Một khâu trong quá trình thay đổi diện mạo của mình
Ngày Chủ nhật, gió đã ngừng thổi. Trái với đêm hôm trước, đó là một ngày ấm áp thanh bình. Mọi người cởi bỏ áo khoác ngoài nặng nề, thoải mái hưởng thụ ánh nắng. Tuy vậy, Aomame không hưởng thụ thời tiết bên ngoài, nàng ở cả ngày trong căn phòng kéo rèm kín mít, như thường lệ.
Nàng nghe bản Sinfonietta của Janáček với âm lượng nhỏ trong khi làm các động tác co giãn cơ bắp, rồi dùng máy tập thực hiện các bài tập sức bền. Để hoàn thành các bài tập mà mỗi ngày lại được bổ sung thêm, nàng mất gần hai tiếng đồng hồ. Sau đó nàng nấu ăn, quét dọn nhà cửa, ngồi rên sofa đọc Đi tìm thời gian đã mất. Rốt cuộc, nàng cũng đọc đến Bên phía nhà Guermantes[1]. Nàng cố gắng để mình không lúc nào ngơi tay. Khi xem ti vi, nàng chỉ xem chương trình thời sự lúc giữa trưa và bảy giờ tối của đài NHK. Như mọi khi, không có tin tức gì quan trọng. Không, cũng có. Khắp nơi trên thế giới đều có người chết, đa phần là những cái chết bi thảm. Tàu hỏa đâm nhau, đắm tàu, tai nạn máy bay. Có những cuộc nội chiến kéo dài không dứt, có ám sát, có những cuộc thảm sát khủng khiếp giữa các dân tộc. Có cả hạn hán, lũ lụt, mất mùa do biến đổi khí hậu gây nên. Tự đáy lòng, Aomame cảm thông sâu sắc với những con người bị cuốn vào bi kịch và thảm họa ấy. Nhưng chuyện gì ra chuyện đó, trước mắt vẫn chưa xảy ra chuyện gì có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến nàng.
[1] Tập thứ ba của bộ Đi tìm thời gian đã mất.
Trong sân chơi bên kia đường, lũ trẻ con gần đấy đang chơi đùa, hò hét gì đó. Lũ quạ đen đậu trên nóc nhà như đang gọi nhau, kêu những tiếng lanh lảnh vọng vào qua cửa sổ. Trong không khí có mùi của thành phố những ngày chớm đông.
Ngay sau đó nàng chợt nhận ra, từ khi vào ở trong căn hộ này, nàng chưa một lần cảm thấy ham muốn tình dục. Nàng không muốn làm tình với người khác, cũng không tự thủ dâm lần nào. Có lẽ vì nàng mang thai nên hoóc môn trong cơ thể thay đổi. Dẫu sao, với Aomame, đây là chuyện đáng mừng. Ở hoàn cảnh của nàng bây giờ nếu có ham muốn cũng không thể tìm được đâu ra. Nàng cũng mừng rằng đã hàng tháng nay nàng không có kinh nữa. Kỳ kinh nguyệt của nàng chưa bao giờ nặng nề, nhưng dù sao nàng cũng có cảm giác như thể trút được gánh nặng đã mang trên mình suốt bao năm tháng. Ít nhất cũng bớt đi một chuyện cần phải nghĩ.
Trong ba tháng, tóc nàng đã dài ra nhiều. Hồi tháng Chín tóc mới chạm vai, giờ đã xuống đến xương bả vai rồi. Hồi nhỏ, mẹ nàng luôn cắt cho nàng kiểu tóc búp bê ngắn củn, còn từ hồi lên trung học, cuộc sống của nàng lại luôn xoay quanh thể dục thể thao, nên Aomame cũng chưa bao giờ để tóc dài. Tuy nàng thấy tóc mình cũng hơi dài thật, nhưng tự cắt thì rất khó, nên đành để mặc thế, chỉ dùng kéo tỉa chỗ tóc lòa xòa trước trán cho gọn lại. Ban ngày nàng búi tóc lên, tối thì buông xõa, sau đó vừa nghe nhạc vừa cầm lược chải tóc một trăm lần. Nếu không dư dả thời gian, nàng không thể nào làm được việc ấy.
Aomame vốn đã không hay trang điểm, nay cả ngày nhốt mình trong phòng thế này, chuyện đó lại càng không cần thiết. Mặc dù vậy, để cuộc sống ít nhiều vẫn duy trì một trình tự nhất định, nàng chăm sóc da rất cẩn thận. Nàng mát xa da với kem và lotion, luôn đắp mặt nạ trước khi đi ngủ. Aomame vốn đã rất khỏe mạnh, chỉ cần để tâm chăm sóc một chút là làn da sẽ trở nên mịn màng trơn bóng. Không, có lẽ là do mang thai. Hồi trước nàng có nghe nói, khi mang thai, da sẽ trở nên đẹp hơn. Tóm lại, khi xõa tóc ngồi ngắm gương mặt mình trước gương, nàng cảm thấy mình đẹp hơn trước. Ít nhất là đã toát lên vẻ trầm tĩnh tự nhiên của người phụ nữ trưởng thành. Đại khái là vậy.
Aomamae chưa bao giờ cảm thấy mình xinh đẹp. Từ nhỏ, nàng chưa một lần được người khác khen là xinh đẹp. Mẹ thì rõ là luôn coi nàng như một đứa bé xấu xí. “Nếu mà con xinh đẹp hơn…” là câu cửa miệng của bà. Ý bà là, giá Aomame xinh hơn một chút, đáng yêu hơn một chút thì chắc chắn đã khuyên dụ được nhiều người gia nhập hội Chứng nhân Jehovah hơn. Vì vậy, từ bé tí, Aomame đã cố tránh không soi gương. Những lúc bắt buộc, nàng mới quáng quàng đứng trước gương, nhanh chóng kiểm tra một lượt cho xong, vậy thôi.
Otsuka Tamaki nói cô thích dung mạo của Aomame. Không xấu chút nào, được lắm mà, cô thường nói như thế. Chẳng sao hết, chỉ cần tự tin là được. Nghe bạn mình nói thế, Aomame rất vui. Aomame khi đó vừa bước vào tuổi dậy thì, những lời nói ấm áp của bạn khiến nàng ổn định và yên tâm hơn nhiều. Nàng thậm chí còn nghĩ, có lẽ mình không xấu như mẹ vẫn phàn nàn cả ngày. Nhưng kể cả Otsuka Tamaki cũng chưa một lần khen nàng xinh đẹp.
Thế nhưng, lần đầu tiên từ cha xinh mẹ đẻ đến giờ, Aomame cảm thấy gương mặt mình không chừng cũng có nét đẹp. Nàng ngồi trước gương lâu hơn mọi lần, quan sát kỹ lưỡng gương mặt mình. Không có chút gì là tự yêu bản thân trong hành động đó. Aomame chỉ như đang quan sát một người khác, xem xét gương mặt phản chiếu trong gương từ các góc độ khác nhau. Nàng trở nên đẹp thật, hay dung mạo không thay đổi gì, chỉ là cảm giác của nàng lúc nhìn nó đã thay đổi thôi? Aomame không xác định được.
Thỉnh thoảng, Aomame lại nhăn mặt trước gương. Gương mặt khi nhăn lại của nàng không khác gì trước đây. Các cơ trên mặt giãn ra theo mọi hướng, gương mặt nàng như thể bị chia năm xẻ bảy. Mọi cảm xúc trên thế gian này đều phun trào ra từ đó. Nó không còn xấu hay đẹp nữa. Từ góc độ này mặt nàng trông như quỷ dạ xoa, từ góc khác thì giống như tên hề, từ một góc khác nữa lại giống như một góc hỗn độn. Khi nàng ngừng nhăn mặt, tựa hồ như gợn sóng trên mặt nước dần dần lắng xuống, các cơ từ từ thả lỏng, khôi phục lại trạng thái ban đầu. Và sau đó, Aomame phát hiện ra một phiên bản mới hơi khác với chính nàng trước đây.
Cậu mỉm cười tự nhiên hơn một chút thì tốt, Otsuka Tamaki thường nói với Aomame như thế. Lúc mỉm cười, nét mặt cậu dịu dàng thế cơ mà, thật tiếc quá. Nhưng trước mặt người khác, Aomame không thể nào cười tự nhiên được. Nếu nàng cố gượng cười thì lại trở thành nụ cười lạnh lùng cứng ngắc, khiến người đối diện thêm căng thẳng và bất an. Ngược lại với nàng, Otsuka Tamaki có thể nở nụ cười tươi tắn một cách hoàn toàn tự nhiên. Ai gặp cô lần đầu đều cảm thấy thân thiết và có thiện cảm với cô ngay. Nhưng cuối cùng, cô lại không thể không tự kết liễu sinh mạng mình trong chán nản và tuyệt vọng, bỏ lại sau lưng Aomame không có khả năng mỉm cười một cách tự nhiên.
Ngày Chủ nhật yên bình. Trước sự mê hoặc của ánh mặt trời ấm áp, rất nhiều người đến sân chơi dành cho trẻ con ở bên kia đường. Bố mẹ cho lũ trẻ chơi đùa trong hố cát hay ngồi bập bênh. Có cả những đứa chơi cầu trượt. Những người cao tuổi ngồi trên ghế băng, ngắm lũ trẻ con chơi đùa không biết chán. Aomame đi ra ban công, ngồi xuống ghế, hờ hững quan sát khung cảnh ấy qua khe hở của tấm mành mành bằng nhựa. Một cảnh tượng thanh bình. Thế giới đang tiến về phía trước một cách thông thuận. Không ai bị uy hiếp tính mạng, không ai đi truy bắt kẻ giết người. Không ai nhét súng lục tự động nạp đầy đạn 9 ly trong quần bò hay giấu trong ngăn kéo tủ quần áo.
Một ngày nào đó mình cũng sẽ trở thành một phần của thế giới tĩnh lặng, bình thường ấy? Aomame tự hỏi. Một ngày nào đó mình cũng có thể dắt thứ bé nhỏ này vào sân chơi, chơi bập bênh, trượt cầu trượt? Có thể sống cuộc đời an nhàn thoải mái, không cần nghĩ đến chuyện giết người khác và bị người khác truy giết? Điều này có thể xảy ra trong những năm 1Q84 này hay không? Hay nó chỉ tồn tại trong một thế giới nào đó khác? Quan trọng nhất là, lúc đó Tengo có ở bên cạnh mình hay không?
Aomame không quan sát công viên nữa, nàng quay vào, đóng cửa kính lại, kéo rèm cửa xuống. Không nghe thấy tiếng cười đùa của lũ trẻ con nữa. Một nỗi buồn thoang thoảng phủ lấy trái tim nàng. Nàng chỉ có một mình lẻ loi, bị nhốt ở một nơi khóa chặt từ bên trong. Từ nay không quan sát sân chơi vào ban ngày nữa, Aomame nghĩ. Tengo sẽ không đến công viên vào ban ngày. Thứ anh muốn tìm là hình ảnh rõ nét của hai mặt trăng.
Sau khi ăn bữa tối và rửa bát, Aomame mặc áo ấm đi ra ban công. Nàng đắp chăn lên đùi, ngả người xuống ghế. Tối nay không có gió. Những đám mây thuộc kiểu mà các họa sĩ màu nước hẳn sẽ thích lững lờ trôi trên bầu trời, tựa như nét mẫu để kiểm tra độ tinh tế nơi nét cọ của người họa sĩ. Mặt trăng lớn tròn chừng hai phần ba không bị mây che khuất, tuôn ánh sáng xuống mặt đất. Lúc này, từ vị trí đang ngồi Aomame không nhìn thấy mặt trăng thứ hai, nó bị chắn phía sau một tòa nhà. Nhưng Aomame biết, nó ở đó. Nàng cảm nhận được sự tồn tại của nó. Không bao lâu nữa, nó sẽ lại xuất hiện trước mắt nàng.
Từ lúc ẩn trốn trong căn hộ này, Aomame đã tập được cách đẩy suy nghĩ ra khỏi đầu mình nếu muốn. Đặc biệt là những lúc ngồi ngoài ban công ngóng nhìn sân chơi đối diện, nàng có thể dễ dàng khiến tâm trí mình trống rỗng. Mắt nàng chăm chú không ngơi nghỉ giám sát sân chơi, đặc biệt là chỗ cầu trượt, nhưng trong đầu không nghĩ ngợi gì. Không, có lẽ là ý thức đang nghĩ gì đó, nhưng đã bị dìm xuống bên dưới mặt nước rồi. Nàng không biết ý thức của mình đang làm gì bên dưới ấy. Nhưng rồi có cái gì đó định kỳ trồi lên. Giống như rùa biển và cá heo, cứ đến giờ là phải trồi lên mặt nước để thở. Những lúc như thế, nàng sẽ biết trước đó mình nghĩ gì. Không lâu sau, ý thức của nàng, với hai buồng phổi đầy ắp dưỡng khí tươi mới, lại chìm xuống nước mất tăm, và Aomame lại không nghĩ ngợi gì. Nàng biến thành một thiết bị giám sát bọc trong kén tằm mềm mại, hướng ánh mắt không gợn chút tạp niệm về phía cái cầu trượt.
Nàng nhìn sân chơi, nhưng đồng thời cũng không nhìn gì cả. Chỉ cần có sự vật mới xuất hiện trong tầm quan sát, ý thức của nàng sẽ lập tức phản ứng. Nhưng lúc này không có gì xảy ra hết. Không có gió. Những nhánh cây sồi đen sì như đầu kim thăm dò vươn khắp bầu trời cũng không nhúc nhích. Thế giới đã hoàn toàn dừng lại. Nàng nhìn đồng hồ. Mới hơn tám giờ. Hôm nay rất có thể lại không thu được kết quả gì, cũng như mọi ngày. Một tối cuối tuần tĩnh mịch tột cùng.
Thế giới kết thúc trạng thái đứng yên ấy vào lúc tám giờ hai mươi ba phút.
Nàng chợt nhận ra trên cầu trượt có một người đàn ông. Người ấy ngồi đó, ngước nhìn một góc bầu trời. Tim Aomame chợt thắt lại, thu nhỏ chỉ còn bằng nắm đấm của đứa trẻ con. Nó giữ nguyên trạng thái thu nhỏ ấy một hồi lâu, khiến nàng lo không biết liệu nó có vĩnh viễn ngừng đập không. Sau đó mới lại phình lên, trở về kích cỡ bình thường, bắt đầu đập trở lại. Phát ra một tiếng động khô khốc, nó bơm luồng máu mới đi khắp cơ thể với một lực điên cuồng. Ý thức của Aomame cũng cấp tốc trồi lên mặt nước, rũ mình, vươn thẳng, sẵn sàng hành động.
Tengo! Aomame nghĩ theo bản năng.
Nhưng khi tầm nhìn ổn định lại, nàng hiểu ra đó không phải Tengo. Người kia lùn như một đứa trẻ, với cái đầu to tướng vuông vức, đội mũ len. Cái mũ cũng theo hình dạng cái đầu mà trở nên quái đản. Y quấn một chiếc khăn màu xanh lục quanh cổ, mặc áo khoác xanh sẫm. Chiếc khăn quá dài, phần bụng áo khoác gồ lên, cúc áo cơ hồ sắp bật tung ra. Aomame biết đây chính là “đứa trẻ” mà tối qua nàng thấy đang đi ra khỏi sân chơi. Thực ra y không phải trẻ con, mà là người đàn ông trưởng thành, có lẽ gần đến tuổi trung niên. Dáng y vừa lùn vừa béo, tay chân ngắn ngủn, cái đầu to đến dị thường, hình thù kỳ quặc.
Aomame đột nhiên nhớ đến gã “búp bê đầu to” mà Tamaru nói đến trong điện thoại. Cái kẻ đã lởn vởn quanh biệt thự ở Azabu, hỏi dò tình hình của trung tâm bảo trợ. Người đàn ông trên cầu trượt kia có vẻ ngoài vừa hay giống hệt như Tamaru miêu tả trong điện thoại tối hôm trước. Thằng cha đáng sợ này sau đó vẫn tiếp tục kiên trì điều tra, và đã mon men đến gần nàng. Phải đi lấy súng! Sao lại thế được? Đúng tối hôm nay thì lại để súng trong phòng ngủ quên không mang theo. Nhưng nàng hít thở thật sâu, để cho sự hỗn loạn trong lòng lắng xuống, thần kinh bình tĩnh trở lại. Không, không cần phải cuống lên. Vẫn chưa đến lúc cần đến súng.
Xét cho cùng, không phải y đang quan sát khu chung cư Aomame đang ở. Y ngồi trên đỉnh cầu trượt, tư thế giống hệt như Tengo, ngẩng nhìn một góc trời, như đang chìm dần trong suy tư. Y ngồi bất động một lúc lâu, dường như đã quên mất phải làm sao để cử động cơ thể, hoàn toàn không hề chú ý đến căn hộ của Aomame. Aomame lấy làm nghi hoặc. Rốt cuộc là sao vậy? Thằng cha này đến đây để truy lùng mình. Có lẽ hắn là người của giáo đoàn, rõ ràng là một kẻ truy lùng rất cừ khôi. Hắn có thể truy từ biệt thự Cây Liễu ở Azabu đến tận đây mà. Nhưng lúc này hắn lại ngồi ngước nhìn bầu trời đêm tựa như quên hết mọi thứ khác, không cảnh giác, không ẩn giấu.
Aomame rón rén đứng lên, hé cửa kính ra một chút, lách vào trong nhà, ngồi xuống trước điện thoại. Sau đó, nàng giơ ngón tay run run bắt đầu bấm nút. Nàng cần báo chuyện này với Tamaru. Búp bê đầu to lúc này đang ở một nơi có thể nhìn thấy từ căn hộ của nàng, ở trên cái cầu trượt trong sân chơi dành cho trẻ con ở bên kia đường. Tamaru sẽ quyết định cần phải làm gì, và nhất định sẽ xử lý một cách thỏa đáng. Nhưng sau khi bấm bốn số đầu tiên, ngón tay Aomame ngừng lại. Ống nghe nắm chặt trên tay, nàng cắn môi.
Vẫn còn quá sớm, Aomame nghĩ. Vẫn còn quá nhiều điều chưa biết về gã đàn ông này. Nếu Tamaru coi hắn là một nhân tố nguy hiểm rồi xử lý gọn ghẽ, thì những điều chưa biết sẽ mãi mãi là những điều chưa biết. Nghĩ kỹ lại, thằng cha này lập lại y hệt hành động của Tengo hôm trước. Cùng một cầu trượt, cùng một tư thế, cùng một góc độ trên bầu trời. Giống như hắn đang tái hiện hành vi của Tengo vậy. Hắn ta chắc chắn cũng đã trông thấy hai mặt trăng kia rồi. Aomame hiểu ra. Nếu vậy, thằng cha này chắc chắn có quan hệ gì đó với Tengo.
Và có thể hắn còn chưa phát hiện ra mình đang lẩn trốn trong khu chung cư này, nên mới không đề phòng gì mà xây lưng lại phía này. Càng nghĩ, Aomame càng thấy giả định này có sức thuyết phục. Nếu là thế, chỉ cần biết được hành tung của y, có lẽ mình sẽ tìm được Tengo. Vì thằng cha này sẽ dẫn đường cho mình. Nghĩ tới đây, nhịp tim nàng liền trở nên kiên định hơn, nhanh hơn. Nàng đặt ống nghe xuống.
Sau này hẵng báo cho Tamaru¸ nàng hạ quyết tâm. Trước đó nàng còn việc phải làm. Tất nhiên là nguy hiểm – dẫu sao cũng là kẻ bị truy lùng bám đuôi theo kẻ truy lùng. Huống hồ đối phương chắc chắn là chuyên gia về những món này. Dẫu vậy, Aomame không thể bỏ qua đầu mối quan trọng như vậy được. Có lẽ đây là cơ hội cuối cùng của mình. Mà thằng cha kia trông vẻ như đang rơi vào trạng thái ngơ ngẩn, ít nhất là trong lúc này.
Nàng rảo nhanh chân vào phòng ngủ, kéo ngăn kéo tủ quần áo, lấy khẩu Heckler & Koch ra, mở chốt an toàn, đẩy đạn lên nòng làm phát ra âm thanh khô khốc, rồi khóa chốt lại. Nàng nhét khẩu súng vào sau lưng quần bò, quay lại ban công. Búp bê đầu to vẫn giữ nguyên tư thế ấy ngước nhìn bầu trời. Cái đầu to tướng quái dị này của y không nhúc nhích. Dường như y đã hoàn toàn bị thứ ở góc bầu trời kia hút mất hồn phách. Aomame hiểu được tâm trạng ấy. Đó đích thực là một quang cảnh hút hồn người nhìn thấy nó.
Aomame quay vào trong nhà, mặc áo khoác lông vũ, đội mũ bóng chày, đeo chiếc kính không độ viền đen kiểu dáng đơn giản lên. Chỉ như vậy thôi, ấn tượng về gương mặt nàng đã khác hẳn. Nàng quấn chiếc khăn màu xám quanh cổ, nhét ví tiền và chìa khóa vào túi áo, đi xuống cầu thang, bước ra cửa chung cư. Đế giày thể thao của Aomame lặng lẽ giẫm lên mặt đường rải nhựa. Đã lâu lắm rồi nàng không thấy dưới chân mình vững chãi và chắc chắn như thế, cảm giác ấy cổ vũ nàng dấn bước.
Aomame vừa đi vừa kiểm tra cho chắc Búp bê đầu to vẫn đang ở chỗ đó. Sau khi mặt trời lặn, nhiệt độ đã giảm hẳn xuống nhưng vẫn không có gió. Có thể nói trời lạnh một cách dễ chịu. Aomame thở ra một làn hơi trắng, rón rén bước nhẹ, giả bộ như không có chuyện gì, đi ngang qua phía trước sân chơi. Búp bê đầu to không hề chú ý đến nàng. Ánh mắt y kéo thẳng một đường từ đỉnh cầu trượt lên bầu trời. Từ vị trí của Aomame thì không thể nhìn thấy, nhưng nơi đầu mút ánh mắt của y chắc chắn có hai mặt trăng một lớn một nhỏ. Chắc chắn chúng đang cùng rúc vào gần nhau trên bầu trời lạnh cóng, không một gợn mây kia.
Aomame đi qua sân chơi, đến góc phố đầu tiên thì rẽ phải, vòng ngược trở lại. Sau đó, nàng nấp trong bóng tối, quan sát người đàn ông trên cầu trượt. Khẩu súng lục áp sau lưng nàng nghe lạnh và cứng như cái chết. Nó làm cơn hưng phấn thần kinh của nàng dịu xuống.
Nàng đợi khoảng năm phút. Búp bê đầu to chầm chậm đứng lên, vỗ vỗ bụi bám trên áo khoác, lại ngầng đầu nhìn trời, sau đó chừng như đã hạ quyết tâm, y trèo xuống cầu trượt, đi ra khỏi sân chơi, bước về phía nhà ga. Theo dõi y không phải là việc khó. Buổi tối cuối tuần, trong khu dân cư rất thưa người đi lại, nên dù cách một quãng xa cũng không dễ lạc mất y. Hơn nữa, đối phương không hề nghi ngờ có thể có người đang bám theo mình, nên không hề ngoảnh đầu quan sát phía sau mà cứ đều bước thẳng tiến. Đó là tốc độ bước của người đang mải mê nghĩ ngợi chuyện gì. Đúng là mỉa mai, Aomame nghĩ. Nhược điểm chết người của kẻ theo dõi là ở chỗ hắn không bao giờ nghĩ rằng mình bị theo dõi.
Chỉ thoáng sau, nàng biết Búp bê đầu to không đi về phía ga. Suốt thời gian ở trong căn hộ, Aomame đã xem đi xem lại bản đồ đường phố hai mươi ba quận của Tokyo, ghi nhớ kỹ trong đầu địa hình khu vực quanh nơi nàng ở, để còn biết phương hướng mà xoay xở khi gặp tình thế khẩn cấp. Vì vậy, nàng biết Búp bê đầu to ban đầu đi về phía ga, nhưng giữa đường lại ngoặc sang hướng khác. Nàng còn nhận ra y không quen thuộc khu này lắm. Y dừng lại hai lần ở góc phố, đảo mắt nhìn quanh với vẻ thiếu tự tin, xem lại biển tên phố gắn trên cột điện. Rõ ràng y là người từ nơi khác đến.
Không lâu sau, Búp bê đầu to rảo bước. Aomame đoán y đã quay về khu vực quen thuộc. Quả không sai. Y đi qua trường tiểu học của quận, men theo một con phố không rộng lắm, rồi đi vào một tòa chung cư ba tầng cũ kỹ.
Aomame đợi thêm năm phút sau khi người đàn ông biến mất sau cửa chính tòa nhà. Nàng không muốn đụng đầu gã ở ngay cửa. Phía trên có mái chìa bằng bê tông, một ngọn đèn tròn nhuộm khoảng không gian trước cửa trong ánh sáng vàng vọt. Nàng nhìn khắp nơi nhưng chẳng thấy biển tên của khu chung cư này đâu. Đây có lẽ là một khu nhà vô danh. Đằng nào thì nó xây đã lâu lắm rồi. Nàng ghi nhớ địa chỉ trên cột điện gần đó.
Năm phút trôi qua, Aomame đi về phía cửa chính tòa nhà. Nàng rảo bước đi qua ánh đèn vàng, đẩy cửa. Trong gian sảnh nhỏ không có ai, một không gian trống rỗng, thiếu hơi ấm. Chiếc đén tuýp sắp rụng xuống phát ra những tiếng lẹt xẹt yếu ớt. Không biết từ đâu vẳng ra tiếng ti vi, cả tiếng trẻ con đang nài nỉ mẹ diều gì đó.
Aomame lấy chìa khóa căn hộ của mình trong túi áo lông vũ ra, cầm trên tay đung đưa, để nếu có người bắt gặp thì trông nàng có vẻ là người sống ở đây. Nàng đọc biển tên trên các hòm thư. Có lẽ một trong số đó là tên của Búp bê đầu to. Không thể mong đợi gì nhiều, nhưng cũng đáng để thử một phen. Đây là một tòa nhà nhỏ, người ở không nhiều. Thoáng sau, nàng nhìn thấy trên một hòm thư có đề “Kawana,” thế là trong khoảnh khắc mọi âm thanh tan biến.
Aomame đứng lặng trước hòm thư. Không khí xung quanh trở nên loãng dị thường, nàng không sao hít thở bình thường được nữa. Môi nàng khẽ hé ra, hơi run rẩy. Thời gian cứ vậy trôi. Nàng hiểu rõ đây là hành vi nguy hiểm và ngu xuẩn. Búp bê đầu to ở ngay gần đây, y có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Nhưng nàng không còn sức lực rứt mình khỏi chỗ hòm thư ấy nữa. Tấm biển tên nhỏ xíu đề “Kawana” ấy đã làm tê liệt não nàng, làm đông cứng thân thể nàng.
Tất nhiên không thể nói chắc chắn người họ Kawana này chính là Kawana Tengo. Kawana không phải là một họ phổ biến ở đâu cũng có, nhưng cũng không đến mức hiếm như Aomame. Thế nhưng, nếu đúng như nàng suy đoán, Búp bê đầu to có mối liên hệ nào đấy với Tengo, thì khả năng Kawana này chính là Kawana Tengo rất lớn. Số nhà là 303, vừa khéo lại trùng với số căn hộ nàng đang ở.
Mình nên làm gì bây giờ? Aomame cắn môi. Tâm trí nàng chạy vòng vòng không dứt, không tìm thấy lối thoát. Mình nên làm gì bây giờ? Không thể đứng mãi trước cái hòm thư này được. Định thần lại, Aomame men theo cầu thang xi măng lạnh lẽo lên tầng ba. Mặt sàn tối tăm chi chít những vết nứt li ti ghi dấu những năm tháng đã trôi qua. Đế đôi giày thể thao của nàng phát ra âm thanh kèn kẹt.
Sau đó, Aomame đứng trước cửa căn hộ số 303. Cửa sắt không có gì đặc biệt, nơi ô gắn biển tên có tấm thẻ in chữ “Kawana.” Cũng chỉ có họ. Hai chữ Kanji đó toát lên một vẻ lạnh nhạt và vô cơ lạ lùng. Nhưng đồng thời, chúng cũng hàm chứa một bí ẩn sâu xa. Aomame đứng đó, nghiêng tai lắng nghe, vận dụng mọi giác quan. Nhưng không có âm thanh nào vọng ra từ bên trong cửa, cũng không thể biết trong nhà có sáng đèn hay không. Cạnh cửa có một cái chuông điện.
Aomame hoang mang. Nàng cắn môi ngẫm nghĩ, mình có nên ấn chuông không?
Không khéo đây lại là một cái bẫy được thiết kế công phu. Có lẽ tên Búp bê đầu to kia đang nấp đằng sau cánh cửa, nở nụ cười tàn độc tựa như tên quỷ lùn tà ác trong khu rừng tăm tối, đợi nàng đến. Hắn cố tình lộ mặt trên cầu trượt, dụ mình đến đây hòng tóm gọn. Hắn biết là mình đang tìm Tengo, nên lấy anh ấy ra làm mồi nhử. Một tên bỉ ổi và giảo quyệt, lại nắm được nhược điểm của mình. Đích thị đây là cách duy nhất hắn có thể khiến mình mở cửa từ bên trong.
Aomame kiểm tra xem xung quanh có ai không, rồi rút khẩu súng giắt lưng quần ra, mở chốt an toàn, nhét vào túi áo lông vũ để tiện rút ra bất cứ lúc nào. Tay phải nàng cầm chắc báng súng, ngón trỏ đặt trên cò. Ngón cái của tay trái nàng ấn lên chuông cửa.
Tiếng chuông cửa vang lên trong nhà. Một tiếng kính cong chầm chậm, hoàn toàn không hợp với tiết tấu nhanh gấp của quả tim nàng. Aomame nắm chặt báng súng, đợi cửa mở. Nhưng cửa không mở. Nàng cũng không cảm thấy có người đang nhìn qua lỗ quan sát. Nàng đợi thêm giây lát, rồi ấn chuông lần nữa. Tiếng kính cong lại vang lên. m thanh lớn đến mức gần như khiến tất cả dân cư trong khu Suginami này phải dỏng tai lắng nghe. Tay phải cầm báng súng của Aomame rịn ra một lớp mồ hôi mỏng. Nhưng vẫn không có phản ứng gì.
Giờ tạm thời lánh đi thì hơn, Aomame quyết định. Dù người họ Kawana sống trong căn hộ số 303 này là ai thì anh ta cũng không có nhà. Và trong tòa nhà này có tên Búp bê đầu to bộ dạng chẳng lành kia đang lẩn quất đâu đây. Nấn ná ở đây quá nguy hiểm. Nàng bước nhanh xuống cầu thang, liếc nhìn hòm thư lần nữa, rồi ra khỏi tòa nhà, cúi đầu đi nhanh qua ánh đèn vàng vọt. Ra đến ngoài đường, nàng ngoảnh lại quan sát sau lưng để chắc chắn không có ai theo dõi.
Có nhiều chuyện nàng cần phải nghĩ, và gần như cũng từng ấy chuyện nàng phải đưa ra quyết định. Aomame lần tay vào túi đóng chốt an toàn khẩu súng lại, rồi lách vào một góc khuất, nhét súng vào túi sau quần bò. Không thể hy vọng quá nhiều, Aomame tự cảnh cáo mình. Không thể hy vọng quá nhiều. Người họ Kawana không chừng chính là Tengo, nhưng cũng có thể là không. Một khi đã sinh ra mong đợi, con tim sẽ bắt đầu tự hành động theo ý nó. Ngộ nhỡ hy vọng tan tành, người ta sẽ thất vọng, thất vọng sẽ dẫn đến cảm giác bất lực. Từ đó sẽ xuất hiện kẽ hở, buông lỏng cảnh giác. Đối với mình lúc này, đó là điều tối kỵ.
Không biết Búp bê đầu to kia nắm được bao nhiêu thông tin rồi. Nhưng thực tế là hắn ta đang tiến từng bước một về phía mình, gần đến mức vươn tay là chạm tới. Mình phải cảnh giác cao độ, tuyệt đối không thể buông lỏng. Đối thủ là một tên cực kỳ nguy hiểm, chút sai sót nhỏ cũng có thể phải trả giá bằng tính mạng. Đầu tiên, nhất thiết không được tùy tiện lại gần tòa chung cư cũ kỹ ấy. Chắc chắn hắn ta đang ẩn nấp ở một ngóc ngách trong đó, âm thầm lên kế hoạch tróc nã mình, như con nhện hút máu độc ác đang chăng tơ nơi góc tối.
Về đến nhà, Aomame đã hạ quyết tâm. Con đường nàng nên lựa chọn chỉ có một.
Lúc này nàng ấn số điện thoại của Tamaru một mạch đến số cuối cùng, đợi chuông đổ mười hai lần, rồi gác máy. Sau đó nàng cởi áo ngoài và mũ, cất súng vào ngăn kéo tủ quần áo, uống hai cốc nước. Nàng đổ đầy nước vào ấm, chuẩn bị pha hồng trà, rồi ghé mắt qua khe hở của rèm cửa nhìn sang sân chơi bên kia đường, xác nhận nơi đó không có ai. Aomame quay vào đứng trước gương treo trên bồn rửa mặt, chải đầu. Mười ngón tay nàng vẫn chưa thể hoạt động một cách tự nhiên. Nàng vẫn quá căng thẳng. Lúc nàng đang rót nước sôi vào ấm trà, chuông điện thoại vang lên. Là Tamaru gọi tới.
“Vừa nãy tôi trông thấy Búp bê đầu to,” Aomame nói.
Im lặng.
“Vừa nãy trông thấy, tức là giờ hắn ta không còn ở đó nữa?”
“Đúng,” Aomame nói, “vừa nãy hắn ở trong sân chơi đối diện với khu nhà tôi ở. Giờ thì đã đi rồi.”
“Cô nói vừa nãy là bao lâu rồi?”
“Khoảng bốn mươi phút trước.”
“Tại sao bốn mươi phút trước cô không gọi cho tôi?”
“Tôi phải lập tức bám theo hắn. Thời gian không được dư dật cho lắm.”
Tamaru thở ra như thể đang rít lên. “Cô theo dõi hắn?”
“Tôi không muốn bỏ qua cơ hội này.”
“Tôi đã bảo cô, dù xảy ra chuyện gì cũng không được bước ra khỏi cửa dù chỉ một bước.”
Aomame cẩn thận lựa từ: “Nhưng nguy hiểm đã cận kề, tôi cũng không thể ngồi đó nhìn được. Kể cả có liên lạc với anh, anh cũng không thể lập tức đến nơi. Anh thấy có đúng không?”
Sâu trong cổ họng Tamaru phát ra một âm thanh thấp trầm. “Vì vậy cô đã theo dõi Búp bê đầu to.”
“Hắn ta hình như không hề nghĩ đến chuyện mình sẽ bị người khác theo dõi.”
“Nghề của chuyên gia là giả bộ như thế đấy,” Tamamru nói.
Đúng như Tamaru nói, đó có lẽ là một cái bẫy được sắp xếp khéo léo. Nhưng Aomame không thể thừa nhận điều này với anh ta. “Tất nhiên anh có thể làm được điều đó, nhưng theo tôi thấy, Búp bê đầu to vẫn chưa đạt đến trình độ như anh. Có lẽ hắn khá giỏi, nhưng vẫn còn kém xa anh.”
“Nói không chừng hắn còn có người chi viện.”
“Không đâu. Tên này chắc chắn hoạt động một mình.”
Tamaru ngừng một khoảng ngắn. “Thôi được rồi. Vậy cô đã theo hắn đi đâu?”
Aomame đọc địa chỉ của tòa nhà ấy và tả lại hình dáng bên ngoài cho Tamaru. Nàng không biết tên kia ở phòng nào. Tamaru ghi lại rồi hỏi thêm mấy câu. Aomame cố trả lời càng chính xác càng tốt.
“Lúc cô phát hiện, thằng cha đó đang ở trong sân chơi đối diện với nơi cô ở hả?” Tamaru hỏi.
“Đúng thế.”
“Hắn làm gì ở đó?”
Aomame giải thích, hắn ngồi trên đỉnh cầu trượt, ngước nhìn trời đêm một lúc lâu. Nhưng nàng không đề cập đến chuyện hai mặt trăng.
“Nhìn lên trời?” Tamaru hỏi. m thanh truyền qua ống nghe chứng tỏ tốc độ suy nghĩ của anh ta đã nâng lên một nấc.
“Không phải bầu trời thì là trăng và sao. Tóm lại là những thứ kiểu như vậy.”
“Tự lộ mình trên đỉnh cầu trượt không đề phòng gì.”
“Đúng thế.”
“Cô không cảm thấy kỳ lạ sao?” Tamaru nói, giọng anh ta khô và cứng. Giọng nói ấy khiến nàng nghĩ đến những loài thực vật nhờ vào nước mưa mỗi năm chỉ đổ một ngày mà sống được suốt những ngày còn lại trên sa mạc. “Tên đó muốn dồn cô vào đường cùng, và chỉ còn một bước nữa thôi. Hắn rất lợi hại đấy. Vậy mà hắn lại ngồi trên đỉnh cầu trượt an nhàn nhìn bầu trời đêm đông, không buồn liếc sang phía căn hộ cô ở lấy một lần. Nghe lạ quá.”
“Thì đúng là lạ, tôi cũng nghĩ thế. Nhưng dù thế nào tôi cũng không thể để mặc hắn được.”
Tamaru thở dài. “Nhưng tôi vẫn cảm thấy như thế rất nguy hiểm.”
Aomame không nói gì.
“Cô đi theo dõi hắn rồi có vén ra được chút chân tướng nào hay không?”
“Không.” Aomame trả lời. “Nhưng có một số chuyện khiến tôi lo lắng.”
“Ví dụ như là?”
“Tôi đã kiểm tra các hòm thư ở cửa chính khu nhà ấy, trên tầng ba có một người họ Kawana.”
“Thế thì sao chứ?”
“Anh có biết quyển tiểu thuyết bán chạy tên là Nhộng không khí xuất bản mùa hè năm nay không?”
“Tôi có đọc trên báo. Tác giả Fukada Eriko hình như là con của tín đồ Sakigake, về sau cô ấy biến mất, có người nghi ngờ cô ấy bị giáo đoàn bắt cóc, cảnh sát đã triển khai điều tra. Nhưng sách thì tôi chưa đọc.”
“Fukada Eriko không phải là con của tín đồ bình thường. Cha cô ấy là Lãnh Tụ của Sakigake. Có nghĩa là, cô ấy là con gái của người đàn ông mà chính tay tôi đưa sang thế giới kia. Kawana Tengo là người được tay biên tập thuê viết lại toàn bộ Nhộng không khí. Quyển sách đó thật ra là hai người cùng sáng tác.”
Một khoảng lặng kéo dài, tương đương thời gian để đi tới đầu bên kia gian phòng chật hẹp, cầm từ điển lên tìm kiếm gì đó rồi quay trở lại. Kế đó, Tamaru cất tiếng phá vỡ sự im lặng.
“Cô không có chứng cứ chắc chắn chứng minh người họ Kawana ở trong tòa nhà ấy chính là Kawana Tengo.”
“Hiện giờ thì chưa,” Aomame thừa nhận, “nhưng đặt giả thiết là cùng một người thì toàn bộ câu chuyện sẽ trở nên hợp lý hơn.”
“Những mẫu vụn đúng là khớp nhau thật,” Tamaru nói. “Có điều, làm sao cô biết chuyện Kawana Tengo chính là người viết lại Nhộng không khí? Chuyện này chắc chưa từng được công khai. Nếu bị người đời biết được thì hẳn đã thành một vụ xì căng đan lớn rồi.”
“Tôi nghe Lãnh Tụ chính miệng nói ra. Trước khi chết, ông ta đã nói chuyện này với tôi.”
Giọng Tamaru trở nên lạnh hơn một chút. “Những chuyện này lẽ ra cô nên nói cho tôi biết sớm hơn một chút. Cô không cho là thế sao?”
“Lúc đó tôi không cảm thấy những chuyện này có ý nghĩa gì quan trọng.”
Trầm mặc trong giây lát. Aomame không biết Tamaru đang nghĩ gì. Nhưng nàng hiểu, Tamaru không thích người khác đưa ra những lời biện giải vô vị.
“Thôi bỏ đi.” Một lúc sau Tamaru lại cất tiếng. “Không nói chuyện này nữa. Tóm lại là, cô muốn nói với tôi rằng rất có thể Búp bê đầu to biết chuyện này, vì vậy mới đi giám sát người tên là Kawana Tengo kia, và y muốn từ anh ta mà truy ra nơi cô đang lẩn trốn.”
“Tôi nghĩ là như vậy.”
“Tôi không hiểu,” Tamaru nói, “tại sao Kawana Tengo lại trở thành đầu mối để tìm được cô? Cô và Kawana Tengo không có quan hệ gì cả, trừ chuyện cô đã xử lý cha của Fukada Eriko, còn anh ta là người viết hộ tiểu thuyết của cô ấy.”
“Có quan hệ,” Aomame nói với giọng đều đều.
“Ý cô muốn nói, cô và Kawana Tengo có quan hệ trực tiếp?”
“Tôi và Kawana Tengo trước đây học cùng lớp ở trường tiểu học. Vả lại, cha của đứa bé tôi sắp sinh ra đây có lẽ chính là anh ấy. Nhưng tôi không thể giải thích thêm được. Nói như thế nào nhỉ, đây là chuyện hết sức riêng tư.”
Tiếng bút bi gõ lên mặt bàn vẳng đến qua ống nghe. Ngoài ra, Aomame không nghe thấy âm thanh nào khác.
“Chuyện riêng tư,” Tamaru nói. Giọng anh ta nghe như anh ta đang phát hiện ra một thứ sinh vật lạ kỳ trên đỉnh hòn núi giả sơn trong vườn.
“Tôi rất xin lỗi,” Aomame nói.
“Tôi biết rồi. Đây là chuyện hết sức riêng tư. Tôi cũng không căn vặn thêm nữa,” Tamaru nói. “Vậy thì, cô muốn tôi làm gì đây?”
“Điều đầu tiên tôi muốn biết, người họ Kawana kia có đúng là Kawana Tengo hay không? Giá mà được, tôi rất muốn tự mình xác minh, nhưng tôi mà đến gần khu nhà ấy thì quá nguy hiểm.”
“Còn phải nói,” Tamaru đáp.
“Hắn đã nắm được một phần mối quan hệ giữa cô và bà chủ rồi. Hắn đang cần mẫn kéo những đầu mối cùng loại vào với nhau, bện lại thành một. Đương nhiên chúng ta không thể bỏ qua hắn.”
“Còn một việc tôi muốn nhờ anh,” Aomame nói.
“Cô cứ nói.”
“Nếu người sống trong tòa nhà đó đúng là Kawana Tengo, tôi muốn nhờ anh đừng để anh ấy chịu bất cứ tổn thương nào. Nếu nhất định phải có người bị tổn thương, tôi tình nguyện thay thế cho anh ấy.”
Tamaru trầm mặc giây lát. Lần này nàng không nghe tiếng bút bi gõ xuống mặt bàn nữa. Không nghe thấy gì cả. Anh ta đang suy tư trong một thế giới không có thanh âm.
“Hai việc đầu tiên, đại khái tôi có thể gắng sức thực hiện,” Tamaru nói. “Đó vốn là một phần trong công việc của tôi. Nhưng việc thứ ba thì không thể nói trước. Dính dáng đến nhiều chuyện quá riêng tư, và có quá nhiều thứ tôi không hiểu nổi. Hơn nữa, theo kinh nghiệm của tôi, cùng một lúc xử lý tốt ba việc không phải dễ. Dù thích hay không thích thì cũng phải có thứ tự ưu tiên.”
“Không sao cả. Anh cứ theo thứ tự ưu tiên của mình mà làm. Tôi chỉ hy vọng anh để tâm một điều: chừng nào tôi còn sống, dù xảy ra chuyện gì tôi cũng phải gặp Tengo. Tôi có chuyện cần nói với anh ấy.”
“Tôi sẽ để tâm,” Tamaru nói. “Ý tôi là, chừng nào tâm trí tôi vẫn còn không gian trống.”
“Cám ơn anh,” Aomame nói.
“Những gì cô nói với tôi vừa nãy, tôi cần phải báo cáo lại toàn bộ với bà chủ. Vấn đề quá tế nhị, một mình tôi không quyết định được. Giờ gác máy đã. Cô đừng ra ngoài nữa, khóa chặt cửa lại. Đợi trong phòng. Cô mà ra ngoài thì có thể sẽ phiền phức đấy. Nói không chừng là đã chuốc lấy phiền phức rồi cũng nên.”
“Nhưng tôi cũng nắm được một số thông tin của đối phương.”
“Được rồi,” Tamaru nói như thể nhận thua. “Từ những gì cô nói, có vẻ như cô đã làm rất hoàn mỹ. Điểm này thì tôi thừa nhận. Có điều đừng lơ là cảnh giác. Chúng ta vẫn chưa rõ đối phương đang muốn làm gì. Hơn nữa, dựa trên tình hình mà phán đoán, e rằng hắn vẫn có một tổ chức ở sau lưng. Thứ tôi đưa cô lần trước vẫn còn đấy chứ?”
“Tất nhiên.”
“Thời gian này tốt nhất luôn để nó bên cạnh.”
“Tôi sẽ làm thế.”
Một khoảng lặng ngắn, rồi hai bên gác máy.
Aomame ngâm mình vào bồn tắm màu trắng xả đầy nước nóng, vừa thong thả làm ấm thân thể vừa nghĩ đến Tengo. Có thể chính là Tengo sống trong căn hộ của tòa chung cư ba tầng cũ kỹ ấy, mà cũng có thể không. Nàng nhớ lại cánh cửa sắt lạnh lẽo, cùng với tấm biển tên trên đó, để hai chữ Kanji “Kawana.” Phía sau cánh cửa ấy là một căn nhà như thế nào? Cuộc sống bên trong đó ra sao?
Nàng đặt tay lên hai bầu vú trong làn nước, chầm chậm xoa bóp. đầu v* không giống như mọi ngày, trở nên to và cứng hơn, và mẫn cảm hơn. Đôi tay này mà là của Tengo thì tốt biết mấy, Aomame nghĩ. Nàng hình dung ra đôi bàn tay anh, to lớn, ấm áp. Nhất định vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng. Hai bầu vú của nàng được bao bọc trong đôi bàn tay anh hẳn sẽ tìm thấy niềm vui và sự bình yên sâu sắc. Sau đó, Aomame nhận ra bầu vú của mình đã lớn hơn lúc trước một chút. Đây không phải là ảo giác. Đích thực là đã phình ra, đường nét mềm mại hơn hẳn. Có lẽ do mang thai. Không, có lẽ liên quan đến cái thai. Vú mình chỉ trở nên to hơn mà thôi. Một khâu trong quá trình thay đổi diện mạo của mình.
Nàng đặt tay lên bụng. Chỗ gồ lên vẫn chưa nhìn rõ lắm. Và không hiểu tại sao, nàng vẫn không bị nghén. Nhưng trong này có một thứ bé nhỏ. Nàng biết điều đó. Aomame nghĩ, có thể nào thứ mà bọn họ sống chết theo đuổi kia không phải là tính mạng của mình mà là thứ bé nhỏ này? Có thể nào để trả thù cho Lãnh Tụ, bọn họ muốn cả mình lẫn nó? Ý nghĩ này khiến toàn thân Aomame run lên. Dù thế nào mình cũng phải gặp được Tengo. Quyết tâm của Aomame trở nên kiên định gấp đôi. Nàng và anh phải đồng tâm hiệp lực bảo vệ thứ bé nhỏ này. Trong cuộc đời, nàng đã bị cướp đoạt quá nhiều thứ quý giá rồi, nhưng thứ bé nhỏ này thì nàng không thể để mất vào tay ai. Tuyệt đối không.
Sau khi lên giường, nàng đọc sách một lúc. Nhưng cơn buồn ngủ mãi không chịu đến. Nàng gập sách lại, hơi cong người lại để bảo vệ phần bụng, mặt áp lên gối, nghĩ về vầng trăng mùa đông lơ lửng giữa bầu trời phía trên sân chơi, và mặt trăng nhỏ màu xanh ở bên cạnh nó. Mẫu thể và tử thể. Ánh sáng của hai mặt trăng hòa trộn vào nhau, vuốt ve những cành trụi lá của cây sồi. Lúc này Tamaru chắc chắn đang nghĩ đối sách để giải quyết vụ việc. Bộ óc anh ta đang chuyển động với tốc độ cao. Aomame hình dung ra anh ta đang nhíu chặt mày, gõ gõ bút bi lên mặt bàn lách ca lách cách. Không lâu sau, tựa như được tiết tấu đơn điệu kéo dài vô tận ấy dẫn lối, giấc ngủ mềm mại dịu dàng bao bọc lấy nàng,