự kiện Roswell” nổi tiếng vào năm 1947. Người ta tin rằng một vật thể bay ngoài hành tinh đã gặp tai nạn tại Roswell, Mexico. Và ngày nay, địa điểm này vẫn đang là đất thiêng của hàng triệu người say sưa với đề tài UFO.
Trong những năm tháng còn làm việc tại Lầu Năm Góc, Ekstrom biết rằng “sự kiện Roswell” chẳng qua là một tai nạn trong chiến dịch tuyệt mật Dự án Mogul. Một quả khinh khí cầu do thám thiết kế riêng cho việc nghe lén các cuộc thử hạt nhân của Nga lúc đó đang được bay thử. Mô hình mẫu đã chẳng may chệch khỏi đường bay và rơi xuống sa mạc New Mexico. Không may, một dân thường đã nhìn thấy đống đổ nát đó trước khi các nhân viên của Bộ Quốc phòng kịp đến nơi.
William Brazel, ông chủ trại cừu ngờ nghệch đã bắt gặp cả một bãi những mảnh vụn gom những vật liệu siêu nhẹ tổng hợp khác hẳn với tất cả những gì ông ta đã tùng nhìn thấy trong đời. Ngay lập tức cảnh sát cũng nhận được thông báo. Báo chí đưa tin về vụ tai nạn kỳ lạ, và công chứng bắt đầu tò mò. Càng tò mò hơn saủ khi Bộ Quốc phòng phủ nhận bất cứ dính líu nào đến tai nạn đó, Cánh nhà báo bắt đầu mở cuộc điều tra, và Dự án Mogul có nguy cớ bị bại lộ. Đúng vào thời điểm thông tin nhạy cảm về khinh khí cầu do thám đó sắp bị phơi bày trên các trang báo, một điều kỳ diệu đã xảy ra.
Các phương tiện thông tin đại chúng bất ngờ đưa ra một kết luận hi hữu. Họ cho rằng những mảnh vỡ của loại vật liệu chưa có trên trái đất chắc chắn bắt nguồn từ trong vũ trụ – được chế tạo bởi những sinh vật có trình độ khoa học kỹ thuật phát triển hơn hẳn loài người. Việc quân đội chối hết mọi dính líu đến sự kiện đó chỉ có thể bắt nguồn từ một lý do duy nhất – để che giấu những vụ tiếp xúc bí mật với người ngoài hành tinh! Dù chính họ cũng bị choáng trước cách suy dien đó, lực lượng không quân đã hồ hởi đón nhận nó như một thứ của trời cho. Họ lập tức túm chặt câu chuyện người ngoài hành tinh đó, và thậm chí còn thêm mắm thêm muối vào cho mùi mẫn. Nếu cả thế giới có nghĩ rằng người ngoài hành tinh thỉnh thoảng ghé thăm sa mạc New Mexico thì chẳng phương hại gì đến an ninh quốc gia, nhưng nếu để người Nga đánh hơi được Dự án Mogul thì chí nguy.
Để thêu dệt thêm tình tiết cho câu chuyện người ngoài hành tinh, bộ phận an ninh đã phủ một bức màn bí ẩn lên “sự kiện Roswell” và bắt đầu sắp xếp các vụ “rò rỉ thông tin an ninh” – những lời xì xào về các cuộc tiếp xúc với người ngoài hành tinh, những con tàu của người vũ trụ, thậm chí cả “Nhà chứa máy bay số 18” bí ẩn tại căn cứ quân không quân Wright-Patterson ở Dayton, nơi Chính phủ cất giữ xác người ngoài hành tinh trong các thùng đá lớn. Cả thế giới tin câu chuyện bịa đặt đó, và Roswell trở thành cơn sốt khắp địa cầu. Từ đó trở đi, mỗi khi có người nào vô tình nhìn thấy chiếc máy bay đời mới nào đó của quân đội Mỹ, cánh tình báo chỉ cần cùng nhau giữ im lặng, thế là xong.
Đó đâu phải là máy bay, đĩa bay của người ngoài hành tinh đấy chứ!
Ekstrom rất ngạc nhiên thấy trò dối trá đơn giản đó vẫn còn hiệu lực đến tận ngày nay. Mỗi lần các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin rằng có người vừa nhìn thấy một vật thể bay lạ là ông lại không thể nhịn được cười. Rất có khả năng kẻ may mắn đó vừa thoáng nhìn thấy loại máy bay tối tân của NRO – bảy mươi lăm chiếc máy bay do thám siêu tốc không trang bị vũ khí mang tên Global Hawk, hình thuôn, được điều khiển từ xa, trông chúng khác hẳn bất cứ loại máy bay nào khác hiện có.
Ekstrom cũng thường không nhịn cười nổi khi nghĩ đến hàng triệu du khách mỗi năm vẫn hành hương đến sa mạc New Mexico, mang theo camera cá nhân để quay cảnh bầu trời xứ này.
Thỉnh thoảng có người may mắn chộp được “bằng chứng cứng” về một UFO – những đốm sáng lao vụt qua bầu trời với tốc độ cao hơn bất kỳ thiết bị bay thông thường nào do con người chế tạo được. Tất nhiên, những người đó không thể biết rằng có một khoảng cách mười hai năm giữa những gì Chính phủ có thể chế tạo được và những gì công chúng được biết đến. Những người nhìn thấy UFO đó chẳng qua đã nhìn thấy một thế hệ máy bay mới nhất của Hoa Kỳ được chế tạo thử nghiệm tại Khu 51 – rất nhiều mô hình trong số đó là sản phẩm sáng tạo của NASA. Dĩ nhiên là giới tình báo không bao giờ đính chính sự hiểu lầm đó.
Sẽ có lợi hơn nhiều nếu cả thế giới tin rằng lại có thêm một người nhìn thấy vật thể bay lạ, thay vì biết được những khả năng thật sự của không lực Hoa Kỳ.
Nhưng từ giờ mọi thứ sẽ khác, Ekstrom thầm nghĩ. Vài giờ đồng hồ nữa thôi, huyền thoại về sự sống ngoài hành tinh sẽ trở thành một sự thật được khẳng định chắc chắn. Mãi mãi là thế.
– Thưa Giám đốc. – Một kỹ thuật viên của NASA hối hả bước đến bên ông. – Giám đốc có một cuộc gọi khẩn trong buồng máy PSC.
Ekstrom thở dài quay lại. Lại là chuyện gì nữa không biết? Ông tiến về phía đặt thiết bị liên lạc.
Kỹ thuật viên hấp tấp bước theo.
– Nhân viên phụ trách radar trong buồng liên lạc đang rất tò mò, thưa Giám đốc…
– Hả? – Tâm trí Ekstrom vẫn đang ở tận đâu đâu.
Một chiếc tàu ngầm rất lớn hiện có mặt ở đây. Sao Giám đốc không nói gì cho chúng tôi biết?
Ekstrom ngước nhìn lên:
– Cậu nói gì cơ?
Chiếc tàu ngầm, thưaa Giám đốc. Ít ra thì Giám đốc cũng nên nói cho anh chàng phụ trách radar biết chứ. Có thêm tàu ngầm bảo vệ vùng thềm lục địa thì cũng tốt thôi, nhưng nhân viên radar của chúng ta không được báo trước để chuẩn bị tinh thần.
Ekstrom dừng phắt lại:
– Tàu ngầm nào?
Lúc này cả kỹ thuật viên cũng dừng phắt lại, không ngờ Giám đốc lại ngạc nhiên đến thế.
– Chẳng lẽ con tàu đó không tham gia vào điệp vụ của chúng ta hay sao?
Không hề! Nó ở đâu?
Anh chàng kỹ thuật viên nuốt khan:
– Cách chúng ta khoảng ba dặm. Nó chỉ nổi lên trong vòng hai phút. Thân tàu khá to. Chắc là tàu lớn. Chúng tôi cứ tưởng Giám đốc yêu cầu bên Hải quân hỗ trợ an ninh cho chúng ta nhưng không thông báo cho chúng tôi.
Ekstrom trợn tròn mắt:
– Tôi có yêu cầu gì đâu!
Giọng chàng trai bắt đầu run run:
– Nếu thế thì tôi xin báo cáo với Giám đốc là một chiếc tàu ngầm vừa tiếp xúc một chiếc máy bay trực thăng ở vùng bờ biển ngay gần chúng ta. Có vẻ như là trao đổi nhân sự thì phải. Quả thực, chúng tôi hơi ngạc nhiên vì giữa điều kiện thời tiết này mà có người dám mạo hiểm trao đổi người kiểu đó.
Ekstrom thấy thân thể như đông cứng lại. Không hiểu tàu ngầm làm cái quái gì ngay gần hòn đảo Ellesmere mà mình lại không biết nhỉ.
– Các anh có biết sau khi trao đổi người thì chiếc máy bay bay theo hướng nào không?
– Về căn cứ không quân Thule. Tôi đoán là để đổi máy bay và bay vào đất liền.
Tiếp tục tiến về phòng thiết bị thông tin, Ekstrom không nói thêm gì nữa. Vào trong phòng, ông nghe thấy giọng nói the thé vang lên, quen thuộc.
– Lại có vấn đề nữa đây. – Tench vừa ho sù sụ vừa nói. – Liên quan đến Rachel Sexton.