Điền Trạch nhớ câu cuối cùng mà Vân Thư Quảng đã nói với mình: “Đừng quay đầu lại, đi mau!”
Vì thế hắn và Điền Tứ che chở lẫn nhau, liên tục chạy về phía thảo nguyên, sợ chậm một bước sẽ phụ lòng nhiều anh hùng hết lòng với vua với nước như vậy.
Nhưng cuối cùng Điền Trạch vẫn không nghe lời Vân Thư Quảng, hắn quay đầu lại.
Hoàng hôn tựa máu, xác chết chất cao như núi trên sa trường.
Điền Trạch nhìn thấy Trung Dũng Hầu hiền lành, dẫn dắt binh lính như thần vẫn cầm mâu sừng sững ở trước trận sau khi binh lính ngã xuống, cả đời giữ một tín niệm, vũ khí bị gãy cũng không thể ngã.
Vị tướng quân sinh ra ở Giang Nam, nửa đời rời xa quê hương để trấn giữ biên cương, luôn có một khí chất và phong cách riêng, mặt mày ẩn chứa sự anh dũng, cứng cỏi, và ấm áp, sau này Điền Trạch chỉ nhìn thấy ở Vân Hy và Vân Lạc.
Điền Trạch và Điền Tứ trở lại thảo nguyên sau khi cửu tử nhất sinh, ngày ngày đến trạm gác chờ tin tức của Trung Dũng quân.
Nhưng mỗi ngày, người ta chỉ mang xác chết từ Sơn Nguyệt Quan về, không có một người sống nào.
Ba vạn Trung Dũng quân, không ai đào ngũ.
Trên thảo nguyên Tái Bắc, không còn bộ lạc Đạt Mãn biết cách bố trí phòng thủ của biên cương Đại Tuy.
Sau đó, xác chết thật sự quá nhiều, không kịp chôn cất, để phòng ngừa bệnh dịch, người trên thảo nguyên đành phải đốt lửa ở đèo Sơn Nguyệt Quan, vẫn không tìm được thi thể của Vân Thư Quảng, coi như hóa thành tro trong biển lửa.
Ngọn lửa ở Sơn Nguyệt Quan cháy mấy ngày, Điền Trạch và Điền Tứ quỳ trên thảo nguyên bấy nhiêu ngày, hai người khóc đến nỗi không thể phát ra âm thanh.
Nhưng con người không thể chìm đắm trong bi thương, phải học cách tự mình thoát ra.
Điền Trạch nhớ lúc mình bị bắt đến bộ lạc Đạt Mãn, Tát Mộc Nhĩ từng nói đùa với hắn một câu: “Ta không muốn giết ngươi, muốn trách thì chỉ có thể trách vị hoàng huynh thông đồng với địch để tranh giành ngôi vị hoàng đế kia.”
Điền Trạch nghĩ, không có ai trong Trung Dũng quân đào ngũ, hắn cũng không thể làm một kẻ đào ngũ.
Hắn nói với Điền Tứ: “Chúng ta không trốn ở Tái Bắc nữa, hầu gia bị kẻ gian làm hại, chúng ta đến Kim Lăng, đi để giải oan cho hầu gia.”
Vì thế vào ngày thất thứ ba của Vân Thư Quảng, Điền Tứ và Điền Trạch thu thập hành lý, thắp nhang trên thảo nguyên, dập đầu lạy ba lần trước nơi nổi gió của đất trời, cúng Vân Thư Quảng và ba vạn linh hồn của các anh hùng xong, sau đó khởi hành đi đến Kim Lăng.
Thật ra mãi đến khi đó, Điền Trạch và Điền Tứ đều không có tên, Điền Trạch kêu Điền Tứ là “A Tứ”, Điền Tứ gọi Điền Trạch là “Điện hạ”.
Nhưng khi bọn họ quỳ trên thảo nguyên, Điền Trạch đột nhiên hỏi Điền Tứ: “A Tứ, ngươi có nghĩ sau khi chúng ta tới Kim Lăng sẽ gọi tên gì chưa?”
Điền Tứ lắc đầu: “Chưa, chưa nghĩ tới.”
Điền Trạch nói: “Hầu gia từng nói với ta, ông có một con trai và một con gái, một người tên là Vân Lạc, một người tên là Vân Hy, cũng trạc tuổi chúng ta.”
“Vân Lạc và Vân Hy đều thuộc hành Thủy.
Chúng ta cũng lấy tên theo hành Thủy đi.”
“Cả đời này, sẽ kính trọng hầu gia như trưởng bối, vĩnh viễn không quên ơn nghĩa của Trung Dũng Hầu phủ.”
Mây (Vân) ở trên trời, ruộng (Điền) ở dưới đất.
Vân Lạc – Vân Hy, Điền Tứ – Điền Trạch.
Ân đức sâu nặng, suốt đời không quên.
Điền Trạch vốn định sau khi tới Kim Lăng, tìm được Vân Lạc và Vân Hy, điều tra ra vị hoàng tử trong cung thông đồng với địch, giải oan cho Trung Dũng Hầu.
Đáng tiếc con đường từ Tái Bắc đến Kim Lăng năm ấy cũng không thuận lợi, bọn họ đụng phải sơn tặc gây rối, sau đó gặp vụ hạn hán ở Hoài Bắc, mỗi đường đi đều hiểm trở.
Tới Hoài Bắc, bọn họ chưa kịp ổn định đã nghe tin Chiêu Viễn làm phản và Vân Lạc tử trận.
Trong đêm tối tĩnh lặng chốn không người, hai thiếu niên nhặt một đoạn xương khô ven đường làm hương, nghiêm túc cúng Vân Lạc.
Bọn họ không tin Chiêu Viễn làm phản là một sự trùng hợp, cũng biết Vân Lạc chết trận nhất định là do kẻ gian làm hại, nhưng họ đã trải qua một hành trình nguy hiểm, đã nhìn thấy cái gọi là lòng người độc ác, cũng hiểu một đạo lý —— hoàng tử hại Vân Thư Quảng và Vân Lạc có quyền lực quá lớn, họ tuyệt đối không thể tùy tiện hành động, nếu không có lẽ chưa đến Kim Lăng đã bị diệt khẩu trước.
Cho dù bọn họ may mắn vào được Tuy Cung, gặp được Chiêu Nguyên Đế, nói rằng mình là Ngũ hoàng tử đã lưu lạc nhiều năm bên ngoài, Chiêu Nguyên Đế sẽ tin hắn hay sao?
Cho dù hắn có thể trình bày oan tình của Trung Dũng Hầu trước mặt Chiêu Nguyên Đế, liệu Chiêu Nguyên Đế có dốc hết sức để xử lý vị hoàng tử thông đồng với địch hay không, dù sao cũng là con của ông, ông sẽ không bao che ư?
Bọn họ không có chứng cứ, không thể làm gì được.
Sau khi Điền Trạch và Điền Tứ suy nghĩ cẩn thận điểm này, bắt đầu lên kế hoạch cẩn thận.
Họ cố tình tiếp cận Trình Diệp, người đến Hoài Bắc để cứu trợ thiên tai, nói rằng mình là dân chạy nạn, dựa vào Trình Diệp, định cư ở Kim Lăng.
Điền Trạch và Điền Tứ đến Kim Lăng, đúng hai tháng sau khi Vân Hy đến Tái Bắc nhặt xác Vân Lạc trở về.
Họ cố gắng hỏi thăm, mới biết Trung Dũng Hầu phủ đã suy tàn vì tội giả mà giống thật của Vân Thư Quảng và Vân Lạc, Vân Hy vì kế sinh nhai, đên Kinh Triệu phủ làm bộ khoái.
Thân phận của Điền Trạch và Điền Tứ nhạy cảm, nếu không cẩn thận, e rằng sẽ mang đến tai họa cho Vân Hy, nhưng con gái của ân nhân lẻ loi một mình, tuy thực lực ít ỏi, họ cũng không thể khoanh tay ngồi yên.
Điền Tứ nói với Điền Trạch: “Điện, điện hạ, sau này thi khoa cử, vào Hình Bộ, tìm kiếm chứng cứ —— cho hầu gia.
A Tứ, sẽ đi theo tiểu thư, chăm, chăm sóc cho tiểu thư, bảo vệ, tiểu thư.”
Điền Trạch nói: “Được, một ngày nào đó, Trung Dũng Hầu phủ được giải tội, chúng ta sẽ cùng nhau trở lại Tái Bắc, canh giữ nơi chôn hầu gia ở Sơn Nguyệt Quan, ở với chú câm.”
Năm ấy mùa hè ở Kim Lăng nóng bức khó chịu, Điền Tứ đi theo Vân Hy làm nha sai được nửa tháng, Bạch thúc và Bạch thẩm cùng đổ bệnh, Vân Hy đang sứt đầu mẻ trán thì nghe có người gõ cửa bên ngoài phủ.
Hóa ra là Điền Tứ tới tìm nàng.
Bên cạnh Điền Tứ là một công tử mặc áo cũ, trông sạch sẽ tự nhiên, mặt mày như non nước xa xa, vừa nhìn đã thấy khí chất hơn người.
Vân Hy biết, Điền Tứ có một đệ đệ đang thi khoa cử.
Điền Trạch chắp tay chào Vân Hy: “Tại hạ họ Điền, tên Trạch, tên tự là ——”
Hắn dừng một chút, nhớ Vân Thư Quảng từng nói: “Thái Tử điện hạ hy vọng điện hạ được bình an, cho nên bảo thần tới tìm điện hạ, thần cũng hy vọng điện hạ bình an.”
“Tên tự là Vọng An.”
……
Vân Hy đứng giữa các cấm vệ trên núi Bình Nam, sững sờ lắng nghe Điền Trạch, chậm rãi nhớ tới 5 năm trước, lúc Điền Tứ mới tới Kinh Triệu phủ, khăng khăng đòi làm nha sai.
Đám võ vệ trong nha môn thấy hắn da trắng môi xinh, suốt ngày bắt nạt hắn.
Vân Hy thấy hắn đáng thương, có lần khuyên hắn: “Ngươi biết chữ, ở trong nha môn làm tiên sinh chép sách tốt hơn, tiền công nhiều, lại không bị coi khinh.”
Điền Tứ nâng tay áo lau vết bẩn trên mặt, cười nói với nàng: “Trong nhà, trong nhà có đệ đệ, thi khoa cử.
Làm nha sai, tiền công càng, càng nhiều, nha môn cho ăn cơm.”
Vân Hy nghi ngờ, nếu tính như vậy, tiền công làm nha sai thật sự nhiều hơn hay sao?
Thôi, nàng không biết người khác sống thế nào, cho nên không nghĩ nữa.
Điền Tứ hỏi: “Vân bộ khoái, ta, ta sau này có thể đi theo ngài không?”
“Ta không biết võ công, nhưng ta, ta có thể học, khi nào học giỏi, sau này, ta sẽ đi theo bên cạnh ngài, bảo vệ cho ngài.”
Bệnh của Bạch thúc và Bạch thẩm lần lượt tái phát, hầu phủ loạn túi bụi.
Ngoài cửa phủ, một thư sinh sạch sẽ tự nhiên tới mượn bút mực.
Lúc gần đi, thấy Bạch Linh cầm một toa thuốc ủ ê mặt mày nên nói: “Toa thuốc đã có sẵn, để tại hạ giúp bốc thuốc.”
Khi Điền Trạch giao thuốc của cả tháng cho Vân Hy, không lấy bạc của Vân Hy, hắn nói: “Không cần, nếu không nhờ Vân bộ khoái chịu nhận, e rằng huynh trưởng không thể tìm được việc ở Kinh Triệu phủ.
Trung Dũng Hầu phủ có ơn với chúng ta, số thuốc này coi như tại hạ cảm tạ hầu phủ.”
“Vân bộ khoái đừng khách sáo, tại hạ không tốn bạc, chẳng qua đã đồng ý sao một tháng thuốc cho chưởng quầy của tiệm thuốc.”
“A Đinh ngài, ngài đừng khách sáo, ta, ta —— chỉ giúp việc vặt mà thôi.”
“Vân giáo úy không cần đa lễ, đây không phải là lần đầu tiên tại hạ chăm sóc cho Bạch thúc, lần trước mượn sách của thiếu tướng quân, tại hạ còn chưa trả lại.”
“A Đinh, ta, ta không muốn làm nha sai, ngài đến doanh trại Tây Sơn, làm, làm giáo úy, ta, ta muốn, đi theo ngài.”
“Vọng An ôn bài vở ở Kim Lăng, không có gì cần huynh trưởng chăm sóc.
Khoa cử phải học tập gian khổ suốt mười năm, đậu hay không, cũng không phải lúc này.
Ngược lại lần này Vân tướng quân xuất chinh đến Lĩnh Nam, rất nhiều gian nan, sa trường tràn ngập nguy hiểm, để huynh trưởng đi theo tướng quân, ít nhất cũng có một người đáng tin cậy.”
……
Lúc này Vân Hy mới hiểu, thảo nào được hai huynh đệ Điền thị ủng hộ suốt thời gian khó khăn nhất năm đó.
Khó trách mấy năm nay Điền Tứ đều đặt nàng lên hàng đầu, trận chiến ở Lĩnh Nam rất khó khăn, vài lần gặp nạn đều do hắn liều mạng bảo vệ.
Khó trách khi vụ án Vân Lạc đánh cắp bản đồ phòng thủ đến tai Chiêu Nguyên Đế, Điền Trạch thà rằng mình bị phạt, chịu đánh hai mươi gậy, cũng muốn gánh tội thay Vân Lạc.
Hóa ra là do phụ thân gieo nhân ở Tái Bắc năm đó, cuối cùng đổi lấy thiện quả.
Vân Thư Quảng nhận lệnh của cố Thái Tử đến Tái Bắc tìm Điền Trạch, cố Thái Tử nói với Vân Thư Quảng lời cuối: “Hầu gia, bổn cung nói thật với ngươi, thân thể của bổn cung, không được nữa.”
“Lão tứ ngu ngốc, tuy lão tam thông minh, nhưng mấy năm nay hắn bị phụ hoàng ghẻ lạnh, chỉ sợ có oán hận trong lòng.
Nếu hắn hành động cực đoan, tâm không ổn, sẽ dễ dàng lạc lối, lão lục…… còn quá nhỏ.”
“Thật ra lão ngũ, bổn cung từng gặp một lần ở chùa Minh Ẩn.
Khi đó hắn học một ít y thuật từ lão thái giám chăm sóc hắn, mang theo tiểu thái giám, chữa trị vết thương cho chú chim nhỏ rơi từ trên cây xuống.
Lúc ấy hắn còn nhỏ, đại khái không nhớ rõ việc này.
Bổn cung cảm thấy hắn nhân đức, cũng hy vọng hắn nhân đức, mong hắn nhân đức.
Ngươi đến Tái Bắc, tìm được hắn, vì giang sơn này, hãy tìm một vị quân vương thật sự nhân từ và bao dung.”
Sau đó Vân Thư Quảng tới Tái Bắc, trước khi chiến sự diễn ra sục sôi, đã nói những lời này với Điền Trạch: “Chúng ta mang binh đi đánh giặc, bảo vệ quốc gia, bảo vệ người dân, không phải bảo vệ quyền lực cho người nào cả.
Nhưng Thái Tử điện hạ nhân đức, ta ghi nhớ trong lòng.
Có lần Trung Dũng quân thiếu lương thực, nếu không nhời hắn dốc hết sức để tìm kiếm, e rằng thảo nguyên sẽ gặp kiếp nạn lớn.
Hắn nhân từ và lương thiện bẩm sinh, người mà hắn coi trọng, tất nhiên cũng có đức hạnh trong sáng.
Tuy rằng ta không bảo vệ cho quyền lực của ai, nếu có thể tìm một người chủ anh minh cho thiên hạ, cũng coi như làm một chuyện tốt cho quốc gia và người dân mà ta bảo vệ.”
Sau khi thuật lại chuyện năm đó, Điền Trạch quỳ trên đường núi, vái lạy Chiêu Nguyên Đế lần nữa: “Phụ hoàng có biết vì sao Lăng Vương khởi binh hôm nay không?”
“Vì hắn biết, phụ hoàng cố ý truyền ngôi cho nhi thần.
Sau khi nhi thần lên ngôi, tất nhiên sẽ giết hắn vì nỗi hận năm đó ở Tái Bắc, cho nên hắn cùng đường, không thể không giương cờ mưu phản.”
“Không phải phụ hoàng thường hỏi nhi thần, mấy năm nay đã ở Kim Lăng, vì sao không chịu về cung, không chịu nhận cha con với phụ hoàng?”
“Bởi vì nhi thần biết, một khi trở lại thân phận của hoàng tử, hành động sẽ bó tay bó chân, chưa kịp tìm bằng chứng Lăng Vương thông đồng với địch, có lẽ đã bị lộ thân phận và bị hắn diệt khẩu.”
“Bởi vì nhi thần biết, cho dù làm hoàng tử, phụ hoàng vẫn sẽ bao che cho Lăng Vương nếu phụ hoàng có ý định đó, cho nên mặc dù trở lại cung, phụ hoàng sẽ không cho nhi thần cơ hội để bày tỏ nỗi oan năm đó của Trung Dũng Hầu.”
“Bởi vì nhi thần, không muốn làm Thái Tử, không muốn làm hoàng đế.”
“Nhưng hiện tại, nhi thần đổi ý.”
“Hầu gia từng nói muốn tìm một người chủ anh minh cho thiên hạ, nếu nhi thần có thể trở thành một người chủ anh minh như vậy, nhi thần sẵn sàng cố gắng cả đời này.”
“Bởi vì mạng sống của nhi thần được đánh đổi bởi linh hồn anh hùng của hầu gia và ba vạn tướng sĩ Tái Bắc.”
“Phụ hoàng bảo nhi thần che chở bốn bể, gây dựng thái bình.
Nhi thần muốn hỏi, che chở bốn bể như thế nào, gây dựng thái bình như thế nào?”
Hắn quỳ thẳng người: “Nhi thần đã tìm ra nhân chứng của trận chiến Tái Bắc năm đó, ở ngay chỗ này, đó là nhi thần và A Tứ.”
“Hôm nay nhi thần cũng tìm ra nhân chứng đến giúp vua ở núi Bình Nam, đó là tất cả những người ở núi Bình Nam, mỗi một người đều là tai thính mắt sáng, lòng mang công lý.”
“Phụ hoàng cho nhi thần làm trữ quân, kế thừa giang sơn.”
“Nhưng quân mà bất nhân bất nghĩa, trở thành quân làm gì?”
“Nhi thần cầu xin phụ hoàng, trả lại công bằng cho Trung Dũng Vân thị, thông báo cho thiên hạ biết tội ác của Lăng Vương, để an ủi linh hồn trung thành của các tướng sĩ.”
Mây trắng chìm nổi phía chân trời, gió mát lượn lờ quanh núi, dưới đất vàng, mai táng vô số sinh linh anh dũng mà cả trăm ngàn năm tới cũng không đếm hết.
Mây ở trên trời, ruộng ở dưới đất, cơn gió mênh mang bồi hồi ở giữa.
Khoảnh khắc Điền Trạch cúi người xuống, Tông Thân Vương, lão thái quân, Trình Sưởng, Trình Diệp, Bùi Lan, Vệ Giới, cùng với rất nhiều tông thất và triều thần, những người hiểu rõ nhân quả, vẫn còn công lý trong lòng, cũng cho rằng công lý cao hơn trời đất, cao hơn người nắm quyền lực tối cao, vái lạy Chiêu Nguyên Đế: “Xin bệ hạ trả lại công bằng cho Trung Dũng Vân thị, thông báo cho thiên hạ biết tội ác của Lăng Vương, để an ủi linh hồn trung thành của các tướng sĩ ——”.