Ngày 12 tháng 9. – Mọi người bọn họ đều thật tốt với tôi. Tôi rất mến ông bác sĩ Van Helsing thân thương. Tôi tự hỏi vì sao ông ta lại tỏ ra lo âu về những đóa hoa này. Ông ta đã làm tôi hết hồn, trông ông hung hăng quá. Nhưng chắc là ông ấy phải đúng thôi, những bó hoa này sẽ làm cho tôi được yên ổn. Ở một chừng mực nào đó, tôi không còn sợ phải ở một mình tối nay nữa, và tôi có thể đi ngủ mà chẳng sợ gì. Tôi sẽ chẳng buồn quan tâm đến những tiếng sột sọat bên ngòai cửa sổ nữa.Ôi, dạo gần đây tôi phải đối mặt với những sự việc kinh khiếp làm sao, nỗi đau khổ về chứng mất ngủ, hay đúng hơn là sợ phải đi ngủ, và những nổi khủng khiếp bí ẩn nào đó cứ đe đọa tôi! Những người khác thật là hạnh phúc, họ sống mà chẳng có sợ hãi, chẳng kinh hòang, họ đi ngủ khi đêm đến, và trong giấc ngủ chẳng có gì quấy rầy họ ngòai những cơn mộng đẹp. Được rồi, tối nay tôi sẽ nằm đây, hy vọng là sẽ ngủ ngon lành, giống như Ophelia trong vở kịch, ‘với những ước mơ và hy vọng của người trinh nữ.’ Trước đây tôi chưa hề ưa tỏi, nhưng tối nay thì chúng trông thật tuyệt! Thật là một mùi vị êm ái. Tôi cảm thấy giấc ngủ đang đến đây. Tạm biệt, mọi người.
NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
Ngày 13 tháng 9. – Tôi được gọi đến Berkeley và thấy Van Helsing, như thường lệ, đã sẳn sàng. Một cỗ xe đã đợi sẳn từ khách sạn. Giáo sư mang theo cái túi, dạo gần đây lúc nào ông cũng có nó bên người.
Nào, hãy ghi chép lại cho thật chính xác nào. Van Helsing và tôi đến Hillingham lúc tám giờ. Thật là một buổi sáng đáng yêu. Ánh mặt trời rực rỡ và không khí trong lành của một buổi sáng sớm mùa thu khiến mọi người cảm thấy thiên nhiên đang thực hiện công việc hàng năm của mình một cách hòan hảo. Những chiếc lá nhuộm mình trong những sắc màu xinh đẹp khác nhau, nhưng vẩn chưa chịu buông rơi khỏi cành. Khi đến nơi, chúng tôi gặp bà Westenra đi ra khỏi phòng khác. Bà luôn là người dậy sớm. Bà đón chúng tôi rất nồng ấm và nói,
“Các ông chắc là sẽ vui lắm khi biết rằng Lucy đã khá hơn. Con bé đáng yêu ấy vẩn còn đang ngủ. Tôi đã nhìn vào phòng nó và thấy nó, nhưng sợ đánh thức nó nên không bước vào.” Giáo sư mỉm cười, và trông có vẻ rất khóai trá. Ông xoa tay vào nhau, lên tiếng, “Aha! Tôi nghĩ là tôi có thể chẩn bệnh cho ca này. Cách chữa bệnh của tôi là làm việc mà.”
Bà ấy trả lời,”Ngài đừng có dành hết công lao đấy nhé. Sáng nay Lucy khỏe lại cũng có phần của tôi đấy nhé.”
“Bà muốn nói gì thưa bà?” giáo sư hỏi
“À, tối hôm qua tôi rất lo cho con bé đáng yêu ấy, nên đã đi vào phòng nó. Nó đang ngủ say, nên những tiếng động của tôi không làm cho nó thức giấc. Nhưng trong phòng ngột ngạt quá. Nó đầy những bông hoa có cái mùi nặng nề, kinh tởm và con bé còn đeo một tràng khác quanh cổ nó nữa. Tôi sợ là bầu không khí nặng nề như vậy sẽ có hại cho thể trạng ốm yếu của con bé, nên tôi mang sạch chúng ra ngòai, rồi mở cửa sở ra để đón một ít không khí trong lành. Tôi chắc là sáng nay ông sẽ hài lòng khi thấy nó.”
Bà ta đi vào phòng riêng của mình. Bà thường dùng bữa sáng của mình ở đấy. Trong khi bà đang nói, tôi quan sát khuôn mặt của giáo sư, và thấy nó đang trở nên tái xám. Ông ta chỉ có thể giữ được sự quân bình khi người đàn bà tội nghiệp kia còn đang ở đó, bởi vì ông biết sự đau yếu của bà và một cú sốc có thể gây ra tác hại như thế nào. Ông ta còn cố mỉm cười với bà khi ông mở cửa cho bà vào phòng. Nhưng ngay khi bà ta vừa biến mất thì ông đột ngột và mạnh mẽ kéo tôi phăng phăng vào phòng ăn và đóng cửa lại.
Và, lần đầu tiên trong đời mình, tôi thấy Van Helsing kiệt sức. Ông giơ tay lên ôm đầu trong nỗi đau khổ câm lặng, và đấm vào lòng bàn tay mình một cách tuyệt vọng. Cuối cùng ông ngồi xuống ghế, đưa hai tay che mặt, và bắt đầu khóc, với những tiếng nức nở khô, nặng như đang tóat ra từ trái tim tan vỡ của ông ấy.
Rồi ông ta giơ hai tay lên, như thể đang khẩn cầu với tòan vũ trụ. “Chúa ơi! Chúa ơi! Chúa ơi!” ông ta nói. “Chúng con đã làm gì, những con người tội nghiệp này đã làm gì, để rồi chúng ta phải chìm vào khổ ải như thế này? Phải chăng cái định mệnh từ cái thế giới man rợ cổ xưa ấy vẩn dai dẳng bám theo chúng con, nó vẩn tiếp tục diễn ra, vẩn tiếp tục hòanh hành? Người mẹ tội nghiệp, chẳng hay biết gì, cứ nghĩ là mình đã làm những gì tốt nhất cho con gái mình, nhưng không biết là bà đã đánh mất đi cả thể xác lẩn linh hồn của con mình, và chúng ta không được nói cho bà biết, thậm chí không được cảnh báo bà, nếu không bà ấy sẽ chết, cả hai sẽ chết. Ôi, chúng ta cùng đường rồi! Cái thế lực ma quái đang đối chọi với chúng ta thật là ghê gớm!”
Thình *** h ông ta nhảy bật dậy. “Đi nào,” ông ta nói, “chúng ta phải đến xem xét và hành động. Ma quỷ hay không ma quỷ, hay là cả lũ ma quỷ ấy đến đây cùng lúc, thì cũng kệ thây chúng. Chúng ta sẽ giao chiến với nó, dù thế nào đi nữa.”
Một lần nữa tôi lại trở nên hóa đá, trong khi Van Hensing đi thẳng đến giường. Lần này ông ta không nhìn ngay lên khuôn mặt xinh đẹp với cái vẻ xanh xao như sáp đầy khủng khiếp đó nữa. Ông ta nhìn với vẻ buồn bã sâu lắng và lòng thương cảm không giới hạn.
“Như tôi đã đóan trước,” ông ta lẩm bẩm, với tiếng húyt vào đặc trưng nhiều ý nghĩa của mình. Không nói thêm lời nào, ông đi khóa cửa lại, rồi bắt đầu bày ra trên cái bàn nhỏ những dụng cụ để bắt đầu một cuộc phẫu thuật truyền máu khác. Tôi đã thấy trước công việc bắt buộc này. bắt đầu cởi áo khoác, nhưng ông ta ngăn tôi bằng bàn tay nóng bỏng. “Không!” ông ta nói.”Hôm nay anh tiến hành phẫu thuật. Tôi sẽ cho máu. Anh vẩn còn yếu lắm.” Và ông ta bắt đầu cởi áo khoác và xăn tay áo.
Lại một cuộc phẫu thuật nữa. Lại một lần đánh thuốc mê nữa. Một lần nữa những sắc màu được trả về trên đôi má xám tro, và hơi thở nàng trở lại bình thường trong giấc ngủ sâu. Lần này tôi trông nom nàng trong khi Van Helsing tự chăm sóc mình và nghỉ ngơi.
Sau đó ông ta tìm cơ hội nói chuyện với bà Westenra, để nói cho bà biết là đừng có lấy đi bất kỳ thứ gì trong phòng Lucy mà không báo cho ông. Những bông hoa là thuốc chữa bệnh, và thở cái không khí nồng nặc mùi của chúng mà một phần trong phương pháp điều trị. Rồi ông ta tiếp tục tự chăm sóc mình, nói rằng đêm nay và đêm sau ông ta sẽ thức trông, và sẽ kêu tôi đến khi nào đúng lúc.
Một lúc sau, Lucy tỉnh dậy, tươi tỉnh và sảng khóai, nàng hầu như chẳng hay biết chút gì về sự thử thách khủng khiếp của mình.
Tất cả những cái này nghĩa là gì? Tôi sợ là việc tôi đã sống một thời gian dài giữa những người mất trí đã bắt đầu tác động lên trí não của chính mình.
NHẬT KÝ CỦA LUCY WESTENRA
Ngày 17 tháng Chín. – Đã bốn ngày đêm trôi qua bình yên. Tôi trở lại khỏe mạnh đến nỗi chính tôi cũng không nhận biết được những gì xảy ra với mình. Có vẻ như là tôi vừa trải qua một cơn ác mộng dài, và bây giờ vừa tỉnh dậy để đón những tia nắng sáng rực rỡ và hít thở bầu không khí trong lành bao quanh mình.Tôi chỉ còn nhớ lờ mờ về một thời gian dài phiền muộn trong đợi chờ và sợ hãi, đen tối đến nỗi những hy vọng chỉ càng làm cho nỗi đau khổ trong hiện tại càng thêm cay đắng. Đó là một thời kỳ dài đầy quên lãng, và bây giờ tôi nhảy trở vào cuộc sống như là nhảy vào một dòng nước lớn.Từ dạo đó, dù bác sĩ Van Helsing vẩn ở bên tôi, nhưng những cơn ác mộng dường như đã qua hẳn rồi. Những tiếng động vẩn thường làm tôi kinh sợ đã ra khỏi tâm trí tôi, những tiếng vỗ cánh sột soạt ở ngòai cửa sổ, những giọng nói xa vắng nhưng lại rất gần với tôi, những âm thanh kinh khiếp đến từ đâu tôi không biết và ra lệnh cho tôi làm những việc mà tôi cũng không ý thức được, tất cả đã chấm dứt. Tôi lên giường mà không còn sợ giấc ngủ. Thậm chí tôi không cần phải cố giữ mình cho tỉnh táo. Càng ngày tôi càng thích mùi tỏi, và mỗi ngày người ta lại gửi cho tôi một thùng đầy từ Haarlem. Tối nay bác sĩ Van Helsing có việc phải đi, và ông ta phải ở lại cả ngày ở Amtersdam. Nhưng tôi không cần phải trông chừng nữa. Tôi đã đủ khỏe mạnh để ở một mình rồi.
Xin cám ơn tấm lòng của Mẹ, anh Arthur thân yêu, và cho tất cả những người bạn đã tỏ ra thật tốt với tôi! Thậm chí tôi không thấy có gì biến đổi, khi mà tối hôm qua bác sĩ Van Helsing ngủ suốt trên chiếc ghế của ông. Tôi thấy ông ngủ hai lần khi tôi tỉnh giấc. Nhưng tôi chẳng sợ gì mà cứ ngủ tiếp, dù có tiếng vỗ cánh của một con dơi hay một tiếng động sột soạt nào đó, đầy giận dữ bên ngòai cửa sổ.
NHẬT BÁO PALL MALL, ngày 18 tháng Chín.
CUỘC PHỎNG VẤN CỦA CHÚNG TÔI VỀ CHUYẾN MẠO HIỂM GÂY CẤN CỦA MỘT CON SÓI TRỐN CHẠY.
PHỎNG VẤN VỚI NGƯỜI CANH GÁC VƯỜN THÚ.
Sau nhiều lần yêu cầu và nhiều lần bị từ chối, thì cuối cùng tờ “Nhật báo Pall Mall” cũng tìm thấy vận may quen thuộc của mình, tôi đã cố tìm được người canh gác vùng đất Vườn Thú, và cả khu đất bên trong. Thomas Bilder sống trong một ngôi nhà tranh trong khu rào đằng sau chuồng voi, và đang ngồi uống trà khi tôi tìm đến. Thomas và vợ ông ta là những con người đứng tuổi, mến khách, và nếu lấy sự đón tiếp tôi làm mẫu cho cuộc đón khách của họ đối với những người khách vô thưởng vô phạt, thì cuộc sống của họ cũng khá đầy đủ. Người gác vườn nhất định chưa chịu bắt đầu cái mà ông ta gọi là công việc làm ăn đến khi bữa khuya đã xong, và chúng tôi đã no nê. Sau khi bàn đã dọn xong, ông ta đốt tẩu, và nói,
“Nào, thưa ngài. bây giờ thì ngài có thể bắt đầu hỏi tôi những gì ngày muốn. Xin ngài thứ lỗi là tôi đã từ chối nói chuyện trước bữa ăn. Tôi sẽ cho bọn chó sói, chó rừng, linh cẩu trong vùng đất của chúng ta bữa trà của chúng trước khi tôi bắt đầu hỏi chuyện chúng.”
“Ông nói như thế nào ạ, hỏi chuyện chúng à?” tôi đối đáp, hy vọng sẽ khiến cho người đối thoại trở nên cởi mở.
“Tất cả bọn chúng trên trái đất này, ở tận vùng cực đi nữa, đều như nhau thôi. Nói thẳng vào tai chúng chỉ là nước đổ lá khoai, giống như bọn trai trẻ khoe khoang hợm hĩnh trước lũ con gái của chúng. Nếu muốn nói chuyện với nó, thì trước tiên tôi phải quăng ra cho nó vài miếng ăn, đợi chúng chén và uống cà phê xong xuôi, rồi tôi mới bắt đầu thì thào vào tai chúng. Thưa ngài.” ông ta thêm vào một cách triết lý, “bản năng tự nhiên của chúng ta cũng giống như lũ vật ấy thôi. Ngài đến đây và hỏi tôi về công việc của tôi, và tôi trả lời chỉ để làm vui lòng ngài. Thậm chí nói một cách châm biến là khi ngài hỏi tôi thì tôi muốn ngài hỏi cấp trên của tôi xem ngài có thể hỏi tôi vài câu hỏi hay không. Tôi nói như vậy có xúc phạm ngài không ạ?”
“Không sao.”
“Và để trả lời cho bài báo của ngài thì tôi dùng cái thứ ngôn ngữ thô thiển đã đi với tôi suốt cả thế giới này. Nhưng bây giờ với tôi mọi chuyện đã ổn. Tôi không còn phải chiến đấu nữa, và tôi đợi thức ăn, đợi bữa ăn của mình giống như bọn chó sói và sư tử quanh đây. Và, tận hưởng những vui thú của cuộc đời, khi có một người đàn bà quen thuộc mang cho tôi bữa trà, làm tôi ấm lòng với ấm trà cũ kỹ, tôi đốt cái tẩu của mình, thì ngài có thể phun vào tai tôi tất cả những gì ngài muốn, mà thậm chí sẽ chẳng nhận tiếng gầm gừ nào từ tôi. Nào, hãy bắt đầu những câu hỏi của ngài. Tôi biết ngài muốn gì rồi, con chó sói trốn thóat phải không.”
“Đích thị. Tôi muốn biết quan điểm của ngài về vụ này. Hãy nói với tôi xem nó đã xảy ra như thế nào, và khi đã rõ các sự kiện tôi muốn ngài nói về những suy nghĩ của ngài về nguyên nhân vụ này, ngài nghĩ rằng tất cả những chuyện này sẽ kết thúc như thế nào.”
“Được rồi, thưa ngài. Đây là là một câu chuyện thú vị đấy. Đấy là một con sói mà chúng tôi gọi là Bersicker, một trong ba con xám được chuyển từ Nauy đến Jamrach, và chúng tôi mang về đây đã bốn năm. Nó là một con sói dễ thương, chẳng bao giờ gây rắc rối khi chúng tôi muốn nói chuyện. Tôi rất ngạc nhiên khi nó lại muốn bỏ trốn, chẳng như các con thú khác trên vùng đất này. Thế đấy, ngài không thể tin được chó sói và phụ nữ.”
“Đừng có nghe lời ông ta, thưa Ngài!” bà Tom ngắt lời, với một tràng cười ngặt nghẽo.”Ông ta sống giữa lũ động vật hoang quá lâu rồi nên chính ông ta riết rồi cũng giống như một con sói thật thụ! Nhưng ông ta chẳng gây hại gì đâu.”
“Vâng, thưa ngài. lúc đó là khỏang hai giờ sau giờ cho thú ăn hôm qua, thì tôi gặp sự rắc rối đầu tiên. Tôi đang đi qua khỏi khu chuồng khỉ để thăm một con báo trẻ bị ốm. Nhưng ngay khi tôi nghe thấy tiếng gào và tiếng tru tôi liền chạy đến ngày. Con Bersicker đang gào rống như đang lên cơn điên, cào cấu thanh chắn như muốn thóat ra ngòai. Lúc đó chẳng có nhiều khách thăm, và chỉ có một người khách đứng sát bên, một thằng cha cao, gầy, mũi cao và cằm nhọn, với một hàm răng trắng tóat. Hắn có cái nhìn lạnh lùng, đăm đăm, và tôi không ưa hắn chút nào, có những loại người luôn làm người khác phát cáu như vậy đấy. Hắn mang một đôi găng tay trắng, và hắn chỉ vào con vật rồi nói với tôi. “Anh gác thú, những con sói kia có vẻ có vấn đề đấy.”
“’Có thể là do ông đấy’, tôi nói, vì tôi không ưa cái không khí mà thằng cha này mang lại. Hắn chẳng hề tỏ ra giận dữ như tôi hy vọng, mà hắn mỉm cười một cách xấc láo, với một đôi hàm răng đầy đặn, trắng tóat và sắc bén. ‘Ồ không, chúng có vẻ không thích tôi,’ hắn bảo.
“’Ồ vâng, chúng như thế đấy’, tôi nói, bắt chước hắn. ‘Chúng luôn thích một hoặc hai khúc xương để làm sạch răng vào buổi trà, mà hình như ông có một túi đầy thì phải.’
“Ờ, cũng thật là lạ, khi mà chúng tôi nói chuyện, bọn thú vật cứ nằm mọp xuống, rồi tôi đến bên Bersicker để ve vuốt tai nó như thường lệ. Đoạn người đàn ông kia cũng đi đến, và Chúa ôi, ông ta cũng đưa tay vân vê tai con chó sói!”
“’Cẩn thận,’ tôi nói. ‘Bersicker nó nhanh lắm đấy.’
“’Chẳng sao,’ ông ta nói. ‘Tụi nó đều từng là của tôi mà!’
“’Tự ngài kinh doanh chúng sao?” tôi nói, ngã mũ, bởi vì những người buôn bán chó sói đều là bạn tốt của người gác thú.
“’Không’ ông ta nói,’không chính xác là công việc kinh doanh, nhưng tôi có nhiều con thú nuôi như thế.’ và ông ta nhấc mũ lên với một phong cách quý phái như một ông chủ, rồi bỏ đi. Con Bersicker nhìn chăm chăm theo ông ta cho đến khi ông ta đi khuất, đoạn nằm mọp xuống ở một góc và không buồn di chuyển trong suốt cả buổi chiều ấy. Rồi đến tối hôm qua, ngay khi mặt trăng vừa lên, những con sói bắt đầu tru lên. Chẳng có gì đáng cho chúng tru lên như vậy. Không có ai ở gần bên, ngoại trừ một thứ tiếng mà rõ ràng là lời kêu gọi của một con chó lởn vởn đâu đó ở con đường công viên phía sau khu vườn thú. Tôi có ra đó một hai lần để xem mọi thứ có ổn hay không, và đột ngột, những tiếng sói kia im bặt. Ngay trước mười hai giờ, tôi định đi ra xem lại một lần nữa xem sao, nhưng khi tôi đến chỗ chuồng con Bersicker già thì tôi thấy hàng rào bị bẻ gãy và cuộn xoắn lại, còn chuồng thì rỗng không. Đó là tất cả những gì tôi biết.”
“Có ai thấy được điều gì khác nữa không?”
“Một trong những người thổi kèn đi gần chỗ vườn thú lúc đó nói rằng hắn ta thấy bóng một con chó xám lớn phóng ra khỏi cạnh vườn thú. Cuối cùng, dù hắn nói như thế, nhưng tôi không tin lắm, bởi vì hắn chẳng hề nói tiếng nào khi hắn về tới nhà, chỉ sau khi việc con sói trốn thóat được làm rầm lên, chúng tôi tổ chức tìm kiếm Bersicker suốt đêm trong công viên , thì hắn mới nhớ ra là có nhìn thấy cái gì đó. Tôi cho rằng chính tay khổi kèn đó đã tự nghĩ ra mọi thứ.”
“Nào, thưa ông Bilder, ông có thể nhận định như thế nào về việc con sói bỏ trốn này hay không?”
“Thưa Ngài,”ông ta nói, với một vẻ khiêm tốn đáng nghi, “Tôi nghĩ là tôi có một giả thuyết, nhưng không biết là ngài có hài lòng với nó không.”
“Tất nhiên là tôi rất vui mừng được nghe. Nếu một người như ông, với bao nhiêu kinh nghiệm tích tụ được về thú vật, lại không đưa lên một sự phỏng đóan nào, thì còn ai có thể làm được.”
“Ờ, thưa Ngài, tôi nhận định như thế này. Đối với tôi, việc con sói bỏ trốn, chỉ đơn thuần là nó muốn đi ra ngòai.”
Sau câu đùa cợt này, cả Thomas và vợ ông cùng phá lên cười ầm ĩ, khiến tôi cảm thấy câu trả lời như vậy đã được chuẩn bị trước, và tòan bộ lời giải thích của ông ta chỉ là một sự chơi khăm công phu. Tất nhiên là tôi không thể giải thích mọi chuyện theo cái cách của ngài Thomas đáng kính, bởi vì tôi nghĩ chắc chắn là ông ta có thể nói một cái gì đó, nên tôi nói, “Nào, thưa ông Bilder, có một nữa xôrơven đang dự định rời khỏi túi tôi và nữa còn lại đang chờ đợi để được nêu lên những gì ngài nói với tôi những phỏng đóan của ngài về những sự việc đã xảy ra.”
“Vâng, thưa Ngài,”ông ta lanh lẹ trả lời. “Ngài thứ lỗi cho tôi về cái trò bỡn cợt này, nhưng có một phụ nữ già cứ nháy mắt với tôi, đó là một lời thúc giục tôi hãy cứ làm đi.”
“Ê, tôi chẳng bao giờ làm như vậy!” người phụ nữ già kêu lên.
“Ý kiến của tôi là, con sói ấy đang trốn ở đâu đó. Người phụ trách việc truy tìm, cái tên không bao giờ nhớ được mình nói gì, đã nói rằng con sói ấy phi nước đại lên đến tận phương bắc, nhanh hơn bất kỳ con ngựa nào, nhưng tôi chẳng hề tin hắn. Ngài thấy đấy, thưa Ngài, sói hay chó chẳng bao giờ phi nước đại nhanh hơn ngựa trong một quãng đường dài như vậy được.Những con sói thông minh chỉ tìm thấy trong sách vở thôi, và tôi càng tin chắc hơn khi họ thu về từ cuộc săn đuổi một mớ những cái gì đó từ một con chó săn mà họ bảo là một con quái vật kinh khủng đã xé nát nó ra. Nhưng mà, Chúa phù hộ ngài, một con sói hoang dã chỉ là một động vật cấp thấp chẳng thể thông minh hay gan dạ bằng một nữa một con chó tốt, và chẳng bằng một phần tám nếu giao chiến với chó. Con sói ấy sẽ không dám chủ động giao tranh với chó, và chắc hẳn là đang lẩn trốn đâu đó trong công viên, run rẩy, đang đi tìm một nơi mà nó nghĩ là có thể có được một bữa sáng cho nó. Hoặc nó có thể chui tọt xuống một nơi nào đó, chẳng hạn một hầm rượu dưới mỏ than. Tôi sẽ chẳng nghi ngờ thị giác của mình khi thấy một đôi mắt xanh lấp lánh trong bóng tối khi xuống bếp chuẩn bị bữa ăn. Nếu nó không có thức ăn thì nó sẽ đi tìm, và có thể nó sẽ thấy ánh đèn trong một hàng thịt nào đó. Nếu nó không làm vậy, thì khi các chị giữ trẻ bỏ đi chơi với một chàng trai trẻ hay một anh lính nào đó, để em bé nằm lại trong xe đẩy, – hừ, tôi sẽ không ngạc nhiên khi tại cuộc điều tra dân số người ta báo rằng có một em bé mất tích.Thế đấy.”
Tôi đưa cho ông ta nữa đồng xôvơranh, và khi đó có tiếng gõ ở ngòai cửa sổ, và khuôn mặt của ông Bilder trở nên tự nhiên gấp đôi với sự kinh ngạc của mình.
“Chúa phù hộ tôi!” ông ta nói.”Hình như con Bersicker già đang tự trở về!”
Ông ta đi ra mở cửa, trong khi tôi vô cùng kinh ngạc. Tôi luôn luôn nghĩ rằng một con thú hoang sẽ không bao giờ trở nên thật sự thân thiện với con người bởi những ngăn cách về bản năng đối với chúng ta. Một người có kinh nghiệm sống sẽ càng đồng ý hơn là phản đối ý kiến này.
Tuy nhiên, sau đó, mọi việc càng trở nên đáng ngạc nhiên, khi và Bilder và vợ ông ta cư xử với con sói giống như tôi cư xử với chó. Con thú tỏ ra hiền lành và dễ thương như những con sói cổ xưa được vẽ trong các bức tranh, trước kia là bạn của Red Riding Hood, cho đến khi lòng tin của nó bị phản bội bởi sự giả dối của con người.
Sau đó là một hoạt cảnh pha trộn giữa bi và hài mà tôi khó diễn tả nên lời. Con sói kinh khiếp từng làm tê liệt cả London suốt nữa ngày trời, khiến cho tất cả mọi đứa trẻ trong thị trấn phải kinh hoàng, nay đứng đó với vẻ hối lối, nhận những cái vuốt ve như một đứa con trai lêu lỗng trở về. Ông Bilder già kiểm tra khắp người nó với vẻ sốt ruột và âu yếm, và khi kết thúc thì ông ta với vẻ ăn năn,
“Đấy, tôi biết là cái thằng cha già này sẽ vướng vào một câu chuyện rắc rối mà. Tôi đã từng nói thế còn gì. Xem này, đầu nó bị cắt và vướng đầy những mảnh kính vỡ. Rõ ràng là nó đã bị thương khi phóng qua một bức tường hay đại loại thế. Thật là đáng xấu hổ khi có một số người tự cho phép mình gắn lên đỉnh tường những mảnh chai vỡ. Đó là những gì đã xảy ra. Thôi đi nào, Bersicker.”
Ông ta dắt con sói vào chuồng và khóa lại, cho nó những mẫu thịt bê lớn làm nó thỏa mãn con đói, và chấm dứt cuộc nói chuyện.
Tôi cũng ra đi, để báo cáo lại những thông tin đặc biệt mới thu thập được trong ngày hôm nay về cuộc chạy trốn lạ lùng ở sở thú.
NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ DIARY
Ngày 17 tháng Chín. – Tôi định là sau bữa ăn tối sẽ tiếp tục nghiên cứu cuốn sách của mình, công việc này gần đây bị trì hoãn nhiều lần bởi những chuyến thăm Lucy. Thình *** h cửa phòng mở tung, bệnh nhân quen thuộc của tôi chạy ào vào, khuôn mặt ông ta nhìn méo xệch đi giận dữ. Tôi bàng hòang, bởi vì chuyện một bệnh nhân lọt vào phòng nghiên cứu của trưởng viện là chưa bao giờ có.
Không hề nói gì, ông ta lao thẳng về phía tôi. Ông cầm một con dao trong tay, và vì vậy lúc này ông ta rất nguy hiểm đối với tôi. Tôi cố giữ cái bàn ngăn cách giữa hai người. Nhưng ông ta quá nhanh và quá mạnh với tôi, tôi còn chưa kịp lấy thăng bằng thi ông ta đã đâm tôi và cắt phải cổ tay trái của tôi một vết sâu.
Tuy nhiên, trước khi ông ta kịp tấn công lại, tôi đã phản công trúng đích bằng tay phải, và ông ta ngã bổ chửng ra nền nhà. Máu chảy ròng ròng từ cổ tay của tôi, và nhỏ xuống thành vũng trên tấm thảm. Tôi thấy ông bạn của tôi không định tấn công nữa, nên quay sang chăm sóc vết thương của mình, tất nhiên là vẩn cảnh giác quan sát cái hình người đang phủ phục trước mặt. Khi những người phục vụ lao vào, chúng tôi tập trung quan sát ông ta, và cái việc ông ta đang làm thật là làm tôi phát ốm. Ông ta nằm dán bụng trên mặt đất, và liếm lấy liếm để vũng máu chảy ra từ vết thương trên cổ tay của tôi, trông chẳng khác gì một con chó. Thật đáng ngạc nhiên là ông ta không phản kháng gì khi những người phục vụ mang ông ta đi, mà chỉ đơn giản lặp đi lặp lại, “Máu là cuộc sống! Máu là cuộc sống!”
Tôi không thể để mất máu lúc này. Gần đây cơ thể tôi đã mất khá nhiều máu, và việc kéo dài đầy tình trạng bệnh lý căng thẳng của Lucy đã khiến tôi kinh sợ. Tôi đã quá mệt và kiệt lực. Tôi cần phải nghỉ ngơi, nghỉ ngơi, nghỉ ngơi. May thay Van Helsing không triệu tập tôi, và không cần phải mất ngủ. Tối nay không được ngủ thì chắc tôi chết mất.
ĐIỆN TÍCH, VAN HELSING, ANTWERP GỬI CHO SEWARD, CARFAX
(Gửi đến Carfax, Sussex, do ở hạt không gửi ngay, nên đã đến chậm hai mươi bốn giờ)
Ngày 17 tháng Chín. – Nhất định phải có mặt ở Hillingham tối nay. Nếu không thể ngồi trông suốt, thì cố thường xuyên vào theo dõi và chú ý xem những bông hoa có đặt đúng chỗ hay không. Rất quan trọng, đừng sơ xuất. Sẽ đến ngay chỗ anh ngày mai.
NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
Ngày 18 tháng Chín. – Vừa trượt chuyến tàu đi London. Bức điện tín của Van Helsing đã khiến tôi mất hết tinh thần. Tôi đã mất cả một đêm, và tôi không biết biết là có chuyện khủng khiếp nào đã xảy ra. Tất nhiên là có thể mọi việc đều êm đẹp, nhưng cái gì có thể xảy ra nhỉ? Chắc chắn là có một câu chuyện kinh dị ghê gớm nào đó đang treo lơ lửng trên đầu tôi khiến mọi tai nạn có thể xảy ra sẽ ngáng trở những nỗ lực của chúng tôi. Tôi sẽ đem theo một dĩa và có thể tiếp tục hòan thành nốt những điều ghi chép của tôi bằng máy quay dĩa của Lucy.
NHỮNG BẢN GHI CÒN LẠI CỦA LUCY WESTENRA
Ngày 17 tháng Chín, đêm khuya. – Tôi viết những dòng này và để nó lại, để đừng có thêm ai rơi vào những điều khủng khiếp như tôi. Nó ghi lại chính xác những gì xảy ra tối nay. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ chết vì bệnh tật, và chỉ còn đủ sức để viết lại, nhưng tôi phải làm xong việc này nếu như tôi chết trong khi đang làm nó.
Tôi lên giường như thường lệ, chú ý để những bó hoa ở những vị trí mà bác sĩ Van Helsing đã chỉ dẩn, và nhanh chóng ngủ thiếp đi.
Tôi bị đánh thức bởi những tiếng vỗ cánh ở cửa sổ, hiện tượng này bắt đầu xảy ra với tôi kể từ ngày tôi mộng du đến tận vách đá ở Whitby mà Mina đã cứu tôi, và bây giờ tôi cảm thấy điều đó một cách rõ ràng. Tôi không sợ, nhưng tôi ước sao có bác sĩ Seward ở phòng bên, bác sĩ Van Helsing nói là sẽ gọi anh ấy tới, để tôi có thể gọi anh ta khi cần thiết. Tôi cố ngủ, nhưng không thể. Cái cảm giác sợ hãi giấc ngủ khi trước lại trở về với tôi, và tôi quyết định sẽ thức. Nhưng giấc ngủ bướng bĩnh kia cứ nhất định đến khi tôi không muốn nó chút nào. Ôi, tôi sợ sự cô độc của mình, tôi mở cửa và gọi lên”Có ai ở đây không?” Không có tiếng trả lời. Tôi sợ đánh thức mẹ, nên đóng cửa lại. Ở bên ngòai, chỗ những bụi cây, có một tiếng gì đó giống như tiếng sói tru, nhưng hung dữ và bí ẩn hơn. Tôi đến cửa sổ và nhìn ra, nhưng không thấy gì, ngòai một con dơi lớn, đang hung hăng đập cánh vào cửa sổ. Tôi leo lên giường trở lại, và quyết định không ngủ nữa. Ngay lúc đó cửa mở ra, và mẹ nhìn vào. Qua cử động của tôi, biết tôi chưa ngủ, mẹ đến và ngồi bên tôi. Mẹ nói với tôi một cách dịu dàng và ngọt ngào hơn thường lệ,
“Mẹ rất lo cho con, con yêu, và đến để xem con có sao không.”
Tôi sợ mẹ ngồi như vậy sẽ bị lạnh, nên nó mẹ đi vào ngủ với tôi. Mẹ lên giường, và nằm cạnh tôi. Mẹ không cởi áo dài, vì mẹ nói mẹ chỉ nằm với tôi một chút và sẽ trở về giường. Khi mẹ nằm cạnh tôi, tôi ôm mẹ và mẹ ôm tôi, thì tiếng vỗ và đập cánh từ cửa sổ lại tiếp tục vang lên. Mẹ giật mình, hỏang sợ và kêu lên, “Cái gì thế?”
Tôi cố làm mẹ yên lòng, và cuối cùng cũng thành công, mẹ cũng nằm lại bình tĩnh hơn. Nhưng tôi vẩn nghe trái tim tội nghiệp của mẹ đập thình thịch một cách sợ hãi. Một lúc sau, lại có tiếng sói tru ở khu bụi cây, và liền sau đó là có tiếng va chạm ở cửa sổ, những mảnh kiếng vỡ rơi xuống nền nhà. Cửa sổ bị che khuất đi, cùng với một cơn gió thổi mạnh vào, và giữa khe hở của khung kiếng vỡ là cái đầu của một con chó sói xám lớn, hung dữ.
Mẹ kêu lên kinh hòang, và cuống cuồng bật dậy, hỏang loạn vớ lấy bất kỳ cái gì trong tầm tay có thể giúp mẹ. Trong số đó, có cả chuỗi hoa mà bác sĩ Van Helsing đã khăng khăng đòi đeo qua cổ tôi, mẹ giật lấy nó và xé nó ra khỏi người tôi. Một hai giây sau mẹ ngồi lại, chỉ về phía con sói, từ họng bà thốt lên những âm thanh cuồn cuộn lạ lùng. Rồi bà ngã vật ra như bị sét đánh, đầu bà chạm vào trán tôi làm tôi nảy đom đóm.
Cả căn phòng như quay cuồng. Tôi cố nhìn về phía cửa sổ, nhưng con sói đã rút đầu đi, và cả một đám bụi thổi ào vào khung cửa sổ vỡ, cuộn tròn thành một cột bụi di động giống như những cơn bão cát ở xa mạc. Tôi cố nhúc nhích, nhưng dường như là bị ai đó ám bùa, lại thêm cơ thể của mẹ hình như đã trở nên lạnh tóat vì tim mẹ đã ngừng đập, làm cho tôi không sao cử động, và tôi không còn nhớ gì thêm về những gì xảy ra sau đó.
Khoảng thời gian này không dài, nhưng rất, rất khủng khiếp, cho đến khi tôi phục hồi được ý thức. Gần chung quanh tôi, nghe như có những tiếng chuông rung vang. Những con chó ở những nhà hàng xóm bên cạnh tru lên, và có vẻ như đâu đó trong những bụi cây bên ngòai, đêm đen đang cất lên bài ca của mình. Tôi gần như u mê và ngây dại với thương tích, với đau khổ và với bệnh tật, nhưng âm thanh của bóng đêm hình như giống như giọng của mẹ tôi vọng lại để an ủi tôi. Những âm thanh này cũng làm cho các người hầu gái thức giấc, và tôi có thể nghe tiếng chân trần của họ chạy vội đến bên cửa. Tôi gọi họ, họ đi vào, và khi họ thấy chuyện gì đã xảy ra, khi họ thấy ai đang nằm phía trên tôi, họ la hoảng lên. Gió thổi qua khung cửa sổ vỡ, và cửa đóng sầm lại. Họ nâng thi thể của mẹ lên, sau khi tôi ngồi dậy, họ đặt mẹ lên giường, đắp cho mẹ tấm chăn. Họ trông quá hoảng sợ và căng thẳng đến nỗi tôi ra lệnh cho họ vào phòng ăn và uống mỗi người một cốc rượu. Cánh cửa mở ra trong một thóang và lại đóng sầm lại. Những người hầu gái kêu thét lên, và lao vội vào phòng ăn. Tôi đặt những đóa hoa của tôi lên ngực mẹ. Khi làm điều này, tôi nhớ đến những điều bác sĩ Ven Helsing đã nói với tôi, nhưng tôi không muốn lấy lại nó, ngòai ra, còn có những người hầu sẽ ngồi lại với tôi. Tôi ngạc nhiên không thấy những người hầu không trở lại. Tôi gọi họ, nhưng không có tiếng trả lời, nên tôi đi vào phòng ăn để kiếm họ.
Tim tôi dường như mềm nhũn ra khi tôi thấy chuyện gì xảy ra. Cả bốn người bọn họ nằm lăn bất lực trên sàn nhà, hơi thở nặng nề. Cái bình thon cổ đựng rượu vang trên bàn chỉ còn lại một nữa, nhưng có một mùi chua đáng ngờ tỏa ra từ nó. Tôi nghi ngại, liền xem lại cái bình. Nó có một cái mùi giống như thuốc phiện, và khi nhìn qua cạnh bàn bên kia, tôi thấy chai thuốc mà bác sĩ của mẹ đã cấp cho bà, chai thuốc đã được dùng cạn. Tôi làm gì bây giờ? Tôi làm gì bây giờ? Tôi trở về phòng với Mẹ. Tôi không thể bỏ mẹ lại, và tôi phải một mình bảo vệ cho những người hầu đã ngủ say vì bị ai đó đánh thuốc mê. Một mình còn lại với cái chết! Tôi không dám đi ra ngòai, vì tôi nghe thấy tiếng hú trầm trầm của một con sói bên ngòai khung kính vỡ.
Không khí chung quanh đầy những bụi, di động và cuộn tròn quanh cái lỗ thông ở cửa sổ, sáng lên một thứ ánh sáng xanh lờ mờ. Tôi làm gì bây giờ? Chúa sẽ bảo vệ tôi khỏi những tai họa đêm nay! Tôi sẽ giấu những tờ giấy này vào ngực, để người ta có thể tìm thấy khi khâm liệm tôi. Mẹ đã đi rồi! Và bây giờ là lúc chính tôi cũng sẽ ra đi. Tạm biệt, anh Arthur thân yêu, nếu như em không còn sống qua nỗi đêm nay. Chúa sẽ gìn giữ cho anh, và Chúa sẽ giúp em!