Bạch Hổ bỗng dưng cảm thấy trong lòng vô cùng đói khát, nó hơi bất an mà liếm liếm môi, sau đó nâng móng vuốt……
Nhưng khi nhìn thấy thiếu niên đang tỏa ra sắc thái ma mị đắm chìm giữa hắc vụ kia, gương mặt như ngọc của y hiện ra nét cười, nó lại nhe răng nhếch miệng, cố gắng nén cảm giác thèm ăn mà thu hồi móng vuốt, kẹp chặt dưới bụng.
Ánh mắt của Bạch Hổ vẫn luôn nhìn chằm chằm vào thiếu niên trong lòng, khiến cho con ngươi màu vàng của nó càng thêm phát sáng, giống như hai ngọn quỷ đăng bên trong hắc động u ám, cảm giác thèm ăn đang bị kìm nén hết sức, khiến cho ánh mắt nó khi bắn ra trở thành một loại khát vọng độc chiếm.
Không chỉ như thế, nó còn nuốt lấy ma khí đang tràn đầy khắp bốn phương tám hướng, không ăn vào mà chậm rãi thổi tới viên phụ hồn pháp của thiếu niên.
Viên ma pháp kia khi nhận được càng nhiều ma khí thì trở nên ôn nhuận, hơi hơi rung lên, tỏa ra một màu đen thuần sáng bóng.
Khi nhìn thấy gương mặt của thiếu niên ngày càng thư giãn thoải mái, Bạch Hổ cũng thấy thật vui sướng, nó không nhịn được mà thổi thêm càng nhiều ma khí tới viên phụ hồn của thiếu niên.
Thần thức của Phong Thiệu không chú ý tới những chi tiết nhỏ ở ngay bên cạnh, toàn bộ tâm tư của y đều đặt lên viên phụ hồn của mình.
Tuy rằng y vẫn tu đạo pháp, nhưng giờ phút này Phong Thiệu càng thấu hiểu thân thể của mình trời sinh là để tu ma.
Cảm giác phù hợp đến từng chi tiết, hồn phách tùy tâm, cho dù tu đạo pháp có thuận buồm xuôi gió đến đâu chỉ sợ cũng chẳng thể so sánh được.
Y biết trước tình tiết, bởi vậy sẽ không giống như Thanh Thành tôn giả trong nguyên tác, vì thứ tôn nghiêm của tu giả Chính Đạo mà cưỡng chế ma niệm, vẫn cố để tu đạo, ngược lại đem đến hậu quả là nhập ma.
Tu ma và nhập ma không hề giống nhau.
Tu ma còn có khả năng đắc đạo phi thăng, nhập ma lại chỉ có thể đạo tiêu thần diệt.
Phong Thiệu nhét viên phụ hồn vào lại cơ thể, sau khi vận khí điều tức hết một vòng chu thiên, y chợt cảm thấy mình bất phàm hơn rất nhiều.
Từ cảnh giới ba viên phụ hồn đến cảnh giới bốn viên phụ hồn, cho dù chỉ là một viên vừa mới luyện thành, cũng không chỉ đơn giản như sinh một đứa con ( 也不止是多了一粒子那么简单).
Ma Tu tu thể, càng nhiều viên phụ hồn pháp thì càng giúp cho sắc thân, pháp thân thậm chí là thần thức của y càng thêm kiên cố hơn.
Mặt khác, y còn tu luyện tâm pháp Chế Luyện Tâm Chú giúp cho ma công tăng lên khiến Ma Giáp, Luyện Ma chú, Tế Thể chú cũng tăng cường theo.
Bạch Hổ cảm thấy Phong Thiệu đã xong việc liền cúi đầu rống lên một tiếng, đột nhiên nó áp đảo thiếu niên trong lòng xuống mặt đất, đầu lưỡi phấn hồng liếm lên mặt y, giống như muốn thể hiện nỗi niềm nhung nhớ khi xa cách ba bốn tháng.
Tâm trạng của Phong Thiệu không tồi, cũng đã quen với sự nhiệt tình của con mèo lớn này rồi liền ôm lấy cái cổ xù lông, rồi hôn hôn vài cái lên mặt nó:
“Tiểu Bạch có ngoan ngoãn tu hành Nguyệt Hoa quyết không?”
Động phủ tạm thời này tuy là một hang động, nhưng bên trong động vẫn có thể nhìn được mặt trăng, đây cũng là chỗ bất phàm của hang động mà đại năng để lại.
Tuy nơi này mới được tạo ra, nhưng cũng là phỏng theo vùng đất cổ xưa mà xây dựng (却也是真实存在于化外之地的一处).
Bạch Hổ kêu lên, không biết là có tu luyện hay là không tu luyện, nhưng Phong Thiệu cũng không để ý, bởi vì tên nhóc này quá mức nhiệt tình, đầu lưỡi màu hồng phấn linh hoạt không biết từ bao giờ đã di chuyển đến chỗ đó của y……
Hai người sớm chiều ở chung đã được gần hai năm, kỹ xảo của Bạch Hổ càng ngày càng tốt, lại thêm việc phải nhẫn nhịn mấy tháng, chiêu thức vốn liếng toàn thân đều lôi ra cả, cho dù Phong Thiệu cố tình kéo dài cũng bị nó dụ dỗ đầu hàng.
Y lại là người quen chiều theo dục vọng, lúc trước làm người đã thế, càng đừng nói tới hiện tại đã tu ma.
Theo số viên phụ hồn tăng lên, thể chất cũng kiên cố hơn nhiều, ma tính được tăng lên vài phần, tuy không giống như ma vật bên ngoài, nhưng lại khiến cho hành động của Phong Thiệu càng thêm tùy tâm sở dục ( muốn gì làm đấy ).
Thậm chí sau này, khi y bị con mèo lớn kia đặt dưới thân, thậm chí còn lộ ra cảm xúc sướng đến dục tiên dục tử.
Không biết đã cao trào bao nhiêu lần, Phong Thiệu khó có được một lần không biết kiềm chế cảm thấy ngay cả ma thể của y cũng sắp không đỡ nổi nữa rồi, tuy ma khí tổn hại, nhưng trên mặt y lại tràn đầy nét xuân, tà khí sắc dục vương vấn nơi khóe mắt tiết lộ y đã sung sướng đến mức nào.
Con ngươi màu vàng kim của Bạch Hổ dần dần cuồng loạn, đáy lòng nó giống như có ngọn lửa đang không ngừng thiêu đốt, mang theo cực nóng mà chính nó cũng không thể hiểu nổi.
Nó cứ quấn lấy ngọc hành tinh xảo của Phong Thiệu hết lần này đến lần khác, không biết đã tiết ra hết bao nhiêu nguyên tinh tinh thuần, cũng không biết đan điền của nó còn tích trữ lại bao nhiêu, nhưng nó vẫn miệt mài chẳng thấy mệt mỏi.
Loại nguyên khí thuần túy này đối với một ma tu như Phong Thiệu là một loại dụ hoặc rất lớn, nhất là thời điểm cơ thể đang hư nhược, y hóa nhập toàn bộ vào trong cơ thể mình, bổ sung vào những phần còn thiếu, đúng lúc đút no viên phụ hồn vừa mới luyện thành kia.
Thể xác và tinh thần đều được no đủ, Phong Thiệu nghiêng mình gối lên chân trước của Bạch Hổ.
Lấy lông xù làm đệm dựa, nghiêng đầu nhìn nó, giọng nói của y còn mang theo sự lười biếng:
“Tiểu Bạch nhà ta lớn lên dễ nhìn như vậy, nếu hóa thành người, chắc cũng là một đứa trẻ tuấn tú.”
Bạch Hổ cúi đầu nhìn y, con ngươi ánh lên một vết tối không rõ ràng hợp cùng với màu vàng kim vốn có, nhuộm thành một màu sắc nồng đậm, không có sự hung dữ của thánh thú Bạch Hổ, chỉ có vẻ hết sức ngọt ngào, giống như một đứa trẻ thỏa mãn sau khi được nếm món đường ngon ngọt mà nó đã mong đợi từ rất lâu rồi.
Ngày hôm sau, Phong Thiệu và Tiểu Bạch sau khi ở trong động phủ “Tu luyện” mấy tháng, dưới chấp niệm nhớ mãi không quên Thất Tinh Linh Nhĩ của Phong Thiệu, Bạch Hổ lưu luyến không rời cùng thiếu niên ra khỏi động phủ.
Sau khi tu luyện được bốn viên phụ hồn, Hỗn Nguyên kinh cức trong cơ thể Phong Thiệu đã thành thật hơn một chút, có thể là do ma khí sung túc trong đan điền giúp nó sống càng thêm thoải mái, nên tạm thời cũng không muốn khó xử chủ nhà là y.
Kỳ thật nếu có thể hoàn toàn khống chế kinh cức để sử dụng, ngược lại là một chuyện vô cùng tốt.
Dù sao Hỗn Nguyên kinh cức tuy ăn mất nhiều linh khí, nhưng sinh mệnh lại cường hãn vô cùng, gân mạch của tu giả bình thường hoàn toàn không thể so sánh được với nó.
Cho nên, đối với Thất Tinh Linh Nhĩ có thể tiêu trừ ma tính của bụi gai, Phong Thiệu càng thêm chờ đợi .
Vì thế Phong Thiệu nhanh chóng mang theo Bạch Hổ rời khỏi đây, cũng không vội vã đến thẳng Tàng Phong sơn ở Tây Hòa châu , mà là trước tiên đến chỗ ngọc phù trong trận pháp của Lữ thị.
Ngọc phù ở Côn Luân có ý nghĩa rất lớn, truyền thừa vạn năm, do người kế thừa tông chủ nắm giữ, chẳng hạn như sư huynh Cố Hoài của y.
Việc ra ngoài lần này vốn là nhiệm vụ của Cố Hoài, nhưng hắn muốn nhận sự vụ giúp Lâm Tòng Chi, cho nên việc này liền trở thành nhiệm vụ của Phong Thiệu, bởi vậy hắn cũng đem ngọc phù chứng minh thân phận giao cho y.
Này nội dung trong ngọc phù uyên bác, lấy tu vi Kim Đan sơ kì của Phong Thiệu, có thể sử dụng cũng mới chỉ có một phần vạn, nói đây là ngọc phù, chẳng bằng nói đây là truyền thừa của Côn Luân.
Phong Thiệu để ngọc phù bên trong trận pháp, sau khi giăng kết tại mắt trận truyền tống trận, liền nhìn thấy nơi đó hiện ra một ấn ký của Côn Luân.
So với các cách khác, cách làm này tuy rằng không quá tốn sức, nhưng lại vô cùng hữu hiệu.
Bởi một khi có người cố tình muốn dùng sức mạnh phá trận, tất sẽ chạm đến Côn Luân nhãn ở trong Côn Luân tiên cảnh, Côn Luân nhãn do đại năng trong tông môn canh giữ, cho dù cách ngàn dặm xa xôi, cũng có thể cho người phá trận một kích, lấy đó làm cảnh cáo.
Tuy rằng một kích kia là do đại năng giả gây nên, nhưng dù sao cũng cách xa ngàn dặm, uy lực giảm dần, không hẳn có thể một chưởng giết chết người phá trận.
Nhưng quan trọng là cảnh cáo — ngươi đụng đến Côn Luân ta, Côn Luân đã biết, nếu còn không dừng tay, Côn Luân nhất định sẽ động đến ngươi.
Làm xong việc, Phong Thiệu tự cho là đã hết lòng quan tâm giúp đỡ, tuyệt đối không còn sai sót, vì thế liền nói lời cáo biệt với Lữ Xuân Thu.
Vốn y còn muốn ở trong động phủ tu luyện thêm hai năm, cho dù hiện giờ đã xuất hiện trước mặt Lữ Xuân Thu, nhưng muốn lặng lẽ quay trở về cũng không phải không thể.
Chỉ là động tĩnh y gây ra khi cứu Lữ thị đã quá lớn, vài tộc nhân kia đã nhìn thấy Phong Thiệu, chỉ sợ trong khoảng thời gian ngắn cũng không thể yên tĩnh ẩn nấp tu hành trong phúc địa của Lữ thị nữa.
May mà cảnh giới của Phong Thiệu đã ổn nên cũng không so đo cút thiệt hơn này nữa .
Lữ Xuân Thu muốn giữ y lại, nhưng đối phương lại nói phải trở về tông môn thỉnh tội, cũng chỉ đành nhịn đau tiễn đưa, lúc ra cửa còn không thiếu túi gấm ở trong chứa vô số ngọc giản tâm pháp và thuốc chữa thương linh tinh, còn có rất nhiều tài liệu liên quan đến linh thú.
Phong Thiệu suy nghĩ đến phong phú, liền vui vẻ nhận lấy túi gấm.
Khi đến trận truyền tống, đã có một trưởng lão của Lữ tộc đứng đây chờ sẵn, Lữ Xuân Thu thấy liền dẫn Phong Thiệu tiến đến: “Đây là đại trưởng lão Lữ Thụy Sinh.”
Sắc mặt đối phương nhợt nhạt, chấp lễ với Phong Thiệu: “Ta giúp quý sử khai trận.”
Phong Thiệu mơ hồ cảm giác sắc mặt của đại trưởng lão này không ổn, nhưng y đã đi vào trong trận, chờ khi xác thực sắc mặt của đại trưởng lão này bất thường, thì truyền tống trận này đã tỏa ra sương mù dày đặc.
Sương mù dày đặc vô biên vô hạn, trong tầm mắt không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì, thần thức của tu giả càng thêm đáng tin.
Nhưng khiến cho Phong Thiệu sợ hãi là khi thần thức của y đảo qua, cũng là một mảng sương mù vô biên vô hạn……
Trong cổ họng Tiểu Bạch phát ra vài tiếng kêu nôn nóng, nó cong lưng lên che chắn phía trước Phong Thiệu.
Mà bên ngoài trận pháp của Lữ thị, màn đêm đang dần buông xuống.
Lư Sơn một mảnh yên tĩnh, mãi cho đến khi có vài đạo nhân từ xa bay lại, còn có mấy chiếc pháp khí bay sát sau đó.
Bọn họ đứng trên một mỏm đá ở đỉnh núi, người đứng đầu trước ngực buộc năm dải lụa màu đen lay động trong đêm, là một đạo nhân trung niên cao lớn.
Ông ta và Trương Dưỡng Thanh mặc đạo bào khương sắc đứng bên cạnh, trên đạo bào đều có ám văn hình đỉnh màu bạc ( đỉnh: cái để luyện thuốc ), chính là dấu hiệu của Bão Phác tông.
Trung niên đạo nhân khí độ bất phàm, ước chừng tu vi Nguyên Anh hậu kỳ, ông ta nhìn về phía hơn mười người Phích Lịch môn mặc hồng y đứng sau, ánh mắt dừng ở trên người Không Hà chân nhân cầm đầu, thản nhiên nói: “Phá trận đi.”
Không Hà chân nhân tuy rằng cũng có tu vi Nguyên Anh sơ kỳ, có điều lão ta tu võ, thực lực so với những tu giả khác thì thấp hơn một tầng, nhưng hiện giờ ngay cả khi lão có là kiếm tu có thực lực cao nhất, cũng không dám kiêu căng trước mặt trưởng lão của Bão Phác tông.
Lão kính cẩn cúi đầu:“Vâng, thỉnh Bình Dương Tử trưởng lão đợi trong chốc lát.”
Lữ tộc truyền thừa vạn năm, tuy gần trăm năm nay tương đối bình thường, nhưng dù sao cũng từng có một hai vị tổ tông đã phi thăng, cấm chế tại phúc địa này không phải một Nguyên Anh chân nhân liền có thể phá trận .
May mà thủy tổ của Bão Phác tông là môn phái đan đỉnh, bất kì đan dược quỷ dị kỳ tuyệt đều có thể luyện ra, không chỉ có thể đả thương người, cũng có thể đả thương vật.
Lữ Thụy Sinh lấy một chiếc bình màu xanh ra, trong đó là Linh Khô Thủy huyền giai ( huyền giai: chỉ cấp độ pháp bảo ) do Bão Phác Tông luyện chế, độ nguy hiểm của nó và giá trị sau khi chế tạo thành công có quan hệ trực tiếp đến nhau.
Dùng Linh Khô Thủy để tổn thương người, chỉ cần một giọt liền có thể khiến cho linh khí của một tu giả Kim Đan hóa thành hư không.
Mà Trương Dưỡng Thanh đưa cho Lữ Thủy Sinh ước chừng một lọ, tuy rằng không thể khiến cho linh khí ẩn chứa trong tộc mạch biến mất hoàn toàn, nhưng nếu đổ vào mạch nhãn, thì có thể lập tức thấy được hiệu quả.
Tuy rằng tộc nhân của Lữ thị có thể phát hiện ngay lập tức, nhưng đối với tộc mạch và mạch nhãn tồn tại song hành cùng nhau mà nói, đã gây nên ảnh hưởng rất lớn.
Không có mạch nhãn với linh khí sung túc duy trì, cấm chế đại trận pháp không gì phá nổi cũng sẽ giống như nuôi ngàn quân mà không có lương thảo.
Đại trận pháp không thể phản phệ, cũng dần hao mòn đến hết.