Buổi chiều ngày hôm sau, tại tầng sáu phòng làm việc của đội trinh sát hình sự cục công an khu Y.
Buổi họp phá án diễn ra trong không khí tĩnh lặng, hơn mười đội
viên mặc thường phục quây xung quanh chiếc bàn dài do đội trưởng Thôi
chủ trì.
Sát hai bên mép tường, bên trái đặt chiếc bàn có để năm bộ máy
vi tính, bên phải là chiếc tủ sắt chứa tài liệu và thiết bị chuyên dùng. Trên tường treo một tấm bản đồ lớn chi tiết toàn thành phố, góc nhà để
một bình nước nóng lạnh.
Đội trưởng Thôi thấy mọi người đã đông đủ, liền lên tiếng tuyên
bố lý do cuộc họp: “Chúng ta hiện nay đã bắt đầu điều tra về cái chết
của Hồ Quốc Hào, đề nghị mọi người tích cực phát biểu ý kiến. Căn cứ vào những gì thu thập tại hiện trường vào ngày hôm qua, có thể sơ bộ nhận
định nguyên nhân tử vong là do “đuối nước”. Nhưng hiện đang tồn tại một
số nghi ngờ, trước mắt không loại trừ khả năng đây là vụ án giết người.
Vì Hồ Quốc Hào là một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn đến xã hội, lãnh đạo cục công an chỉ chị tiến hành điều tra, yêu cầu chúng ta nhanh chóng
tìm ra chân tướng sự việc, từ đó đi đến kết luận cuối cùng”.
Thái độ những người có mặt trong cuộc họp rất nghiêm túc.
“Công tác điều tra ban đầu do tôi phụ trách, thành viên chủ yếu là Đào Lợi và Tiểu Xuyên”.
Đội trưởng Thôi châm một điếu thuốc, rít một hơi dài.
“Trước hết mời bác sĩ pháp y Tiểu Điền nói qua việc khám nghiệm tử thi”.
Điền Thanh chuyên viên pháp y ngồi bên cạnh Thôi Đại Cân, anh
mặc chiếc áo sơ mi màu xanh, đeo cặp kính cận, khuôn mặt nho nhã trí
thức. Điên Thanh mở cặp hồ sơ màu tro, ngẩng mặt nhìn mọi người.
“Người chết cao một mét sáu mươi tám, đầu hướng vào bờ, nằm sấp
trên cát, thân trên để trần, phía dưới mặc quần bơi nhãn hiệu cá sấu,
kiểm tra vùng ngực thấy có nhiều vết chấm, sắc đỏ thẫm, đầu ngón tay co
rút, giác mạc đục, hai đồng tử giãn ra khoảng 0, 5 centimét, kết mạc
xung huyết, có thể nhìn thấy điểm xuất huyết. Ngoài ra khí quản và phổi
chứa lượng nước biển lớn, trong mũi có bọc hình nấm, bọc hình nấm là một loại phản ứng sự sống. Nó là triệu chứng điển hình của việc đuối nước
trước khi chết”.
Tất cả điều tra viên chăm chú lắng nghe.
Điền Thanh đã tốt nghiệp Đại học Y khoa Thượng Hải. Anh làm công tác pháp y đã được năm năm và có khá nhiều kinh nghiệm.
Anh tiếp tục phân tích kỹ thêm.
“Căn cứ khám nghiệm tử thi cơ thể sơ bộ khẳng định Hồ Quốc Hào
chết do đuối nước. Thời gian chết khoảng cỡ hơn mười một giờ tối ngày
hai mươi tư đến một giờ sáng ngày hai mươi lăm. Bên cạnh nguyên nhân
chết đuối, khả năng cao nhất còn do trong lúc đi bơi bệnh tim đột ngột
tái phát. Sắc mặt người chết tím tái, môi thâm đen, móng tay xanh nhạt.
Tất cả đều là triệu chứng điển hình của việc cơ tim tắc nghẽn. Dựa vào
điều tra của đội trưởng và mọi người, Hồ Quốc Hào lúc còn sống có tiền
sử bệnh tim, việc này đã được chứng minh. Cho nên có thể giải thích như
sau: Trong khi đi bơi do cơ tim tắc nghẽn dẫn đến đuối nước gây tử vong, lý giải như vậy hoàn toàn hợp lý. Hơn nữa toàn thân không phát hiện bất cứ tổn thương nào, chỉ ở phía dưới ngực trái có một vết xước dài khoảng ba centimét giống như do vật kim loại sắt tạo nên. Trên thân thể người
chết chỉ mặc duy nhất một chiếc quần bơi, mảng bên trái có vết móc xước
rất nhỏ, soi dưới kính hiển vi thì thấy nó còn rất mới. Trên đây là tất
cả nội dung khám nghiệm, ngoài ra không phát hiện thêm điều gì khác
thường”
Đội trưởng Thôi hỏi: “Vết móc đó liệu có phải là do tấm lưới ngăn cá tạo ra không?”.
“Không phải”. Điền Thanh trả lời: “Tôi đã hỏi trung tâm quản lý
du lịch Tiểu Mai Sa, chất liệu của tấm lưới ngăn cá là loại vật liệu dây dù thông thường, không phải bằng sắt”.
“Vậy à!”. Đội trưởng Thôi gật đầu.
Viên cảnh sát trẻ Tiểu Xuyên là người phát biểu tiếp theo. Cậu
mặc chiếc áo phông màu trắng đục, vừa cúi thấp đầu đọc biên bản ghi chép vừa phân tích.
“Trên góc độ kiểm tra hiện trường, nguyên nhân gây ra cái chết
của Hồ Quốc Hào giống như bên pháp y phân tích. Tuy nhiên tôi và Đào Lợi đều đã đến Đại Mai Sa và Tiểu Mai Sa thẩm vấn những người có liên quan, phát hiện một số nghi ngờ”.
Cậu tóm tắt sơ lược quá trình diễn ra tại hai địa điểm đó và nêu lên vài điểm nghi vấn:
Trang phục của Hồ Quốc Hào hiện nằm ở đâu?
“Theo lời khai của nhân viên phục vụ tại khách sạn – nhà hàng
Hào Cảnh. Khi dùng cơm tại phòng ăn Hồ Quốc Hào mặc áo sơ mi cổ bẻ màu
quả trám, quần âu màu trắng. Nếu như ông ta đi bơi từ bãi tắm Đại Mai Sa thì quần áo để ở đâu? Chắc chắn phải ở một trong hai nơi là phòng nghỉ ở Hào Cảnh hoặc khu thay đồ trên bãi tắm. Thế nhưng đã kiểm tra kỹ cả hai nơi đó đều không tìm thấy y phục của ông ta”.
Tiểu Xuyên đưa ánh mắt hoài nghi nhìn mọi người, nói ra phán đoán của mình.
“Như vậy chỉ có hai khả năng: Thứ nhất, quần áo của ông ta bị
người khác lấy mất. Thứ hai, Hồ Quốc Hào hoàn toàn không tắm biển ở Đại
Mai Sa”.
“Điều ấy không hẳn là không có lý, cái xác của ông ta được phát
hiện ở bãi tắm Tiểu Mai Sa, nên có thể lắm chứ”. Một người cảnh sát khác tên Trịnh Dũng đưa ra nhận xét.
“Giả thuyết đó cũng có khả năng”. Đội trưởng Thôi tỏ vẻ đồng tình.
Ngồi đối diện với Tiểu Xuyên, nữ cảnh sát Đào Lợi nêu ra ý kiến: “Điều khiến người ta cảm thấy kỳ lạ là vì sao tại Tiểu Mai Sa cũng
không tìm thấy trang phục của ông ta”.
Ngày hôm nay Đào Lợi mặc chiếc áo cánh mỏng màu hồng và quần bò trông rất nữ tính nhưng cũng không kém phần rắn rỏi.
“Đúng thế”. Trịnh Dũng tán đồng quan điểm.
“Đây là điều đáng ngờ lớn nhất ở vụ án này”.
Đội trưởng Thôi nói: “Quần áo của Hồ Quốc Hào không thể tự mọc cánh mà bay được”.
Tất cả mọi người bật cười. Đội trưởng Thôi lại châm một điều
thuốc nữa nói tiếp: “Ngoài ra, nguyên nhân cái chết của Hồ Quốc Hào cũng có điểm cần xem xét trên góc độ phản cách cơ thể. Tiểu Điền, cậu hãy
nói nghi vấn của mình”.
Điền Thanh chỉnh lại cặp kính, rồi phát biểu: “Căn cứ vào công
tác khám nghiệm, chúng tôi phát hiện có hai chi tiết chưa giải thích
được”. Anh nhìn vào bản báo cáo trong cặp tài liệu của mình. “Đầu tiên
tôi muốn nói tới loại thuốc aspirin, khám nghiệm tử thi và chụp động
mạch vành lâm sàng (uống hoặc tiêm thuốc cảm quang để chụp X quang) phát hiện, rất nhiều bệnh nhân mắc bệnh nghẽn cơ tim mãn tính bị tắc động
mạch vành. Điều này khẳng định rõ việc hình thành tắc động mạch là do
nhân tố nghẽn cơ tim gây ra. Aspirin trước tiên được dùng để điều trị
bệnh tim, nó cũng có công dụng chẩn trị bệnh phong thấp viêm khớp. Sau
này khi lưu hành rộng rãi đã phát hiện bệnh nhân phong thấp viêm khớp
dùng thuốc aspirin trong thời gian dài giảm hẳn nguy cơ mắc phải bệnh
tim. Theo nghiên cứu các nhà khoa học đã phát hiện ra thuốc aspirin có
tác dụng phụ ức chế tiểu cầu. Vì vậy sau này trở thành loại thuốc thường dùng điều trị bệnh tim mạch. Chúng tôi đã tới bệnh viện thành phố để
kiểm tra bệnh án của Hồ Quốc Hào và phát hiện ông ta đã chụp động mạch
vành, cũng có thể nói như thế này, bệnh tim của ông ta hình thành bởi
tắc động mạch. Điều ấy không còn phải nghi ngờ gì nữa. Song vấn đề là ở
chỗ, trong dạ dày Hồ Quốc Hào có thành phần loại thuốc này, chứng tỏ ông ta thường xuyên dùng aspirin, nhưng aspirin điều trị rất có hiệu quả
chứng ức chế tiểu cầu, vậy vì sao Hồ Quốc Hào lại bị nghẽn cơ tim đột
ngột?”.
Buổi họp trở nên yên tĩnh lạ thường.
Đào Lợi lên tiếng phá tan không khí trầm lắng: “Vấn đề đó hiển nhiên phải có nguyên nhân”.
Dường như cô đã có phát hiện mới, dừng lại mấy giây, quan sát
khắp phòng sau đó cô đưa ra phán đoán của mình: “Tôi nhận thấy tồn tại
hai khả năng: Một là Hồ Quốc Hào trong khi đi bơi vận động nhiều dẫn đến quá mệt, nghẽn cơ tim đột ngột. Ngoài ra còn khả năng nữa là ông ta gặp phải một điều khủng khiếp”.
“Ồ?”.
Mọi người xôn xao.
“Ví dụ như…”, Đào Lợi đưa tay lên vuốt lại mái tóc lòa xòa trước mặt, sau đó nói tiếp: “Bị cá mập tấn công”.
“Vậy vết xước ở ngực ông ta là vết răng của loài cá mập nào vậy?”. Trịnh Dũng điềm nhiên châm chọc.
Mọi người cười ầm cả lên.
“Nghiêm túc, nghiêm túc đi. Đây là cuộc họp phân tích vụ án”. Đội trưởng Thôi vỗ tay quát lên.
“Đương nhiên”. Nữ cảnh sát Đào Lợi không hề thay đổi sắc mặc
tiếp tục nói “Cũng không thể loại trừ khả năng bị người khác ám hại.
Người ám hại chính là hung thủ! Tôi nói đến đây là hết rồi”.
Cô chăm chú nhìn đội trưởng Thôi, nhẹ nhàng dịch ghế ngồi xuống.
“Ai nói tiếp đây? Tiểu Xuyên, cậu nhận định như thế nào?”. Đội trưởng Thôi chỉ đích danh.
Tiểu Xuyên lấy tay xoay xoay cốc trà. “Cách phân tích của Đào
Lợi cũng có phần hợp lý. Có ba giả thuyết: Mệt mỏi, cá mập, hung thủ…
Song rồi nghiêng về giả thuyết do hung thủ gây án”.
“Vì sao?”. Đội trưởng Thôi căn vặn.
“Tôi cũng không nói rõ được, chỉ là nghi ngờ thôi”.
“Hoài nghi không được coi là lời kết tội, cần phải có bằng chứng”.
“Trong dịch vị dạ dày Hồ Quốc Hào còn lưu lại lượng thuốc an thần vượt qua ngưỡng cho phép, đó là một điểm nghi vấn”.
“Tiểu Điền, cậu hãy giải thích qua về vấn đề thuốc an thần đi”. Đội trưởng Thôi vỗ nhẹ vào vai nhân viên pháp y Điền Thanh.
Điền Thanh đưa mắt nhìn mọi người sau đó giải thích.
“Xét nghiệm dịch vị dạ dày và máu tồn tại lượng thuốc an thần
vượt qua ngưỡng cho phép. Thành phần có chứa chất chlorpomazine, chất
này có trong loại thuốc ngủ có tên “đông miên linh”. Trong khoảng hơn
mười năm gần đây, đây là loại thuốc an thần Phenobarbtral được sử dụng
rộng rãi”. Điền Thanh nói đến tên loại thuốc, liều lượng sử dụng
“Chlorpomazine thuộc loại thuốc an thần mạnh, tác dụng chủ yếu là ức chế trung khu thần kinh, người trúng độc cấp tính bắt đầu hưng phấn tạm
thời, tiếp theo là thèm ngủ sau đó mất điều khiển, co giật hôn mê, khó
thở, thậm chí gây sốc nặng hoặc ngạt thở do ngạc… Trúng độc
chlorpomazine nồng độ thông thường trong mỗi mililít trên năm miligam
trở lên, khi nghiêm trọng có thể làm cho hệ hô hấp, hệ tuần hoàn suy
kiệt dẫn đến tử vong. Trong máu của Hồ Quốc Hào nồng độ chất
chlorpomazine mỗi mililít trên bốn phẩy hai miligam rõ ràng vượt quá
liều lượng thường dùng. Tuy chưa đến mức trúng độc song có thể làm cho
ông ta buồn hôn mê”.
Đội trưởng Thôi nói: “Tuy nhiên căn cứ vào thông tin do vợ ông
ta cung cấp Hồ Quốc Hào có thói quen dùng quá liều lượng thuốc an thần,
thư ký riêng của ông ta, A Anh cũng xác thực điều này. Cho nên chỉ dựa
vào đó chưa đủ nói lên điều gì”.
“Vậy cần phải giải phẫu cơ thể”. Tiểu Xuyên đề nghị, cuộc họp trở nên sôi động.
Đội trưởng Thôi ngay lập tức gạt phắt đi: “Hồ Quốc Hào là một
nhân vật có vị thế lớn ở Thâm Quyến. Cậu muốn giải phẫu là có thể giải
phẫu được chắc?”.
“Anh Thôi, em thấy ý kiến của Tiểu Xuyên cần được xem xét”. Đào Lợi ủng hộ Tiểu Xuyên.
“Điều ấy tôi đã sớm nghĩ đến rồi”. Thôi Đại Cân thở dài tiếp lời. Song vợ Hồ Quốc Hào không đồng ý cho giải phẫu”.
“Theo quy định của pháp luật, nếu không có chứng cớ án mạng khi giải phẩu cần được sự đồng ý của gia quyến”.
“Cô ta không đồng ý? Nguyên nhân gì đây?”.
“Chu Mỹ Phượng nói: Ông Hào đã chết rồi, hy vọng ông ấy ra đi
một cách toàn thây, không nhẫn tâm để thi thể bị mổ xẻ. Điều đó cũng
hoàn toàn phù hợp tâm lý thông thường”.
“Trừ phi cô ta cũng cho rằng cái chết của chồng mình là do sơ ý đuối nước”. Tiểu Xuyên chen ngang.
“Nếu nói “cho rằng” chi bằng nói cô ta “tin là”…. Đội trưởng Thôi lẩm nhẩm như tự nói với chính mình.
“Ý của anh là sao?”. Tiểu Xuyên không hiểu.
“Cậu động não mà nghĩ xem?”. Đội trưởng Thôi đưa bao thuốc cho
mọi người trong phòng họp chẳng mấy chốc cả căn phòng tràn ngập những
làn khói trắng mỏng.
“Anh nói cô ta cứ thà tin rằng chồng minh “chết do sơ ý đuối nước”…. “. Tiểu Xuyên phán đoán.
“Đúng, tôi có cảm giác này”.
Đó là trực giác của đội trưởng khi anh tiến hành thẩm vấn bà góa phụ Chu Mỹ Phượng. Anh nhận ra khi cô ra nói câu “Ông ấy luôn nói mình
“mình đồng da sắt” thái độ như thế phải kìm nén uất ức bấy lâu nay.
“Vì sao vậy?”.
“Chúng ta cần phân tích kỹ”. Ánh mắt đội trưởng Thôi sáng long lanh nhìn mọi người.
“Hồ Quốc Hào chết đi, ai là người được hưởng lợi nhiều nhất?”.
“….”
Mọi người đưa mắt nhìn nhau kinh hãi.
“Vợ ông ta”. Có người kêu lên.
Mọi người trong phòng họp chợt hiểu ra.
“Đúng, Hồ Quốc Hào chiếm 54% cổ phần trong tập đoàn Địa Hào Trí
Nghiệp, ông ta không có con cái, vợ trước đã ly hôn, cha mẹ mất sớm vì
vậy khi ông ta chết, dưới góc độ pháp luật tất cả cổ phần đều sẽ thuộc
về Chu Mỹ Phượng”.
“Ồ!”.
Tất cả mọi người đều tán đồng.
“Cho nên, dù Hồ Quốc Hào chết không phải vì “sơ ý đuối nước” thì lợi ích của cô ta cũng không hề thay đổi”.
“Nếu như Hồ Quốc Hào chết không phải do “tai nạn”, hoặc nói
chính xác hơn là có người ám hại thì Chu Mỹ Phượng là nghi can số một.
Con người thông minh như cô ta đâu dễ đồng ý cho giải phẫu tử thi”.
Đội trưởng Thôi phân tích tiếp: “Nếu như đúng là Hồ Quốc Hào
chết do sơ ý đuối nước thì cô ta đương nhiên nhận thấy giải phẫu tử thi
hoàn toàn không cần thiết”.
“Ngoài ra còn hai người nữa được hưởng lợi”. Thôi Đại Cân tiếp tục nói.
Tất cả chăm chú lắng nghe.
“Một là Châu Chính Hưng, phó tổng giám đốc Địa Hào Trí Nghiệp”. Anh hắng giọng.
“Ông ta là người thứ hai có cổ đông lớn nhất trong công ty, theo đám nhân viên phản ánh, nhân vật này có uy tín, tham vọng lớn, luôn hy
vọng được ngồi vào cái ghế của Hồ Quốc Hào. Hơn nữa hiện nay anh ta đang có khúc mắc với Hồ Quốc Hào trên phương diện kinh doanh. Kiên quyết
phản đối đầu tư vào dự án “Điền Đông Bối”.
Kế tiếp Tiểu Xuyên nói qua về việc điều tra những nhân vật trong tập đoàn Địa Hào Trí Nghiệp.
Được biết “Điền Đông Bối” là mảnh đất rộng một trăm sáu mươi
mẫu. Trước đây là Viện an dưỡng Danh Điền (ruộng muối), chỉ cách bờ biển vài trăm mét. Một mảnh đất phong thủy đắc địa, giá cả lại rất rẻ song
cũng đầy mạo hiểm. Bởi vì giao thông vùng Danh Điền rất khó khăn, đây là điểm mà năm nào người dân cũng đưa ra kiến nghị với hội đồng thành phố
song chưa được giải quyết. Vấn đề giao thông không được giải quyết, trực tiếp ảnh hưởng đến bất động sản bờ đông Thâm Quyến. Danh Điền và Liên
Đường (bờ đê Hoa Sen) chỉ cách nhau một đoạn đường hầm nhưng trị giá mỗi mét vuông lại chênh lệch gần một nghìn tệ, Hồ Quốc Hào cố ý định biến
mảnh đất này trở thành khu biệt thự ven biển xa hoa.
Mấy ngày trước khi sự việc xảy ra. Châu Chính Hưng còn tranh
luận kịch liệt với Hồ Quốc Hào. Trong công ty Hồ Quốc Hào là người
chuyên quyền, độc đoán, ưa mạo hiểm. Châu Chính Hưng lại trầm tính, làm
việc tương đối thận trọng. Bình thường hai người bọn họ luôn bằng mặt
chứ không bằng lòng. Nhưng lần này có lẽ là do chiến lược kinh doanh cực kỳ quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn vong của công ty nên mới công khai
xung đột như vậy.
Có người còn nghe lỏm bọn họ cải nhau. Châu Chính Hưng nói:
“Điền Đông Bối” thoạt nhìn tưởng là miếng thịt béo, kỳ thực lại là miếng xương ức gà khó gặm nuốt không trôi, bỏ đi thì tiếc”.
“Đừng nói là xương ức gà, ngay cả chân gà tôi cũng dám gặm! Không có bản lĩnh, bao giờ mới thành công được”.
“Tôi không tán thành với việc mạo hiểm sự tồn vong của công ty”.
“Không mạo hiểm làm sao có được Địa Hào như ngày hôm nay”.
“Dù thế nào tôi cũng không tán thành việc mua “Điền Đông Bối”. Châu Chính Hưng kiên quyết.
“Được rồi, việc này sẽ đưa ra HĐQT quyết định”. Hồ Quốc Hào lạnh lùng nói.
Sau khi tranh cãi, Châu Chính Hưng đóng sập cửa phòng rồi đi ra
ngoài, đúng lúc đó giáp mặt trưởng phòng kinh doanh Hoàng Hồng Lợi,
Hoàng Hồng Lợi nhìn thấy khuôn mặt Châu Chính Hưng tím đen còn giật nẩy
cả mình. Vài ngày sau tin tức về cuộc tranh cãi giữa hai người lan khắp
công ty.
Tiểu Xuyên giải thích: “Dựa trên phân tích tình hình tập đoàn
Địa Hào Trí Nghiệp, sau cái chết bất ngờ của Hồ Quốc Hào, người có khả
năng cao nhất nắm giữ ghế tổng giám đốc là Châu Chính Hưng”.
Đội trưởng Thôi đưa ra cái tên người thứ ba hưởng lợi: “Hồ Quốc
Hào chết đi còn có một người nữa được hưởng lợi, đó là Hồng Diệc Minh,
tổng giám đốc công ty địa ốc Đại Đông, căn cứ vào thông tin tôi nắm
được. Vào tối ngày hai mươi tư, người cuối cùng gặp Hồ Quốc Hào là ông
ta. Một nguyên nhân quan trọng là Đại Đông đang là đối thủ cạnh tranh
trực tiếp dự án “Điền Đông Bối”. Theo nhận định của giới đầu tư bất động sản chỉ có hai công ty với tiềm lực tài chính hùng hậu là Địa Hào và
Đại Đông mới cơ thể thực hiện dự án lớn này. Hồ Quốc Hào chết đi “Điền
Đông Bối” càng có cơ hội rơi vào tay Đại Đông, việc đó dễ như lấy đồ
trong túi”.
Không khí cuộc họp sôi động hẳn lên.
Buổi phân tích vụ án sơ bộ kết luận: Nếu như cái chết của Hồ
Quốc Hào không phải do “tai nạn”, thì những người đáng nghi nhất là ba
người: Thứ nhất là vợ Hồ Quốc Hào, Chu Mỹ Phượng; thứ hai là phó tổng
giám đốc Châu Chính Hưng; thứ ba là đối thủ cạnh tranh, ông chủ công ty
Đại Đông, Hồng Diệc Minh.
Cuối buổi họp đội trưởng Thôi tổng kết và bố trí từng người triển khai các bước điều tra cụ thể tiếp theo.
“Để tăng cường công tác điều tra, tôi sẽ ngay lập tức báo cáo
xin chỉ thị cấp trên cho phép giải phẫu thi hài Hồ Quốc Hào.” Anh đóng
quyển sổ ghi chép lại, giao nhiệm vụ. “Tiểu Xuyên và Tiểu Đào kiểm tra
Chu Mỹ Phượng, Châu Chính Hưng, Hồng Diệc Minh làm gì trong quãng thời
gian từ mười một giờ đêm ngày hai mươi tư đến một giờ sáng ngày hai mười lăm, xác minh họ có chứng cứ ngoại phạm hay không?”
“Rõ!”. Hai người đồng thanh đáp.
2.
Quán trà – cà phê Nam Viên Danh Điền có không gian xanh mướt,
mặt tiền của quán không được rộng lắm song bên trong trang trí rất thanh lịch. Nhiếp Phong ngồi trên tầng hai bàn kê sát cửa sổ, người nữ phục
vụ mặc váy ngắn màu lục, buộc tóc đuôi ngựa mang đến cho anh một cốc
nước lọc.
“Xin hỏi anh dùng gì ạ?”. Giọng nói của cô nhẹ nhàng mến khách.
“Cho tôi một tách cà phê”.
“Ở đây chúng tôi có cà phê Lam Sơn rất ngon”.
“Vậy cho tôi loại đó”.
Nhiếp Phong không mấy khi uống cà phê song nghe người ta nói cà
phê Lam Sơn có thương hiệu nên anh cũng muốn nếm thử hương vị của nó. Cô phục vụ quay lại mang cho anh một tách cà phê nóng, tách sứ màu trắng
ngọc, mùi thơm thoang thoảng bay lên. Nhiếp Phong mở lọ đường bên cạnh
lấy một viên sau đó cho thêm ít sữa, anh dùng chiếc thìa nhỏ khuấy nhẹ.
Cô phục vụ đứng bên cạnh Nhiếp Phong đong đưa ánh mắt nhìn anh,
khuôn mặt tròn, mắt một mí, mũi củ tỏi hình dáng giống hệt “Tiểu bảo
mẫu” ở nhà. Nhiếp Phong liếc cô bé rồi khẽ mỉm cười.
“Anh chỉ đi có một mình thôi sao?”.
“Không, tôi còn có một người bạn nữa”.
“Là phụ nữ?”.
“Một cảnh sát”.
“À”.
Nhiếp Phong nâng tách cà phê lên uống một ngụm, hương vị nơi đầu lưỡi thơm nhẹ, hơi chua. Có chút giống với cà phê tự chọn ở Thiên Phú
Hỉ mà anh đã thưởng thức qua. Cà phê Lam Sơn mang hiệu “Cà phê quý tộc”
chẳng qua cũng như vậy cả thôi.
“Có vị chua”. Anh nói.
“Cà phê Lam Sơn luôn có một chút vị chua”. Cô gái tóc đuôi ngựa nói, vừa như giải thích vừa như ca tụng loại cà phê này.
Đúng lúc đó cậu cảnh sát trẻ Tiểu Xuyên mặc thường phục chạy vội tới, Nhiếp Phong dịch ghế mời cậu ta ngồi.
“Thật không phải, chiều nay mà cuộc họp phân tích vụ án nên tôi đến muộn”.
“Không sao tôi cũng vừa mới đến thôi!”.
“Thưa anh, bạn của anh dùng gì ạ?”. Cô phục vụ tóc đuôi ngựa cười tươi khẽ hỏi.
“Cũng cho tôi một cách cà phê đi”. Tiểu Xuyên đáp.
“Anh dùng loại Lam Sơn hay Thân Thiên?”. Cô gái quay sang hỏi lại.
Tiểu Xuyên mở quyển thực đơn, đưa mắt lướt qua sau đó chỉ vào loại có giá rẻ nhất: “Cho một cà phê nóng Danh Điền đi!”
Khi cô phục vụ rời khỏi đó, Tiểu Xuyên thật thà hỏi: “Nhà báo Nhiếp đang ở khách sạn nào?”.
“Tôi ở nhà khách cục xuất bản, nơi đó rẻ hơn so với khách sạn”.
“Nơi đấy cũng không tồi”.
Tiểu Xuyên đưa mắt quan sát xung quanh.
Bảng hiệu bắt mắt, âm nhạc du dương, phục vụ chu đáo, tất cả
nhưng cái đó tạo thành thương hiệu danh tiếng của quán, chỉ cần vén nhẹ
rèm cửa bằng sợi đay, qua tấm kính cửa sổ là có thể quan sát dòng xe đi
lại đông đúc trên đường.
“Tôi rất thích nơi này”. Nhiếp Phong nói.
“Hẹn tôi đến đây chắc không phải là chỉ đi uống cà phê Danh Điền”
“Cà phê đương nhiên là chủ đề chính, chủ đề phụ là nếu thuận tiện thì nói cho tôi biết sơ qua tình hình vụ án Hồ Quốc Hào”.
“Ngày hôm qua tại toà nhà Địa Hào tôi đã nhận ra nhà báo Nhiếp rất chú ý tới cái chết của ông Hồ Quốc Hào”.
“Cứ gọi tôi là Nhiếp Phong được rồi”. Nhiếp Phong trầm ngâm một lát rồi vào đề luôn.
“Nói như thế này nhé, có lẽ cũng là theo thói quen nghề nghiệp.
Tôi cảm thấy nguyên nhân cái chết của Hồ Quốc Hào không hề đơn giản…
thêm nữa nhân vật trang bìa trong tập san cuối tháng của báo chúng tôi
là Hồ Quốc Hào, bài phỏng vấn do tôi thực hiện, ông ta mất đột ngột, tôi buộc phải thông tin rõ cho tập san và mười mấy vạn độc giả biết”.
“Với cái chết của Hồ Quốc Hào tôi cũng có cảm giác như vậy”. Tiểu Xuyên hơi phấn chấn.
“Nhưng hiện nay vẫn chưa có manh mối nào cả”.
Nhiếp Phong nhìn Tiểu Xuyên buộc miệng nói: “Cái đẹp nơi nào
cũng có, không phải đôi mắt chúng ta không nhìn thấy cái đẹp mà chỉ là
không phát hiện được cái đẹp” manh mối vụ án cũng giống như vậy”.
“Đó là câu nói nổi tiếng của Rodin .” Tiểu Xuyên tỏ vẻ thán phục. “Nghe rất có lý”.
“Cậu tốt nghiệp trường cảnh sát nào vậy?”. Nhiếp Phong hỏi.
“Trường Đại học cảnh sát cao cấp Tây Nam. Tôi tốt nghiệp năm ngoái và được điều về Thâm Quyến”.
“Trường cảnh sát cao cấp Tây Nam?”. Khóe mắt Nhiếp Phong chợt lộ ra tia nhìn ấm áp thân thiết kỳ lạ.
“Anh đã từng đến trường tôi rồi hả?”.
“Đâu chỉ đã đến”. Nhiếp Phong bồi hồi “Nơi đó đối với tôi còn
rất thân thiết nữa cơ! Cả thời niên thiếu của tôi diễn ra ở đó. Lầu quốc tự, bãi tập bắn, phòng luyện thể lực, chẳng nơi nào không có dấu chân
Nhiếp Phong này…”.
“Nói như thế, gia đình anh ở trong trường?”.
Đúng lúc đó cô phục vụ tóc đuôi ngựa mang cà phê đến: “Cà phê của anh đây ạ!”.
“Cảm ơn!”. Tiểu Xuyên ra dấu cho cô gái đặt cà phê xuống, ánh mắt cô gái nhìn Nhiếp Phong không rời.
Cô phục vụ đặc cà phê xuống, ném cái nhìn lúng tiếng về phía Nhiếp Phong rồi mới quay người bước đi.
“Cậu đoán đúng đấy, sau này tôi chỉ vào khoa truyền thông Đại
học ở Tứ Xuyên nên đã rời khỏi nơi đó”. Nhiếp Phong nói: “Sau khi tốt
nghiệp trở thành nhà báo, nhà văn tự do chưa có thành công gì gọi là
đáng kể, thoắt cái đã mười năm trôi qua”.
“Tôi nghĩ ra rồi”. Tiểu Xuyên thốt lên kinh ngạc, hai mắt sáng
rực như nhà thám hiểm phát hiện ra lục địa mới. “Thảo nào ngay lần gặp
đầu tiên tôi đã cảm thấy gương mặt anh có gì rất quen. Anh có biết…
thầy hiệu trưởng Nhiếp Đông Hải không?”.
“Có chứ”. Nhiếp Phong gật đầu, nói rất từ tốn: “Là một ông già bảo thủ. Bố tôi”.
Tiểu Xuyên đứng bật dậy, thi lễ theo nghi thức quân nhân. “Chúc hiệu trưởng Nhiếp khỏe!”.
Những vị khách xung quanh giật mình nhìn họ một cách kỳ lạ
Nhiếp Phong đưa mắt sang hai bên bật cười ngượng, “Ngồi xuống đi, tôi không đại diện cho bố tôi được đâu”.
“Vâng, vâng!”. Tiểu Xuyên thẹn đỏ mặt ngồi xuống.
“Tôi cần phải làm rõ một điều: Tôi là tôi, bố tôi là bố tôi. Cậu phải giữ bí mật này cho tôi đấy nhé”.
“Vâng, vâng!”. Tiểu Xuyên gật đầu lia lịa. Nhiếp Đông Hải hiệu
trưởng trường Đại học cảnh sát cao cấp Tây Nam là một chuyên gia trinh
sát nổi tiếng khắp toàn quốc, ông mang quân hàm cao, luôn nhận được sự
kính trọng ngưỡng mộ của cán bộ trong ngành và tất cả học viên.
Từ giây phút đó, giữa Nhiếp Phong và Tiểu Xuyên không còn khoảng cách, giữa họ nảy sinh cảm giác đặc biệt vừa là đồng hương vừa là anh
em. Hai người cũng thay đổi cách xưng hô.
“Thế thật là tốt, anh Nhiếp có gì muốn tìm hiểu xin cứ hỏi em”.
“Mình cũng biết bên cảnh sát có quy định riêng, những việc bảo
mật thì cậu có thể không nhất thiết phải nói. Mục đích của mình cũng chỉ là tìm ra chân tướng sự việc, đó cũng là nhiệm vụ của một nhà báo, cho
dù nguyên nhân nào đi nữa thì cái chết của Hồ Quốc Hào cũng rõ ràng rất
đột ngột…”.
“Em cũng có nhận định như vậy”, Tiểu Xuyên phụ họa.
“Bên cậu chắc đã có cuộc họp phân tích vụ án, đúng không?”.
Nhiếp Phong nâng tách lên có ý bảo Tiểu Xuyên uống cà phê, sau đó tự
thưởng thức một ngụm.
“Nếu như Hồ Quốc Hào chết do “bị sát hại” thì ba người đáng nghi nhất đó là: Châu Chính Hưng, Chu Mỹ Phượng, Hồng Diệc Minh đúng
không?”.
Tiểu Xuyên kinh ngạc, đặt vội tách cà phê định uống xuống. “Làm sao anh lại biết nhỉ?”.
“Cứ uống đi”. Nhiếp Phong hướng về phía cậu ta gật đầu giải
thích tiếp. “Đó là cách suy luận thông thường, không quá khó đoán bởi cả ba người Châu, Chu, Hồng đều là những người sẽ được hưởng lợi nhiều
nhất từ cái chết của Hồ Quốc Hào. Châu Chính Hưng, phó tổng giám đốc Địa Hào Trí Nghiệp là người có cổ phần đứng thứ hai trong tập đoàn. Theo
tài liệu của cơ quan hữu quan, Hồ Quốc Hào chiếm 54% cổ phần, Châu Chính Hưng có 36%, 10% còn lại thuộc về một số cổ đông khác trong công ty,
Địa Hào Trí Nghiệp được thành lập tại Thâm Quyến. Hồ Quốc Hào bỏ ra số
vốn ba phẩy sáu triệu tệ, Châu Chính Hưng góp một miếng đất. Việc kinh
doanh ngày càng phất lên, đó là dựa vào tính quyết đoán và dám nghĩ dám
làm của Hồ Quốc Hào, cộng thêm các mối quan hệ và hiểu biết thị hiếu
người dân địa phương của Châu Chính Hưng. Song Châu Chính Hưng vốn là
người cẩn thận lại hiền lành, nên không thể quán được thói hách dịch
liều lĩnh của Hồ Quốc Hào. Và anh ta cũng là người kiên quyết nhất không tán thành chiến lược kịnh doanh đầy mạo hiểm của Hồ Quốc Hào. Do đó hai người nảy sinh nhiều mâu thuẫn, sau này lại càng không thể hòa hợp
được,..”.
“Anh Nhiếp làm sao có thể điều tra cụ thể như thế được?”. Tiểu Xuyên tỏ ra rất khâm phục.
“Chuyện ấy không có gì khó, trước khi phỏng vấn Hồ Quốc Hào mình đã thu thập rất nhiều thông tin liên quan đến Địa Hào Trí Nghiệp”.
Nhiếp Phong tiếp lời: “Một nhà báo giỏi cần phải có cái mũi của loài chó săn”.
Viên cảnh sát trẻ Tiểu Xuyên thầm nghĩ “Là người cảnh sát giỏi
cũng cần khả năng đó” song cậu không nói ra mà chỉ hỏi: “Tại sao anh lại coi Chu Mỹ Phượng là nghi can số hai?”.
“Gì cơ? Mình đâu có nói Chu Mỹ Phượng là nghi can số hai”. Nhiếp Phong khẽ mỉm cười.
“Đương nhiên khi Hồ Quốc Hào chết 54% cổ phần đó sẽ rơi vào tay
cô ra và cô ta mới là người được hưởng lợi nhiều nhất. Qua tiết lộ của
đám nhân viên trong công ty, Mỹ Phượng kết hôn với Hồ Quốc Hào sáu năm
về trước, cô ta vốn là nhân viên trong một quán karaoke lớn nhất Thâm
Quyến. Giọng hát rất hay, vóc dáng lại cực kỳ xinh đẹp quyến rũ nên rất
nhiều đại gia săn đón song cũng là người biết giữ mình, không để điều
tiếng gì. Sau này kết hôn với Hồ Quốc Hào được ông ta bỏ vốn mở một thẩm mỹ viện giao cho quản lý. Bình thường cô ta không bao giờ hỏi đến công
việc kinh doanh của chồng, cũng hiếm khi đến công ty, chồng mình rốt
cuộc có bao nhiêu tài sản, e là cô ta cũng không nắm rõ”.
“Ồ, thì ra là như vậy!”. Tiểu Xuyên trầm tư.
“Về Hồng Diệc Minh, ông chủ Đại Đông các cậu cũng biết đó là đối thủ cạnh tranh lớn nhất đối với Địa Hào Trí Nghiệp, hơn nữa ông ta cũng là người cuối cùng tiếp xúc với Hồ Quốc Hào vào buổi tối ngày hai mươi
tư tháng sáu”. Nhiếp Phong tiếp tục phân tích: “Nghi ngờ ông ta là điều
hoàn toàn phù hợp với logic”.
Tiểu Xuyên có chút không hiểu: “Phù hợp logic?”.
“Đúng”. Nhiếp Phong trả lời và chỉ ra cho Tiểu Xuyên rõ.
“Mình nghĩ trong bữa ăn cuối cùng của Hồ Quốc Hào tại Đại Mai
Vi, những gì mà bọn họ nói với nhau là đầu mối vô cùng quan trọng”.
“Rất cám ơn anh đã chỉ bảo thêm”.
Tiểu Xuyên dường như hiểu được tầm quan trọng đầu mối mà Nhiếp
Phong nhắc đến, đồng thời cậu cũng có phần tự trách mình, nội tình vụ án Nhiếp Phong nắm rõ như lòng bàn tay, bản thân mình là người phá án thì
lại có những điều không suy nghĩ tới.
“Cậu uống đi, cà phê nguội nhanh lắm”. Nhiếp Phong khéo léo chuyển chủ đề, vừa cười vừa hỏi.
“Đội trưởng Thôi của các cậu là người như thế nào?”.
“Là một cảnh sát rất tốt, có nhiều kinh nghiệm, phá được nhiều vụ án lớn. Chỉ có điều tính tình hơi nóng…”.
“Thích giáo huấn người khác có đúng không? Còn có chút khó chịu với mình nữa chứ”. Nhiếp Phong mỉm cười chế giễu.
“Đội trưởng Thôi tính tình thật ra rất tốt, chẳng qua…”.
“Cậu đừng bảo vệ sếp của các cậu nữa, mình nói chơi vậy thôi!
Khi nào về nhắn giúp với đội trưởng Thôi là mình hy vọng được tham gia
theo sát quá trình phá án”.
“Được ạ, chuyện đó thì không thành vấn đề”.
“Ngoài ra, cậu có thể giúp mình một chuyện nhỏ được không?”.
“Vâng ạ, anh cứ nói đi”.
“Mình muốn được xem di thể Hồ Quốc Hào, tuy nhiên chuyện này đừng để đội trưởng Thôi biết nhé”.
“Vâng, hiện nay thi thể Hồ Quốc Hào được bảo quản tại nhà tang lễ Đan Trúc Đầu”.
“Nơi đó có xa đây không?”.
“Khá xa, phải đi bằng xe hơi. Bây giờ em sẽ đưa anh đi, để lâu có thể thi hài sẽ được đưa về bệnh viện công an để giải phẫu”.
“Thế thì tốt quá”. Nhiếp Phong gật đầu.
Tiểu Xuyên không nghe ra ý của anh là chỉ việc xem thi thể hay là chỉ việc giải phẫu.
Hai người nói chuyện phiếm một lúc nữa. Nhiếp Phong chỉ vào biểu tượng hình bầu dục của nhãn hiệu quán trên miếng giấy lót cốc cà phê.
“Cái logo này thật có ý nghĩa?”.
“Thật ạ?”.
Tiểu Xuyên di miếng lót sang bên chăm chú nhìn vào khung hình
bầu dục màu xanh, vệt sọc hai bên cũng màu xanh, dáng hơi nghiêng, bên
trái là hình bầu dục nhỏ ở giữa để rỗng.
Cậu ngẫm nghĩ một lúc rồi nói hai vết sọc bên trái giống hình lá trà, hình rỗng bầu dục nhỏ bên trái giống hạt cà phê.
“Cậu thật thông minh!”. Nhiếp Phong tán thưởng, song hai mắt lộ ra vẻ nghịch ngợm “Cậu thử xem lại đi”.
Tiểu Xuyên ngắm kỹ biểu tượng, lông mày nhíu lại giống như đứa trẻ đang cố giải bài toán khó.
“Đã nhận ra cái gì chưa?”.
“Em xin chịu”.
Anh chàng cảnh sát trẻ lắc đầu.
“Số 110”.( số điện thoại của cảnh sát Trung Quốc, giống như số điện thoại 113 ở ta) Nhiếp Phong giảng giải.
“Ái dà, quả là giống thật”.
“Các cậu bình thường phá án rất vất vả, có thời gian rãnh cứ đến đây tụ họp, có thể tạo thành câu lạc bộ cảnh sát đấy”.
“Nói như vậy em có cảm giác nơi này cực kỳ thân thiết với anh”.
Tiểu Xuyên tỏ vẻ nghi ngờ.
“Được rồi, cô ơi tính tiền giúp tôi”. Nhiếp Phong vẫy tay về phía cô phục vụ đứng cạnh.
Cô gái hiểu ý bước đến.
“Còn có một người nữa”. Nhiếp Phong chợt nhớ ra, anh dùng tay gõ gõ lên mặt bàn, “Cần phải tìm hiểu người này”.
“Người nào cơ ạ?”. Tiểu Xuyên hỏi.
Cô bé tóc đuôi ngựa vừa cười vừa đưa tờ hóa đơn thanh toán cho anh.
Nhiếp Phong liếc qua hóa đơn hai tách cà phê Lam Sơn bốn mươi
đồng, Danh Điền hai mươi đồng tổng cộng hết sáu mươi đồng, đúng là “tiêu chuẩn” Thâm Quyến. Hai người đứng dậy, cô phục vụ tóc đuôi ngựa lịch sự nói.
“Rất mong hai anh lần sau lại đến”.
Nhiếp Phong bước xuống lầu, ra đến cửa anh nói với Tiểu Xuyên.
“Người đó là trợ lý của Hồ Quốc Hào, Chung Đào”.
“Nhân vật này để lại cho mình ấn tượng khá sâu sắc, ngày Hồ Quốc Hào xảy ra chuyện, anh ta cũng có mặt ở Tiểu Mai Sa”.
“Thật hả? Sao bọn em lại không biết nhỉ?”. Tiểu Xuyên cảm thấy kinh ngạc.
“Là chính Chung Đào nói cho minh hay, buổi chiều ngày hai mươi
tư tháng sáu anh ta cũng đi cùng xe với Hồ Quốc Hào khi xe đến nhà hàng
Hào Cảnh, Hồ Quốc Hào xuống trước. Tiếp đó lái xe đưa Chung Đào tới Tiểu Mai Sa sau đó mới lái xe về thành phố. Hôm đó anh ta có buổi họp lớn,
tất cả bảy người đồng môn đều đang công tác tại Thâm Quyến, họ đã tổ
chức bữa họp mặt thâu đêm suốt sáng tại vườn nướng trung tâm bãi biển
Tiểu Mai Sa”.
“Tại sao lái xe của Hồ Quốc Hào lại không nhắc đến việc này?”.
Tiểu Xuyên bồn chồn.
“Mình đã hỏi lái xe Tiểu Lưu, cậu ta nói, Chung Đào thường xuyên đi chung xe với Hồ Quốc Hào, nên cũng coi là chuyện thường, hơn nữa
cảnh sát lại không hỏi đến”.
Tiểu Xuyên chợt nghĩ đến hiện trường hôm đó. Đội trưởng Thôi chỉ hỏi Tiểu Lợi nhận diện người chết có phải là Hồ Quốc Hào hay không?
Chẳng ai để ý hay nghĩ tới việc ngồi chung xe với Hồ Quốc Hào còn có
người khác nữa?
“Anh ta có nói tên của bảy người bạn học không anh?”.
“Đó là chuyện của cảnh sát các cậu, việc này đâu có khó”.
“Em sẽ báo cáo với đội trưởng Thôi chi tiết này”.
“Không cần nói là mình kể đâu nhé!”.
“Em hiểu rồi”.
Tiểu Xuyên mở cửa xe ô tô cảnh sát, hai người cùng vào. Cậu nổ máy, chiếc xe lao vút về hướng đông.
° ° °
Đan Trúc Đầu nằm ở phía bắc thị trấn Bố Cát, phía sau là một dãy núi nhỏ, khi xe đến nhà tang lễ trời đã chạng vạng chiều.
Tiểu Xuyên lái xe thẳng vào cổng lớn, đi qua con đường bê tông
nhỏ rồi đổ lại trước phòng làm việc ban quản lý nhà tang lễ. Cậu xuất
trình thẻ cảnh sát cho một người đàn ông trung niên đeo kính trắng, nhân viên quản lý.
“Vị này là nhà báo, chúng tôi muốn kiểm tra lại di hài ông Hồ Quốc Hào ở ngăn số mười hai”.
“Buổi chiều chúng tôi thường không làm việc”. Người quản lý nhìn Nhiếp Phong qua đôi kính trắng.
“Ngày mai tôi phải về Thâm Quyến, thật làm phiền bác quá”. Nhiếp Phong mĩm cười khiêm tốn.
“A, vậy tôi già lắm sao?”. Người nhân viên nét mặt lập tức trở nên khó chịu, thì ra anh ta chưa đến bốn mươi tuổi.
“Ấy, ấy, gọi như vậy chẳng qua để tôn trọng anh thôi!” Tiểu Xuyên đỡ lời.
“Đi theo tôi”. Người đàn ông bớt bực dọc, anh ta dẫn hai người
đi qua rừng tùng, bách um tùm rồi đến một ngôi nhà tầng mái màu xanh,
tường trắng.
Khi anh ra lấy chìa khóa mở chiếc cửa sắt, khí lạnh từ bên trong phả vào mặt, trong đó là nhà lạnh lưu giữ thi hài người chết, bầu không khí thật u ám tang tóc. Bức tường đối diện cánh cửa sắt xếp từng tủ ô
vuông bằng sắt. Dưới ánh đèn trắng xanh chiếu xuống, phát ra những tia
lạnh ảm đạm, ở nơi này không có sự sống.
Người đàn ông đeo kính dừng lại bên khu ô vuông số mười hai, anh ta đeo găng tay vào, dùng hết sức kéo chiếc ngăn kéo sắt dài đến hai
mét ra, sau đó lật tấm vải bố màu trắng lên.
Nhờ khí lạnh bảo quản nên thi hài Hồ Quốc Hào vẫn còn khá nguyên vẹn.
Thi thể Hồ Quốc Hào nằm thẳng đuôn trong chiếc ngăn kéo. Một
nhân vật đã từng “hô phong hoán vũ” trong giới bất động sản. Chỉ mới vài ngày trước đây thôi còn oai phong bệ vệ trên chiếc ghế quyền uy tại toà nhà Địa Hào hai mươi tư tầng lầu, khoát tay chỉ đạo công việc, hào khí
hừng hực khiến người khác phải khâm phục. Thế nhưng, giờ đây ông ta nằm
cô đơn lạnh lẽo trong chiếc ngăn kéo sắc, tim còn lại chỉ là cái xác vô
hồn câm lặng. Trong phút chốc Nhiếp Phong chợt nhớ đến mấy câu thơ:
“Tôi gặp được một du khách đến từ xa xưa
Ông kể về bức tượng với đôi chân bằng đá sụt lún dưới sa mạc bao la.
Cả thân chôn vùi trong cát.
Chỉ còn nữa khuôn mặt vỡ nát.
Này là chau mày, khinh miệt lạnh lùng, này là nhíu mắt, này là uy nghiêm.
Nhà điêu khắc thật tài hoa
Cho đến ngày nay vẫn còn lưu lại dục vọng trên nền đá lạnh”.
….
“Nhà báo Nhiếp, anh đang nghĩ gì vậy?”. Tiểu Xuyên nhìn anh bằng con mắt tò mò.
“Ồ! Không có gì”.
Nhiếp Phong trấn tĩnh trở lại, cúi đầu quan sát cái xác.
Có lẽ do thời gian và bảo quản lâu trong phòng lạnh nên da của
Hồ Quốc Hào có màu trắng nhợt, hơi phù thũng, cái mũi hổ, chiếc cằm bạnh vẫn lồ lộ như khi còn sống, chỉ có đôi mắt gian xảo và dã tâm thì vĩnh
viễn không bao giờ còn mở ra được nữa.
Nhiếp Phong chăm chú quan sát toàn bộ xác chết, anh dừng mắt lại trước má bên trái, sau đó lại nhìn vào phần ngực bên trái, phía dưới
núm vú có vài vết xước còn như mới, quan sát kỹ nó có hình dáng giống
thứ “Sơn” nhưng lại hoàn toàn không giống hẳn. Có lẽ vết đó do tử thi va vào đá khi bị sóng đánh dạt vào bờ, miệng vết thương không có vết máu,
dưới da chỉ lưu lại vết thâm sẫm màu.
Nhiếp Phong rất chú ý soi kỹ nét xước kỳ lạ đó trong lòng thầm nghĩ “Có chút gì đó thật kỳ lạ”.
Tiểu Xuyên phán đoán. “Liệu có phải là do sứa biển gây ra không?”,
Nhiếp Phong chưa từng gặp qua chuyện này, anh hỏi lại: “Cậu thấy có giống với vết do sứa biển gây ra không?”,
“Em cũng không dám chắc”. Tiểu Xuyên đáp.
Khi đi bơi ở vịnh Đại Bàng, Nhiếp Phong cũng có gặp sứa biển.
Đó là một loài động vật thân mềm không xương sống, khi chạm phải nó cảm giác rất ngứa. Song trên thực tế vết thương trên ngực Hồ Quốc
Hào gần như không giống do loài nhuyễn thể này gây ra. Vết thương do sứa gây ra là một đám mụn nước nhỏ trên da nhưng vết trên ngực Hồ Quốc Hào
lại giống do vật sắc nhọn tạo thành.
“Những người chết đuối, trên thi thể thường để lại nhiều vết bầm dập” Người đàn ông đeo kính bằng kinh nghiệm của mình góp lời “Có lẽ là do trước khi chết bị va vào các mỏm đá ven biển”.
“Cảm ơn anh đã chỉ bảo”. Nhiếp Phong khiêm tốn đáp lời, nhân lúc người đàn ông đeo kính không để ý Nhiếp Phong đưa chiếc máy ảnh luôn
mang theo bên mình chụp trộm lấy vài kiểu, trong đó có cả bức chụp kỹ
vết thương.
“Ồ, máy ảnh của nhà báo thật là đồ cao cấp”.
“Cũng là loại bình thường thôi!”. Nhiếp Phong cố tình khiêm nhường, cười một cách ngốc nghếch.
“Cái đồ vớ vẩn này khi chụp không chớp đèn”. Tiểu Xuyên mỉm cười ý nhị.
Nhiếp Phong ngoái cổ lại hỏi: “Cảnh sát Tiểu Xuyên, cậu thấy được chưa?”.
“Được rồi ạ”. Cậu nghiêm túc đáp lời.
Ba người rời khỏi nhà lạnh, Nhiếp Phong hỏi người đàn ông đeo kính: “Khi nào cái xác ở ở số mười hai sẽ được hỏa táng hả anh?”.
“Dự định là ngày mùng hai tháng bảy, song bây giờ cũng chưa biết liệu có thay đổi hay không”.
“Điều ấy có phải do gia đình đề xuất không?”.
“Chiều nay chúng tôi vừa nhận được công văn của bên công an các
anh yêu cầu chú ý bảo quản thi hài, có thể sẽ tiến hành giải phẫu tử
thi.”
Nhiếp Phong và Tiểu Xuyên đưa mắt hội ý với nhau.
“Người cũng đã chết rồi, sao còn động dao kéo vào làm chi, thật chẳng ra sao cả”. Người đàn ông đeo kính cảm thán mấy câu.
Trong cảnh chiều hôm âm u, vài con quạ đứng trên đầu cành cây bách cất lên tiếng kêu thê lương.
3.
Thẩm mỹ viện Mỹ Phượng, một chiếc xe BMW màu hồng sang trọng, lặng lẽ đỗ trước cửa chính.
Cửa xe bật mở, Chu Mỹ Phượng bước ra, cô mặc chiếc áo gió màu trắng, tay cầm chiếc túi xách nhỏ màu tím than.
Tiểu Xuyên và Đào Lợi vội bước đến.
“Xin chào bà Hồ”. Tiểu Xuyên khá lịch sự lên tiếng “Chúng tôi có một số chi tiết liên quan đến cái chết của ông nhà cần bà giúp”.
“Xin các vị cứ hỏi”. Chu Mỹ Phượng chẳng tỏ thái độ gì.
“Bà Hồ ạ, nói ở đây không tiện lắm”. Đào Lợi ra hiệu.
“Ồ, vâng”. Chu Mỹ Phượng vừa cười vừa nói, sau đó mời hai người đi cùng cô ta vào bên trong.
“Xin chào giám đốc!”.
Hai cô gái mặc đồng phục màu phấn hồng đang chăm sóc khách hàng ngẩng đầu cất tiếng chào.
Chu Mỹ Phượng khẽ gật đầu, dẫn hai cảnh sát vào phòng làm việc của mình.
Phòng giám đốc chỉ rộng chừng mười mét vuông, chiếc bàn gỗ tự
nhiên, ghế sofa phong cách châu Âu, màu sắc và cách sắp xếp đồ đạc trong phòng cho thấy chủ nhân của nó rất có óc thẩm mỹ.
“Mời quý vị ngồi”.
Chu Mỹ Phượng ra hiệu mời Tiểu Xuyên và Đào Lợi ngồi vào ghế
sofa, còn mình ngồi sau chiếc bàn, phía sau lưng cô ta là chiếc tủ kính, trong đó bày các loại mỹ phẩm nước ngoài.
“Là thế này”. Tiểu Xuyên mở đầu câu chuyện.
“Chúng tôi muốn tìm hiểu vào khoảng mười một giờ tối ngày hai
mươi tư đến một giờ sáng ngày hai mươi lăm tháng sáu bà có mặt ở đâu.
“Điều tra chứng cứ ngoại phạm của tôi phải không?”. Chu Mỹ phượng phản ứng rất bình tĩnh.
“Đó là việc phải làm theo thông lệ của cảnh sát mong bà hiểu cho”.
Đúng lúc này, một cô nhân viên mặt tròn đẩy cửa bước vào đem hai cốc hồng trà mời khách, sau đó ý tứ quay người bước ra và khép cửa lại.
“Ngày hôm đó ông nhà tôi đi một mình đến Đại Mai Sa, không có tôi đi cùng”.
“Tại sao ông Hồ Quốc Hào đi nghỉ cuối tuần ở Đại Mai Sa mà bà lại không đi cùng?”. Đào Lợi căn vặn.
“Đã lâu lắm rồi tôi không đến đó. Tôi không hề thích tắm biển”. Chu Mỹ Phượng giải thích.
“Ngày hai mươi tư hôm đó, mẹ tôi không được khỏe, bà mắc bệnh phong thấp, bố tôi ở Hồng Kông có gọi điện báo tôi về thăm mẹ”.
“Nói như vậy là bà đi Hồng Kông”.
“Vâng, mười hai giờ hai mươi trưa tôi đáp chuyến xe bus của công ty Trung Khí từ Văn Cẩm Độ đến Cửu Long. Hơn tám giờ ngày hôm sau tôi
đột ngột nhận được điện thoại của Tiểu Lưu báo ông Hào xảy ra chuyện nên vội vã quay trở lại Văn Cẩm cũng lại đi bằng bus của công ty đó”.
“Chuyến lúc mấy giờ?”.
“Khoảng mười giờ hai mươi phút”.
“Có gì đó chứng minh những điều bà nói không ạ?”.
“Có chứ”.
Chu Mý Phượng mở chiếc túi màu tím than lấy quyển hộ chiếu đưa cho Tiểu Xuyên.
Trong quyển hộ chiếu lưu lại cuống hai tấm vé xe bus, Tiểu Xuyên cầm lên nhìn kỹ đó là vé đi và về từ Vàn Cấm Độ, Thâm Quyến và vé bến
xe Cửu Long, Hồng Kông. Cậu thuận tay đưa cho Đào Lợi, cô lấy bút ghi
lại thời gian ngày giờ in trên đó.
Tiểu Xuyên mở từng mục trong hộ chiếu của Chu Mỹ Phượng kiểm tra kỷ. Trong phần đóng dấu xuất nhập cảnh thời gian rất rõ ràng. Hai cảnh
sát hội ý với nhau bằng ánh mắt. Tiểu Xuyên đưa hộ chiếu trả lại cho Chu Mỹ Phượng.
“Cám ơn bà đã cung cấp thông tin”.
“Không có gì”.
Hai nhân viên cảnh sát cáo từ ra về, ngồi vào trong xe Đào Lợi nói với Tiểu Xuyên.
“Xem ra những chứng cứ ngoại phạm mà Chu Mỹ Phượng cung cấp đều là thật”.
“Rõ ràng chúng ta không tìm thấy điểm khả nghi nào”. Tiểu Xuyên như vẫn còn vẻ ấm ức.
“Chỉ có điều mọi việc diễn ra thật quá khéo, thời gian đều trùng khớp không chệch đi đâu được”.
“Không biết cậu có chú ý tới điều này không? Phản ứng của người đàn bà này dường như quá lạnh lùng”.
“Tớ cảm thấy không đơn thuần là lạnh lùng mà còn… vô cảm nữa”.
“Vô cảm?”.
“Đúng, vô cảm. Mục tiêu tiếp theo là ai đây?”.
“Chúng ta tìm Châu Chính Hưng”.
“Được, phó tổng giám đốc Châu”. Tiểu Xuyên nhấn ga, chiếc xe chuyển hướng đường Dỏng Nam.
° ° °
Tòa nhà Địa Hào Trí Nghiệp hai mươi tầng lầu sang trọng rực rỡ hiện ra.
Tiểu Xuyên và Đào Lợi rảo bước vào bên trong đại sảnh. Hai người xuất trình thẻ cảnh sát cho người bảo vệ rồi đi đến thang máy,
Tầng trên cùng là phòng làm việc của chủ tịch HĐQT. A Anh tiếp
đón hai người ở phòng thư ký bên ngoài, cô chu đáo đặt hai tách hồng trà lên bàn mời họ.
Tiểu Xuyên nói rõ ý định đến đây: “Chúng tôi muốn tìm phó tổng giám đốc Châu có chút công chuyện”.
“Phó tổng giám đốc Châu đi công tác rồi ạ”.
“Đi công tác?”. Tiểu Xuyên thất vọng,
“Ông ấy đi đâu?”. Đào Lợi hỏi lại.
A Anh nhất chiếc điện thoại màu đỏ để trên bàn gọi mạng nội bộ”
“Cô Mai hả, có biết phó tổng giám đốc Châu đi công tác ở đâu không? Ồ!
Tôi biết rồi. Cảm ơn nhé! Không có gì…”.
“Phó tổng giám đốc đi Thượng Hải vào chuyến bay buổi sáng ngày hôm nay”.
Tiểu Xuyên và Đào Lợi cảm thấy hơi ngạc nhiên. A Anh bổ sung thêm.
“Thư ký riêng của ông ấy nói phó tổng có việc gấp cần giải
quyết, lúc đi cũng rất vội, đại thể là công việc kinh doanh. Nhưng không biết là ông ấy đi gặp ai…”.
“Bây giờ có thể liên lạc được với ông ấy không?”.
“Để tôi thử xem”.
A Anh gọi theo số máy di động của Châu Chính Hưng, tiếng chuông
đổ dài song không có người nghe máy, một lúc sau có giọng tổng đài tự
động “Cuộc gọi của quý khách đã chuyển sang hộp thư thoại…”.
Tiểu Xuyên và Đào Lợi biểu hiện rõ sự bồn chồn trên nét mặt, hai người thầm thì với nhau: “Liệu có phải ông ta bỏ trốn không?”.
Đào Lợi lắc đầu: “Không phải vậy, nếu có ý định đó thì đã không để hộp thư thoại”.
“Thế này vậy”. Tiểu Xuyên nói với A Anh “Nhờ cô tiếp tục liên
lạc với phó tổng giám đốc Châu, có hồi âm hoặc tin tức của ông ấy hãy
báo ngay cho chúng tôi”.
“Vâng, tôi nhất định sẽ thông báo”. A Anh ngước đôi mắt xinh đẹp phảng phất vẻ buồn bã, quanh mắt cô là những quầng đen mờ mờ.
Đào Lợi thầm nghĩ, trước cái chết của ông chủ cô gái này rất đau lòng.
“Hoạt động của công ty trong giai đoạn này vẫn diễn ra bình thường chứ?”. Đào Lợi tỏ ra đồng cảm.
“Không được tốt lắm, lòng người ly tán, bên ngoài bàn tán rất xôn xao…”. A Anh buồn rầu đáp.
Có một vị đô đốc hải quan nổi tiếng từng nói, đại ý khi người
thuyền trưởng chết đột ngột, chiến chuyền đó dù có to lớn và được trang
bị tốt đến đâu cũng xảy ra hỗn loạn và sẽ càng hỗn loạn hơn nữa khi cái
chết đó diễn ra không rõ ràng. Giờ đây không ai có thể nói chắc con
thuyền Địa Hào sẽ đi về đâu trước phong ba bão táp?
“Hai vị cảnh sát, còn có việc gì cần tôi giúp nữa không ạ?”. A Anh hỏi.
“Ồ! chúng tôi rất cám ơn cô đã hợp tác”. Tiểu Xuyên tỏ thái độ
đầy thiện ý, cậu nói tiếp: “Xin hỏi, trợ lý Chung hiện có ở đây không?”.
“Có ạ, anh ấy đang tiếp khách”.
Phòng làm việc của Chung Đào nằm đối diện hành lang cửa đóng kín, có lẽ anh ta đang tiếp khách.
“Vị khách nào vậy?”.
“Ông Lục, tổng giám đốc ngân hàng hình như là đến để đòi khoản
cho vay. Chủ tịch Hồ Quốc Hào vừa mới chết bọn họ đã quay ngoắt trở mặt
ngay được”. Lời nói của A Anh đầy vẻ bất mãn.
Tiểu Xuyên nhìn đồng hồ, năm giờ hai mươi phút, cậu nói: “Chúng tôi đợi một chút cũng được”.
“Ở đây có báo đấy ạ!”. A Anh đưa cho họ mấy tờ báo của đặc khu sau đó đóng cửa đi ra.
“Cám ơn cô!”. Đào Lợi khẽ đáp.
Hai người ngồi lặng lẽ trong phòng làm việc, Đào Lợi hờ hững lật từng trang báo.
Thời gian chầm chậm trôi qua.
Bỗng nhiên có tiếng kèn acmonica ở rất gần văng vẳng vang lên,
thanh âm của nó dường như đã từng nghe qua ở đâu đó, tuy nhiên không thể nhớ được tên khúc nhạc, chỉ có điều giai điệu rất buồn, thậm chí là thê lương.
Tiểu Xuyên nhìn tứ phía nhưng không thể phát hiện ra âm thanh đó xuất phát từ đâu.
“Cậu có nghe thấy tiếng nhạc không?”. Cậu hỏi Đào Lợi, cô lắc đầu.
Khuôn mặt Tiểu Xuyên trở nên đăm chiêu.
Khoảng hai mươi phút sau cửa phòng trợ lý Chung bật mở, anh tiễn hai người đàn ông trung niên mặc âu phục sang trọng ra ngoài, người đi
sau béo tốt, khuôn mặt phương phi.
“Xin tổng giám đốc Lục cứ yên tâm”. Chung Đào mềm mỏng thuyết
phục “Đợi phó tổng giám đốc Châu trở về, tôi sẽ truyền đạt lại ý kiến
của ngài với ông ấy”.
“Đừng để lâu quá, muộn nhất là qua trung tuần tháng này”. Người đàn ông béo tốt phẩy tay đầy quyền uy.
“Điều đó thì xin ngài cứ yên tâm”. Chung Đào đáp lời và tiễn ông chủ nhà băng tới tận cửa cầu thang máy, khi anh quay người thì gặp Tiểu Xuyên và Đào Lợi.
“Trợ lý Chung, chúng tôi muốn gặp anh có chút chuyện”.
Chung Đào lịch sự mời hai cảnh sát vào trong phòng.
Căn phòng trợ lý chủ tịch HĐQT không lớn song trang trí rất
trang nhã, thiết bị đầy đủ. Trên bàn làm việc là chiếc máy tính màu đen, màn hình tinh thể lỏng đời mới nhất.
“Những vị khách vừa rồi là…”.
“Đến để đòi nợ”.
Chung Đào nói thẳng không hề giấu giếm, anh vừa đưa cà phê mời hai người vừa sắp xếp lại tập tài liệu để trên bàn.
“Chủ tịch HĐQT Hồ Quốc Hào mất đi, Địa Hào Trí Nghiệp cũng bị
ảnh hưởng không nhỏ, ngân hàng sợ khoản cho vay của họ trở thành nợ
xấu”.
“Địa Hào nợ khoảng bao nhiêu?”. Tiểu Xuyên hiếu kỳ hỏi.
“Chẳng ai biết được khoản nợ của Địa Hào là bao nhiêu cũng như
không thể nắm được Địa Hào có bao nhiêu tài sản. Bên ngoài đồn đại khoản nợ đó là không hề nhỏ”.
Tiểu Xuyên hỏi: “Điều ấy là sự thật?”.
“Hoặc giả có chút tung tin giật gân, Địa Hào là công ty lớn có
thương hiệu mạnh trên thương trường”. Chung Đào nửa thừa nhận, nửa phủ
nhận “Người xưa có câu “Lạc đà ốm còn hơn ngựa khỏe”.
“Vậy hiện nay trợ lý Chung là người đại diện cho công ty”. Đào Lợi phỏng đoán.
“Ấy, tôi làm sao có được tư cách đó”. Chung Đào khiêm nhường trả lời.
“Chủ tịch Hồ Quốc Hào mất đi, người có khả năng nhất thay thế là phó tổng Châu, phụ trách kinh doanh là phó tổng giám đốc Lý, tầng lớp
quản lý chúng tôi là những người làm công cao cấp chẳng làm được gì
cả…”.
Mọi người trong công ty đều biết Chung Đào là trợ lý, là cánh
tay phải của Hồ Quốc Hào. Những lời nói của anh ta có lẽ ít nhiều cũng
có căn cứ, giữa bọn họ có mối quan hệ cực kỳ thân thiết, anh ta là một
trong số ít những người có quyền lực thực sự trong tập đoàn. Nội bộ tập
đoàn đều cho rằng Hồ Quốc Hào có cái ơn tri ngộ với Chung Đào, trọng thị và giao cho anh ta những việc cơ mật, lũ người thân tín của Hồ Quốc
Hào, anh ta nhất định phải có năng lực song muốn thâu tóm quyền lãnh đạo trong tập đoàn thì rõ ràng thực lực không thể sánh bằng Châu Chính
Hưng. Trừ phi anh ta giành được 54% cổ phần từ tay vợ góa Hồ Quốc Hào,
cô Chu hoặc Hồ Quốc Hào để lại chúc thư giao toàn bộ tài sản cho anh ta.
“Là thế này, chúng tôi muốn tìm hiểu một vài vấn đề trong ngày
hai mươi tư tháng sáu”. Tiểu Xuyên mở quyển sổ công tác đi thẳng vào
việc.
“Về vấn đề gì?”
“Nghe nói buổi chiều ngày hai mười tư hôm đó, anh đi cùng với Hồ Quốc Hào đến Đại Mai Sa?”.
“Đúng vậy, tôi đi cùng xe với chủ tịch, ông ấy xuống Đại Mai Sa, còn rồi thì xuống Tiểu Mai Sa”.
“Anh làm gì ở Tiểu Mai Sa?”. Tiểu Xuyên xoáy vào câu hỏi.
“Là bữa liên hoan bạn bè”. Chung Đào gật gật đầu tiếp lời “đều
là những người học cùng tôi ở Đại học C hiện làm việc ở Thâm Quyến, mọi
người ít có dịp tụ tập với nhau, nên đêm đó chúng tôi thức trọn cả đêm”.
Đào Lợi hỏi: “Một bữa tiệc ở biển, có tất cả bao nhiêu người cùng tham gia?”.
“Bảy người!”. Chung Đào đáp với vẻ bình thản.
“Các anh tổ chức tiệc đêm ở chỗ nào của Tiểu Mai Sa?”.
“Không phải là đang chất vấn tôi đấy chứ?”. Chung Đào mỉm cười.
“Thật không phải. Đó là điều tra theo thông lệ của cảnh sát, bất cứ ai có liên quan đến ông Hồ Quốc Hào đều phải điều tra kỹ càng”.
Đào Lợi mềm mỏng giải thích.
“Chúng tôi đặt tiệc ở vườn nướng, mọi người vui chơi từ tám giờ tối cho đến trên dưới hai giờ sáng”.
Đào Lợi đã từng cùng bạn bè đến vườn nướng Tiểu Mai Sa, nơi đó
chuyên về các món nướng. Mỗi lò có thể phục vụ từ bảy đến mười thực
khách. Nó còn được người ta gọi là vườn nướng nghìn người với các món từ thịt bò, thịt dê, thịt lợn cho đến các loại hải sản tươi sống như tôm
hùm, mực, cá ngân tuyết… đồ uống, thực phẩm đa dạng, phong phú. Cô rất thích món mực nướng và cá tiểu hoàng rán ở đây. Khi ánh mặt trời tắt
dần, màn đêm buông xuống càng làm nổi bật màu khói lam của vườn nướng,
nơi nơi rộn lên tiếng nói cười ồn ã, ánh lửa bập bùng, khung cảnh vườn
nướng trở nên hoành tráng.
“Nữa đêm anh có rời khỏi đó lúc nào không?”.
“Có một lần”,
“Thời gian cụ thể”.
“Quãng mười một giờ, tôi uống quá nhiều nên bị nôn”.
Tiểu Xuyên nói: “Trợ lý Chung, có thể cho tôi biết tên của bảy người hôm đó được không?”,
“Được”.
Chung Đào rút ra từ ngăn kéo một quyển sổ ghi chép màu lá cọ,
lật qua vài trang rồi lấy một mẩu giấy nhỏ ghi tên và số điện thoại lên
đó.
Tiểu Xuyên nhận từ tay anh ta tờ giấy, trên đó ghi họ tên đầy đủ của sáu người: Phó Đồng, Trương Tuấn Sinh, Tề Hiểu Huy, Đới Chí Cường,
Đinh Lam và La Vi.
Tiểu Xuyên thắc mắc: “Mới chỉ có sáu người?”.
“Thêm Chung Đào chẳng phải là bảy người sao?”. Chung Đào nheo nheo mắt nhìn Tiểu Xuyên.
Cậu chợt tỉnh ra, không nhịn được bật cười.
Nghe tiếng nói của Chung Đào đúng giọng “Tứ Xuyên” chuẩn, cậu
bất chợt nhớ đến một câu nói trong tạp chí nào đó “Cho dù bạn có đi đến
nơi đâu, trong mênh mang biển người đều có thể tìm được đồng hương hay
bạn hữu khi cất lên tiếng nói của người Tứ Xuyên”.
“Trợ lý Chung cũng là người Tứ Xuyên?”.
“Đúng vậy”. Chung Đào đáp.
“Vậy chúng ta là đồng hương rồi”.
“Quê tôi ở Thành Đô?”.
“Tôi là người Trùng Khánh”.
“Ồ, ra cậu là chàng trai Trùng Khánh”. Giọng nói của Chung Đào trở nên thân thiết.
Tiểu Xuyên bất chợt cảm thấy ở Chung Đào toát lên sức hút của
một trang nam tử hán. Đó là vẻ hóm hĩnh và hào khí vốn là đặc trưng của
người Tứ Xuyên.
Tiểu Xuyên quay trở lại chủ đề chính, giọng nói đã trở nên thân
mật: “Chúng tôi nghe nói phó tổng Châu đi công tác, sao phải vội vã
vậy?”.
“Tôi cũng vừa mới biết từ chỗ thư ký riêng của ông ấy, có vẻ đi
cũng hơi đột ngột”. Chung Đào dường như cũng không biết mục đích chuyến
đi lần này của Châu Chính Hưng.
“Liệu có phải là chuyện nằm ngoài kế hoạch không?”.
“E là không phải như vậy”.
Tiểu Xuyên nhìn vào đồng hồ đeo tay.
Đúng lúc này, cậu nghe thấy tiếng kèn acmonica ở rất gần vọng
đến. Thanh âm trầm ấm như hát, như kể, như có lần nước suối mát lạnh
chảy qua lòng người.
Tiểu Xuyên lắng tai nghe, cậu khép chặt hai mí mắt, dường như nhìn thấy những ngọn lửa xanh nhập nhòa nhảy múa trước mắt.
Khúc nhạc này mình đã cùng nghe ở đâu đó, Tiểu Xuyên thầm nghĩ,
tuy nhiên cậu không thể nhớ được tên, giai điệu bi thương ai oán khiến
người ta phải rung động cõi lòng.
Cậu đưa mắt sang nhìn Đào Lợi: “Ôi! Thời gian cũng không còn sớm nữa, tôi và Đào Lợi xin phép cáo từ”.
“Lúc nào rảnh, tôi sẽ mời hai vị đến Cửu Long ăn đồ nướng”. Vẻ mặt Chung Đào rất thật lòng.
“Xin cám ơn anh”.
Chung Đào đứng dậy chuẩn bị tiễn khách, bỗng trong giây lát Tiểu Xuyên thấy Chung Đào ngồi sững lại, hai mắt ngó trân trân ra ngoài cửa
sổ, vẻ mặt đầy kỳ lạ, các cơ trên miệng anh ta co giật liên hồi, ngón
tay run lẩy bẩy, tách cà phê trên bàn đổ ụp xuống. Khuôn mặt thô kệch
dưới ánh ráng chiều từ cửa sổ chiếu vào trông như hình tượng gỗ totem
của người Phi châu, trong khóe mắt anh hai dòng lệ nhỏ ứa ra.
Tiểu Xuyên dõi theo cái nhìn thất thần của Chung Đào.
Đi kèm với tiếng nổ động cơ rền vang trên đỉnh đầu, qua cánh cửa kính màu lam có thể thấy rõ chiếc máy bay Boeing xuyên ánh nắng chiều
thẳng hướng tây nam bay đi, hai đầu cánh chớp lóa ánh đèn xanh đỏ. Do nó bay rất thấp nên không thể nhìn được biểu tượng của hãng hàng không
nào. Song phần bụng máy bay khi bay ngang qua đã tạo nên lực xung kích
cực mạnh.
Đào Lợi ngờ ngợ trước vẻ đờ đẫn của Chung Đào, trong lòng cảm thấy thật kỳ lạ.
Chung Đào ngay lập tức kìm chế cảm xúc của mình, anh ta hướng về phía hai người cảnh sát trẻ tuổi, gật gật đầu tỏ vẻ xin lỗi về hành
động vụng về của mình vừa rồi. Sau đó anh ta vội vàng nhặt tách cà phê
lên, rất may cà phê trong tách đã được uống hết, nếu không mặt bàn sẽ
rất bừa bộn.
Sự việc đó chỉ xảy ra trong vòng mươi giây song để lại ấn tượng
cực kỳ sâu sắc đối với Tiểu Xuyên và Đào Lợi. Trong thang máy Tiểu Xuyên nói với Đào Lợi: “Hành động của Chung Đào vừa rồi thật khác thường”.
“Tớ cũng có cảm giác như vậy, dường như anh ta nhìn thấy một cái gì đó…”.
“Là chiếc Boeing 747, bay đến sân bay Hoàng Điền”.
“Máy bay Boeing?”.
“Đúng vậy”.
Đào Lợi lắc đầu, khuôn mặt lộ rõ vẻ ưu tư.