Sáng thứ sáu, hắn phấn khởi đến lớp học, cảm thấy người nhẹ nhõm hẳn đi. Hắn có cảm tưởng như con người hắn trở nên lớn hơn, trở nên phi thường. Những tia nắng chảy tuôn vào phòng học, nhảy múa trên những dãy ghế bằng kim loại, rồi điểm tô lên vách tường, lên trần nhà những nụ hoa nắng lung linh. Ngồi ở dãy sau, hắn duỗi thẳng chân một cách thoải mái, tay khoanh trước ngực, nhìn các sinh viên khác đang lũ lượt kéo vào lớp học. Vẻ rạng rỡ của một buổi mai sớm đã thổi vào họ một luồng sinh khí mới hừng hực sức sống. Ngày mai sẽ là ngày khai mạc trận đấu bóng rổ đầu tiên của đội bóng nhà trường; buổi tối có hội vũ mùa xuân, sẽ có dịp la ó, ba hoa và những trận cười.
Ba cô gái đang đứng chụm lại với nhau thì thầm, nhỏ to chuyện gì trông rất sôi nổi. Hắn tự hỏi phải chăng đó là ba cô sinh viên nội trú và họ đang bàn chuyện về Dorothy? “Mình nghĩ chưa ai phát hiện ra con bé đâu. Tại sao không có người nào đến phòng con bé nhỉ? Có thể họ tưởng con bé muốn ngủ dậy trễ. Mình hy vọng trong vòng ba bốn tiếng nữa họ vẫn chưa tìm thấy con bé”. Hắn thót giật nẩy người khi tiếng rù rì của ba cô gái bỗng vỡ tan ra thành những tràng cười ngặt ngẽo.
“Không, không thể nào họ phát hiện ra con bé trước một giờ hoặc vào khoảng thời gian ấy. Dorothy không xuống ăn sáng, cũng không xuống ăn trưa, thế là họ đến gõ của phòng và không nghe tiếng con bé trả lời. Họ sẽ đi tìm bà giám đốc cư xá hay ai đó để mượn chìa khóa. Điều này cũng không thể xảy ra. Có biết bao nhiêu cô đã ngủ quên luôn bữa điểm tâm và cũng có một số cô đi ra ngoài ăn mỗi khi bốc đồng. Con bé đâu có bạn thân nên chẳng ai chú ý sự vắng mặt của nó. Không, nếu mình vẫn còn may mắn thì chỉ đến khi nào Ellen gọi điện thoại, họ mới vỡ lẽ ra thôi”.
Đêm hôm trước, sau khi từ giã Dorothy qua điện thoại, hắn quay lại cư xá và bỏ thư có ghi địa chỉ của Ellen Kingship – lá thư tuyệt mạng của Dorothy – vào thùng thư gần đấy. Chuyến thư sớm nhất sẽ đi vào lúc sáu giờ mỗi buổi sáng. Caldwell chỉ cách có một trăm dặm; như vậy buổi trưa thư sẽ đến tay Ellen. Nếu sáng nay họ phát hiện ra con bé thì chắc chắn Ellen sẽ được ông bố báo tin và sẽ tức tốc rời Caldwell đi Blue River. Việc này có nghĩa là họ tức khắc tiến hành ngay cuộc điều tra, lý do lúc đó Ellen chưa nhận được lá thư kia. Đây là sự nguy hiểm duy nhất nhưng cũng chỉ là sự nguy hiểm nhỏ nhặt và bất ngờ thôi. Trước đó hắn không tìm được cách nào lẻn vào cư xá để vào chỗ Dorothy giấu bức thư vào đâu đấy: hoặc trong túi áo khoác của nàng, hoặc trong sách vở của nàng. Nhưng trường hợp này cũng rất nguy hiểm vì biết đâu tình cờ Dorothy bắt gặp được lá thư đó rồi vất bỏ đi. Hoặc biết đâu, còn trầm trọng hơn nữa, Dorothy sẽ liên kết mọi sự việc lại với nhau và truy ra đầu mối.
Chỉ có trưa nay mình mới thoát nạn được thôi. Nếu sau mười hai giờ họ mới khám phá ra Dorothy thì khi ấy Ellen đã nhận được thư rồi và lúc đó nhà trường đã báo tin cho Leo Kingship biết và lão với Ellen cũng đã liên lạc với nhau. Nếu sự may mắn vẫn còn duyên nợ với mình thì đến xế chiều họ mới tìm thấy Dorothy, lý do nhờ cú điện thoại cuống cuồng của Ellen gọi đến cư xá. Lúc này mọi việc đã trở nên rõ ràng và mọi sự tiến hành theo đúng lớp lang của nó.
Tất nhiên sẽ có cuộc xét nghiệm tử thi. Họ sẽ phát hiện ra việc dùng quá liều lượng chất asênic và một bào-thai-hai-tháng: nguyên nhân và hậu quả của cái chết. Với cớ sự đó, với bức thư đó, mấy cha nội cảnh sát chẳng còn gì để nghi ngờ, thắc mắc, để điều tra nữa. Tuy thế họ cũng có thể mở cuộc điều tra chiếu lệ ở các hiệu thuốc trong địa phương nhưng chắc chắn họ chỉ gặt hái được một con số không to tướng. Thậm chí họ có thể xem xét phòng dược liệu. Họ sẽ hỏi sinh viên – các anh chị có thấy cô gái này ở trong phòng dược liệu hay ở đâu đấy trong trường đại học dược khoa không – và chìa cho sinh viên xem ảnh cô gái. Họ cũng chỉ thu được con số không nữa thôi. Đó là một sự bí ẩn không mấy quan trọng dù họ không rõ nguồn gốc chất asênic kia từ đâu mà nạn nhân có được. Vì nói cho cùng tự tử là tự tử, thế thôi.
Họ có truy lùng người đàn ông – người tình của cô gái bất hạnh – trong vụ này không? Việc này xem ra cũng không thể xảy ra. Ai chả biết nạn nhân là một cô gái lăng loàn, trắc nết. Họ không chú ý đến người tình của cô ta đâu. Nhưng còn cái lão Leo Kingship kia? Liệu cái thứ đạo đức bị biếm nhục này có phát động một cuộc truy tìm thủ phạm không? “Phải tìm cho ra cái thằng đểu giả đã hủy hoại đời con gái tao!”. Mặc dù Dorothy đã phác họa một vài nét chấm phá về ông bố của mình, Leo Kingship cũng có thể suy nghĩ: “Đấy, trước sau gì nó cũng hư đốn vậy thôi. Mẹ nào con nấy”. Nói thế, lão ta bằng mọi cách sẽ tìm kiếm, sục sạo mới hả dạ.
Mình sẽ bị liên lụy không sao tránh khỏi. Nhiều người đã thấy mình và Dorothy quấn quýt bên nhau dù không bị bắt gặp thường xuyên.
Buổi ban đầu, khi bắt bồ được với Dorothy, hắn không dám đưa nàng đến những nơi nổi tiếng. Năm trước hắn đã chài được một cô gái con nhà giàu và giá như Dorothy khám phá ra được sự lưu manh của hắn rồi bỏ hắn thì ít ra hắn cũng còn có cơ hội để gạ gẫm những cô gái về sau; hắn không ưa bị mang tiếng là tên đào mỏ! Khi biết Dorothy đã mê mệt hắn, hắn mới đưa nàng đi xem phim, dẫn nàng về phòng hắn, hẹn đến những nơi vắng vẻ như quán ăn Gideon chẳng hạn. Điểm hò hẹn thường xuyên giữa hắn và nàng ở cái ghế đá nhiều hơn là tại phòng khách của cư xá, tránh được chỗ đông người chừng nào tốt chừng đó.
Hắn sẽ bị kêu lên thẩm vấn nhưng Dorothy chưa từng kể cho ai nghe về sự liên hệ tình cảm giữa nàng và hắn cả, do đấy những thằng khác cũng sẽ bị liên can, đâu phải chỉ riêng mình hắn. Chẳng hạn thằng tóc đỏ thường hay tán gẫu với con bé ngoài lớp – ngay lần đầu tiên mình gặp con bé và để ý đến cái hộp quẹt đặc biệt của nó. Ngay cả cái thằng được con bé đan tất cho nữa chứ, đôi tất màu lá mạ đó, và bất cứ cu cậu nào mà con bé có hẹn đôi ba lần. Cả lũ sẽ bị dính chùm với nhau. Thằng nào cũng có thể bị nghi là thủ phạm bởi vì có thằng nào dại khờ nhận tội đâu. Lão Leo Kingship sẽ bó tay chịu chết thôi. Có bằng chứng xác đáng nào để buộc tội chứ?
Đúng, công việc sẽ êm ru. Sẽ không có chuyện bỏ học. Sẽ không có chuyện giữ chân thư ký ở công ty tàu biển chết bầm kia. Sẽ không có vợ, có con gì cả. Sẽ không có chuyện lão Leo Kingship trả thù. Sẽ không có gì hết. Chỉ có một vết đen nho nhỏ… Giả dụ ai đó tố cáo rằng mình hay quanh quẩn ở khu đại học, rằng mình thường là người sóng vai với con bé… Giả dụ cô gái trong phòng dược liệu gặp lại mình, biết mình là ai và không phải là sinh viên dược… Nhưng điều này thậm chí cũng không thể xảy ra… trên một ngàn sinh viên, biết ai là ai… Nhưng nếu, giả dụ điều không may ấy lại xảy đến, cô gái nhìn thấy mình, sực nhớ lại và đi báo cho cảnh sát… Cho dù thế nữa, cũng không có bằng chứng. Cứ cho là mình có mặt trong phòng dược liệu đi, mình sẽ dựng đứng một vai biện hộ nào đó, họ sẽ tin mình vì còn có lá thư kia, lá thư với chính nét chữ của con bé. Làm thế nào họ giải thích.
Cánh cửa bên hông lớp học chợt mở ra, một cơn gió nhẹ lùa vào thổi tung những trang giấy trong cuốn vở của hắn. Hắn quay sang nhìn. Trời! Dorothy!
Hắn choáng váng, rã rời, toàn thân như thiêu đốt. Hắn dợm người đứng dậy, máu chảy dồn lên mặt, lên ngực ngẹt thở. Mồ hôi tuôn chảy như triệu con sâu đang rần rần bò trên thân thể. Hắn biết nỗi khiếp hãi hiện rõ trên khuôn mặt hắn, trong đôi mắt trợn trừng, trên đôi má rực cháy và Dorothy đã nhìn thấy, nhưng không làm sao hắn che giấu được sự kinh hoàng đó. Khi cánh cửa sau lưng nàng khép lại, nàng kinh ngạc nhìn hắn. Cũng như mọi ngày, sách cắp dưới tay, áo màu lục, váy len sọc vuông. Đúng là Dorothy đang tiến lại gần, nét bàng hoàng lộ trên khuôn mặt vì bộ dạng lạ lùng của hắn.
Quyển sách rơi đánh bịch trên sàn nhà. Hắn cúi xuống nương cơ hội lẩn tránh một lúc để lấy lại bình tĩnh. Hắn giữ nguyên thế ngồi chúc đầu xuống sát mặt ghế, cố điều hòa hơi thở. Chuyện gì đã xảy ra thế? Trời! Con bé không uống thuốc! Làm sao nó thoát được chứ nếu… Nó nói láo! Con khốn kiếp! Lá thư đang trên đường đến chỗ Ellen… Ôi, Chúa ơi!
Hắn nghe nàng đang len vào chỗ ngồi. Giọng nàng thì thào sợ hãi:
– Anh sao thế? Chuyện gì vậy?
Hắn nhặt quyển vở lên, ngồi thẳng người, mặt cắt không còn một giọt máu, toàn thân tê dại, mồ hôi dầm dề, chết điếng.
– Anh sao thế, hả anh?
Hắn lờ đờ nhìn nàng. Con bé trông vẫn như mọi ngày. Tóc buộc một giải băng màu xanh. Hắn cố nói một lời gì đó nhưng đầu óc hắn rto61ng rỗng.
– Chuyện gì vậy?
Những sinh viên khác đưa mắt nhìn. Cuối cùng hắn thì thào, giọng đứt khoảng:
– Chẳng… chẳng có… việc gì. Anh khỏe lại rồi.
– Anh bị bệnh? Mặt anh tái xanh như…
– Không có gì đâu. Vì… vì cái này – Hắn lấy tay chỉ vào cạnh sườn, nơi có vết sẹo khi hắn còn ở trong quân đội… – thỉnh thoảng nó nhói đau, nhức nhối.
– Em cứ ngỡ anh bị động kinh hay đau gì đấy – Nàng thầm thì.
– Có chi đâu – Hắn vẫn sững sờ nhìn nàng, lấy hơi thở, hai tay bấu chặt vào đầu gối, cố ghìm mình lại. Trời! Làm sao đây? Con đốn mạt! Chó đẻ! Nó cũng âm mưu, dự tính kế hoạch tiến hành lễ cưới.
Hắn nhận thấy vẻ lo âu biến mất trên khuôn mặt của nàng, đôi má đã ửng hồng trở lại. Nàng rút tờ giấy nơi tập giấy làm bài, hí hoáy viết, rồi trao cho hắn.
THUỐC VÔ HIỆU!
“Nó nói láo! Con nói dối khốn nạn!”. Hắn vò nát mảnh giấy, bóp ghiến trong lòng bàn tay, những móng tay đâm vào da thịt buốt đau. Phải suy nghĩ, phải tính toán! Tai họa bất ngờ và khủng khiếp quá đến nỗi hắn không phản ứng đối phó kịp thời được… thư sẽ đến tay Ellen vào lúc nào đây? Ba giờ hay bốn giờ? Rồi Ellen sẽ gọi điện thoại cho Dorothy. “Chuyện gì thế em? Sao lại viết thư như thế?” “Viết thư nào chứ?” Ellen đọc nội dung lá thư và Dorothy chợt hiểu… Con bé sẽ tìm đến mình. Mình sẽ giải thích sao đây? Hoặc giả con bé khám phá ra được sự thật – liền tuôn hết câu chuyện cho Ellen nghe – sau đấy gọi dây nói cho ông bố. Nếu con bé vẫn còn cất giữ những viên thuốc kia, nếu nó không chịu ném bỏ chúng đi thì chứng cớ rành rành và mình khó bề chối cãi. Con bé sẽ đem đến hiệu thuốc nhờ xét nghiệm, phân tích? Ôi lúc này không thể biết con bé còn âm mưu gì nữa đây. Nó là một ẩn số khó hiểu. Mình phải tiên liệu những mưu toán quỷ quái trong đầu óc con khốn kiếp này mới được.
XONG, CHÚNG TA ĐÃ THỬ HẾT SỨC MÌNH, THẾ THÔI. GIỜ MÌNH TIẾN HÀNH THEO KẾ HOẠCH, EM NHÉ.
Hắn trao giấy cho Dorothy. Nàng đọc, quay sang nhìn hắn, nét mặt rạng rỡ, say đắm như tia nắng mặt trời. Hắn gượng mỉm cười với nàng, thầm mong nàng không nhìn thấy bộ điệu sượng sùng của hắn.
“ Mình vẫn còn đủ thời gian. Những người viết xong lá thư tuyệt mệnh, thường dùng dằng trước khi thực hiện ý đồ”. Hắn nhìn đồng hồ tay: “Chín giờ hai mươi phút. Sớm nhất Ellen có thể nhận được thư là khoảng… ba giờ chiều. Mình còn đến năm giờ bốn mươi phút nữa. Không thể chần chừ. Phải hành động chớp nhoáng. Dứt điểm. Mình đừng trông mong con bé sẽ làm theo lời mình nữa. Chẳng cần thuốc độc làm quái gì. Con người có thể hủy mình bằng cách nào khác nữa không? Trong năm giờ bốn mươi phút tới con bé phải chết!”.