“Tôi tạm ngưng tất cả mọi việc để có thể trở về nước Anh.” Prudence nói: “Sau khi vị chủ bút giàu có của tôi nghe nói rằng đây là chuyện khẩn cấp, ông đã đồng tình giúp tôi đặt máy bay, tôi cũng rất may mắn, chiều hôm đó có một chiếc máy bay n3m bom B52 đang muốn cất cánh từ Berlin, sẵn tiện cũng chở theo vài vị đại sứ của Mỹ đến London, tôi quá giang chiếc máy bay khổng lồ ấy, đáp xuống London cũng trong đêm hôm đó rồi bắt chuyến tàu lửa cuối cùng đến Oxford.
Căn hộ số 55 trên đường Juniper không có ai, Alex không để lại bất cứ thứ gì cho tôi dù chỉ là một tờ giấy.
Tôi gọi điện đến nhà Loiseau cũng không ai bắt máy.
Tôi định đi thẳng đến Cornwall nhưng lúc ấy đã quá muộn, không còn chuyến tàu nào, cửa hàng cho thuê xe cũng đã đóng cửa, tôi lo lắng chờ trong căn hộ suốt một đêm, sáng sớm hôm sau đã chạy tới trạm xe lửa.”
“Tôi đến nơi vào buổi chiều, khó mà hình dung được bầu không khí trong nhà ngột ngạt đến cỡ nào.
Trong nhà không có ai, rèm cửa thì bị kéo lại, trông giống hệt bối cảnh trong những bộ phim kinh dị.
Alex đã nói về chuyện Martha hiện đang ở lầu một nhưng không nói là bà ở phòng nào, vì vậy tôi đành phải tìm bà trong mỗi một căn phòng, cuối cùng tìm thấy bà trong phòng khiêu vũ đã lâu không sử dụng.”
“Ý nghĩ đầu tiên của tôi chính là bà ấy già thật rồi, không chỉ về vẻ bề ngoài.
Bà mang một tấm lụa đen giống như một người mẹ đến chia buồn.
Lúc tôi ôm bà cũng phải rất dè dặt cẩn thận, tôi sợ bà sẽ hòa tan hoặc vỡ vụn mất.
Tôi hỏi bà Alex đang ở đâu, bà không biết, nói rằng Alex đã rời đi không lâu sau tang lễ, cậu ấy không nói cho bà ấy biết rằng cậu đã đi đâu, hoặc là nói, bà không nhớ, sự chú ý của bà vốn không đặt trong chuyện này.
Martha cầm một con gấu búp bê trong tay, phần lông xung quanh bụng và lỗ mũi của chú gấu đã bị rụng sạch, trông như bị vảy nến.
Lúc nói chuyện, bà vẫn luôn sờ vào lớp lông không còn lại bao nhiêu của chú gấu.
Đó là món đồ chơi mà George thích nhất khi còn bé, phu nhân của Nam tước đã đặt làm món đồ này tại một xưởng đồ chơi ở Nga cùng với một bộ âu phục nhỏ của George và một bộ đồ đi săn.
Sau này, chuyện đó đã trở thành truyền thống của gia đình, khi Leila và Alex ra đời, phu nhân của Nam tước đều đặt làm một con mới.
Hai chú gấu còn lại đã không thể tìm được, chỉ còn lại một mình chú gấu ấy nằm lẻ loi trên cái giá trong phòng chứa đầy đồ lặt vặt.”
“George sẽ nói chuyện với con gấu này, đặt nó nằm trên gối.
Cậu nghĩ nó sẽ nói những gì? Martha nói với tôi, bà đặt con gấu nằm trên đầu gối, cột chặt lại chiếc nơ nhỏ đã phai màu.”
“Bà kiên quyết muốn dẫn tôi đi xem bia mộ của George, nó nằm phía sau nhà nguyện, cách không xa nơi đã cử hành hôn lễ của anh ấy vào năm năm trước.
Hai bên đường dẫn đến nhà nguyện trồng đầy cây thông, bây giờ nó đã lớn đến nỗi biến con đường ấy thành một đường hầm gió thổi không lọt, trước đó, những cây thông ấy rất nhỏ, chúng được bao quanh bằng giá đỡ như những nét vẽ nguệch ngoạc của trẻ con.
Trước khi chúng tôi đến đó thì trời đã đổ mưa, trên đường rất trơn trượt, cành cây nhỏ cùng lá cây rơi đầy mặt đường, Martha đi không nhanh, tôi để bà dựa vào cánh tay tôi.
Gió luôn thổi những giọt nước từ ngọn cây xuống nhưng chúng tôi cũng không ngại.”
“Nhà Loiseau có một khu mộ gia đình với mái vòm thấp bằng đá, tuy nhiên George không ở trong đó, có lẽ bởi vì anh ấy đã tự sát, mặc dù trong ấn tượng của tôi, một nhà Nam tước cũng không đáng kính là bao.
Martha nói rằng đó là vào một buổi sáng, khi George chết, tất cả mọi người đều nghe thấy tiếng súng nhưng người đầu tiên tìm thấy anh ấy chính là vợ anh ấy.
Súng được giấu trong một chiếc hộp gỗ bị khóa trong, đặt ở chỗ cao trên kệ sách.
Không ai biết George tìm được khẩu súng ấy thế nào, có lẽ anh ấy đã lén tìm từ lâu rồi.
Bác sĩ nhanh chóng được gọi tới, sau đó là cảnh sát, mặc dù mỗi người đều biết rằng gọi đến cũng chẳng có ích gì.
Tang lễ được tổ chức một cách khiêm tốn, tính luôn cả Martha thì cũng chỉ có vỏn vẹn bảy người.
Nam tước không cho mời những chiến hữu của George, bọn họ đến vào mấy ngày sau, mang theo hoa và kỷ vật.
Lúc tôi đến mộ, những bó hoa khô héo đã bị dọn đi, chỉ còn lại một dải lụa ướt cùng với một ít đồ trang sức nhỏ, có người để lại một chiếc huy chương bằng đồng được ép vào tấm bìa cứng, trên đó ghi: Gửi đến George, mãi mãi là đội trưởng của chúng tôi.”
“Tại sao chuyện này lại xảy ra vậy cậu Prudence? Martha hỏi tôi.”
“Tôi không biết.
Martha đương nhiên cũng không mong đợi câu trả lời của tôi.
Thật ra tôi cũng chẳng có tâm trạng để tiếp tục chuyện này, trong đầu tôi chỉ toàn là Alex.
Tôi an ủi bà mấy câu rồi rời khỏi nhà chính, bây giờ ở đó đã trở thành một nghĩa địa.”
“Không ai biết Alex đã đi đâu, tôi hỏi tất cả những người mà tôi có thể nghĩ ra, bọn họ đều kinh ngạc trả lời tôi rằng họ không biết.
Tôi đi đến tất cả những nơi mà chúng tôi đã từng đi qua trước kia, nhà ăn, tiệm sách, tiệm làm tóc, câu lạc bộ cách đây bốn mươi phút đi xe, ngoài ra còn có một cửa hàng đồ chơi thủ công làm bằng gỗ, sau đó tôi trở về căn hộ trên đường Juniper đợi suốt một ngày, thậm chí còn bất chợt gọi đến khách sạn nhỏ ở St.
Malo, không, ngài Loiseau không có ở đây.”
“Alex không mang theo máy đánh chữ và bản thảo của cậu ấy, tôi đợi ở nhà, tìm đọc từng câu chuyện của cậu ấy, tất cả những câu chuyện ấy đều bị bỏ ngỏ, toàn là những cuộc hội thoại không đầu không đuôi cũng không có nội dung, một đứa bé trai chạy dọc theo bờ sông thật nhanh, cậu đạp phải một chiếc lưỡi câu đã rỉ sét bị chôn trong đống bùn, trang kế tiếp lại là một chiếc pháo hạm của Hà Lan tiến hành khai hỏa tại một cảng nước sâu dưới sự quản lý của thực dân Anh, một cô gái mặc bộ đồ rách rưới chạy xuyên qua những ngọn lửa cháy hừng hực trên đường phố để tìm chiếc lưỡi câu đã đánh mất.
Vào một khoảnh khắc nào đó, tôi chợt nhìn thấy cha mẹ cậu ấy, George, Martha, Lyle mất tích đã lâu cùng với tôi thoáng hiện lên trong những mẩu chuyện ấy.
Giống như cách cậu ấy đã tự đối xử với chính mình, cậu ấy đập vỡ chúng tôi rồi lại tạo thành hình, sáng tạo nên một quy luật mới giữa thế giới hỗn loạn mất trật tự này.
Đây chính là cách Alex nhìn nhận thế giới.”
“Trên bàn đánh máy đặt một quyển Con diều của Agnes đã được tái bản, giấy gói hàng đã bị xé đi một nửa, tôi tháo nốt phần còn lại rồi lấy quyển sách ra.
Trong hình vẽ của cô Simmons có một con quạ đen cùng với bộ xương cao gầy, trông rất buồn bã nằm ở góc, giờ thì tôi đã đoán được tại sao Alex lại thích những hình minh họa ấy.
Phía dưới bưu kiện còn có một xấp bản thảo khác, không dày, chỉ khoảng mười trang nhưng được đóng gáy đàng hoàng, ở lề sách có chữ viết của Alex, đây chắc chắn là câu chuyện mà cậu ấy coi trọng nhất hiện tại, bởi vì chỉ có như vậy, cậu ấy mới sắp xếp tập bản thảo ấy gọn gàng đến thế.
Đúng vậy, cậu Rivers, cậu đoán đúng rồi, đó chính là bản thảo của Mùa hè bất tận, chẳng qua lúc đó nó chưa có cái tên ấy, đề mục chỉ đơn giản là Mùa hè.
Tôi nhìn thấy tên của mình, câu mở đầu chính là Sinh mạng của Harry Prudence bắt đầu từ một viên đá vụn trên con đường hệt như không có điểm cuối.
Tay tôi bắt đầu run, tôi không thể không ngồi xuống mới có thể đọc hết mười mấy trang vẫn chưa viết xong ấy.
Sau đó, tôi đặt bản thảo lại chỗ cũ, vào phòng tắm rửa mặt.”
Prudence thở dài.
“Tôi không thể ở lại Oxford mãi, chủ bút rất có kiên nhẫn nhưng sự kiên nhẫn ấy cũng có hạn.
Tôi không thể chậm trễ hơn nữa, phải trở về Bonn.
Ôm một tia hy vọng mong manh, cuối cùng tôi đi đến Puffins and Tridents, chủ quán bảo rằng Alex đã không đến đây khoảng hai tháng.
Tôi hỏi ông ấy rằng tôi có thể đến ngồi tại bàn mà Alex vẫn thường hay ngồi một chút được không, ông ấy nói cứ tự nhiên.
Tôi gọi một ly bia đen, đi vòng qua cầu thang, ngồi xuống chiếc bàn đặt cạnh cửa sổ hướng ra vườn hoa nhỏ.
Lúc ấy là hơn mười một giờ sáng, sinh viên vẫn chưa tới đây, trong quán rượu rất yên tĩnh, tôi không thể tin lần đầu tiên tôi đến đây đã là chuyện của năm năm trước, thế mà cảm giác vẫn như mới ngày hôm qua.”
“Tôi gửi cho chủ quán một lá thư và trả cho ông năm bảng Anh, nói rằng nếu nhìn thấy Alex thì phiền ông gửi lá thư này cho cậu ấy, bên trong là địa chỉ khách sạn của tôi ở Bonn, Paris và Geneva, ngoài ra còn có số điện thoại riêng của chủ bút, Alex có thể tìm được tôi thông qua ông ấy, đây là cách nhanh nhất.
Vì lý do an toàn, tôi cũng để lại một lá thư được dán kín với nội dung y hệt trong căn hộ số 55 đường Juniper, tôi còn gửi nhờ một lá ở bàn tiếp tân của câu lạc bộ, Martha cũng chép lại một phần địa chỉ, bất kể Alex đang ở đâu, cậu ấy cũng có thể nhận được phương thức liên lạc với tôi.”
“Nhưng từ đầu đến cuối, cậu ấy không hề tìm tôi.
Hoàn toàn im lặng.”
“Tôi quay về Bonn, nơi ở của tôi ở đó là một căn phòng nhỏ trống vắng chỉ khoảng mười chín mét vuông, bên trong chỉ có một chiếc giường đơn, một bộ bàn ghế và một cái bồn rửa tay.
Tuy nhiên tôi rất ít khi ở trong căn phòng ấy, chỉ cần có thể, tôi sẽ ở lại tòa soạn, ở đó có người có ánh đèn, có tiếng chuông điện thoại cùng với tiếng máy đánh chữ có thể khiến tôi thấy dễ chịu hơn một chút.”
“Tôi quyết định giữ lại căn hộ trên đường Juniper, chủ nhà nói với tôi rằng Nam tước đã không còn chi trả cho tiền thuê phòng nữa, vì vậy tôi phải tự mình trả, đó là năm 1957, cậu Rivers ạ, lương của một người phóng viên không hề dư dả.
Tôi trở về London vào dịp lễ Giáng sinh vào một năm nọ, phát hiện Alex đã mang quần áo, máy đánh chữ và bản thảo đi mất, những món đồ thuộc về tôi cũng được đóng gói cẩn thận rồi gửi cho người gác cổng.
Người gác cổng rất vui khi trông thấy tôi, ông trả lại hành lý và mấy tháng tiền thuê nhà cho tôi, nói rằng cậu Loiseau đã rời đi vào tháng mười, cậu ấy bảo với chủ nhà rằng không cần nhận tiền của tôi nữa.
Tôi kéo hành lý ra ngoài, đứng ven đường ngây ngốc hồi lâu, không biết nên đi đâu.
Đêm hôm đó tôi ở lại khách sạn, sáng sớm hôm sau thì ngồi xe lửa đến London để gửi lại hành lý của tôi tại nhà người cha đã lâu không gặp, sau đó tôi mua vé tàu đi qua eo biển Manche để về Bonn.
Có một khoảng thời gian, tôi đã cảm thấy tức giận và rất muốn trả thù như Alex đang nợ tôi một cơ hội giải thích, thế nhưng cuối cùng cơn giận dữ ấy cũng dần biến mất, chỉ còn lại sự trống rỗng như một hố bom.”
Prudence và người phóng viên cùng nhìn lò sưởi, yên lặng một hồi.
“Tôi cứ ngỡ rằng đây chính là hồi kết.
Thế nhưng không phải, đây chỉ là một khoảng nghỉ, câu chuyện giữa tôi và Alex còn xa lắm mới kết thúc.”
Hết phần thứ hai..