Bá Tước Dracula

Chương 17: Nhật ký của Jonathan Harker



1 tháng Mười, 5 giờ sáng. – Tôi cùng các bạn tìm kiếm với một tâm trạng thoải mái, bởi vì tôi nghĩ rằng tôi chưa bao giờ thấy Mina hoàn toàn cứng cỏi và tuyệt vời đến như vậy. Tôi rất vui vì nàng đã đồng ý rút lui và để cho những người đàn ông chúng tôi tiến hành công việc. Việc để nàng tham gia trong câu chuyện khủng khiếp này có phần nào khiến tôi ghê sợ, nhưng bây giờ phần của nàng đã xong, và bằng nguồn năng lượng, khối óc và khả năng tiên đóan của mình, nàng đã ráp tòan bộ câu chuyện vào nhau chặt chẽ ở mọi chi tiết, và nàng có thể an tâm rằng phần việc của nàng đã hòan tất, và do đó nàng có thể để cho chúng tôi đảm nhiệm phần còn lại. Tôi cho rằng tất cả chúng tôi đều có phần bối rối bởi những gì vừa diễn ra với ông Renfièld. Khi chúng tôi ra khỏi phòng ông ấy, chúng tôi im lặng cho đến khi chúng tôi quay trở về phòng nghiên cứu.

Đoạn ông Morris nói với bác sĩ Seward, “Jack này, nếu như người đàn ông đó không cố gắng để đánh lừa chúng ta, thì hẳn ông ta là người điên tỉnh táo nhất mà tớ đã từng thấy. Tớ không chắc lắm, nhưng mà tớ tin rằng hẳn ông ta có một mục đích nghiêm chỉnh nào đó, và việc ông ấy không có được cơ hội để thực hiện hẳn đã khiến ông rất khó chịu.”

Huân tước Goldalming và tôi im lặng, nhưng bác sĩ Van Helsing thêm vào, “Bạn John này, anh biết về người điên nhiều hơn tôi, nhưng tôi rất vui về điều này, bởi vì tôi sợ rất sợ trường hợp chính tôi phải quyết định trước khi ông ta bùng nổ cơn điên cuối cùng và trốn thóat. Nhưng chúng ta đang sống và học tập, và trong công chuyện hiện giờ của chúng ta, chúng ta phải đảm bảo mọi chuyện, như là anh bạn Quincey đây đã nói. Đó là những điều tốt nhất.”

Bác sĩ Seward có vẻ mơ màng khi trả lời cả hai người, “Tôi không biết chắc, nhưng tôi đồng ý với giáo sư và cậu. Nếu như người đàn ông ấy chỉ là một người điên bình thường thì hẳn là tôi đã tự cho mình một cơ hội để tin tưởng ông ta, nhưng qua các sự kiện đã qua cho thấy ông ta có vẻ khá là dính dáng với bá tước và tôi sợ rằng mình làm một điều gì đó sai lầm khi giúp đỡ cho ước vọng của ông ta. Tôi không thể quên được ông ta cầu mong, gần như là khẩn cầu một ân huệ là có được một con mèo, và đã thử để xé toạc cổ họng của tôi bằng hàm răng của ông ta. Ngòai ra, ông ta gọi bá tước là ‘chúa tể và ông chủ’, và có thể ông ta muốn thóat ra để giúp đỡ hắn trong những công việc ma quỷ kia. Cái thứ kinh khủng kia đã có trong tay chó và chuột để giúp hắn, và tôi nghĩ là hắn sẽ không qua việc thử dùng một người điên đáng kính. Mặc dù ông ta đã tỏ ra khá nghiêm chỉnh. Tôi chỉ hy vọng là chúng ta đã làm điều tốt nhất. Khi mà gắn chặt vào công việc man dại này trong tay, thì điều đó sẽ giúp cho một người đàn ông mất can đảm.”

Giáo sư bước đến, đặt tay lên vai anh ta, nói một cách trịnh trọng và thân thiết, “Bạn John, đừng sợ. Chúng ta đang cố thi hành bổn phận của mình trong một tình cảnh rất đáng buồn và đau khổ, chúng ta chỉ có thể làm điều mà chúng ta cảm thấy là tốt nhất, và chúng ta còn hy vọng vào điều gì nữa, ngòai trừ lòng thương của Chúa.”

Huân tước Godalming hơi lảng đi vài phút, nhưng bây giờ thì anh ta đã quay lại. Anh cầm một cái còi bạc, nói, “Vùng đất cổ này có thể đầy những chuột, và nếu vậy tôi có thứ để nổi lên hiệu trừ tà.”

Khi đi qua cửa, chúng tôi mở cửa vào nhà, chú ý ẩn mình trong bóng đen của cây cối trên bãi cỏ dưới ánh trăng sáng. Khi chúng tôi đến cổng vòm, giáo sư mở túi và lấy ra một số vật dụng, đặt lên bậc thang, chia chúng làm bốn nhóm nhỏ, cuối cùng đưa mỗi nhóm cho một trong chúng tôi. Đoạn ông nói.

“Các bạn, chúng ta đang dấn thân vào một mối nguy hiểm rất lớn, và chúng ta cần phải vũ trang bằng nhiều cách. Kẻ thù của chúng ta không chỉ thuần túy ở tâm linh. Hãy nhớ rằng hắn có sức mạnh của hai mươi người, và do đó, cho dù cổ hay khí quản của chúng ta hoàn toàn bình thường, vẩn có thể bị bẻ gãy hay nghiền nát dưới tay hắn. Chỉ đơn thuần bằng sức mạnh không thể khuất phục được hắn. Một người khỏe hơn, hoặc lấy số đông của một nhóm người có thể mạnh hơn hắn, và có thể bắt giữ hắn, nhưng họ không thể làm hắn bị thương như chúng ta có thể bị thương từ hắn. Do vậy chúng ta phải tự bảo vệ chúng ta trước khi va chạm với hắn. Hãy giữ cái này ở gần tim.” Trong khi nói, ông ta đưa một cây thánh giá bằng bạc lên và giơ ra cho tôi, người đang ở gần ông nhất, “hãy đeo những vòng hoa này quanh cổ anh,” ông ta đưa cho tôi những vòng hoa tỏi khô héo, “với những kẻ thù khác trần tục hơn, thì có cây súng lục ổ quay và con dao này, để trợ giúp thêm, hãy dùng những cây đèn điện tử nhỏ xíu này, anh có thể buộc chặt nó vào ngực, và quan trọng hơn cả, đáng giá hơn tất cả là thứ này đây, để trừ tà, chúng ta không thể không cần nó.”

Đó là một phần của bánh thánh, ông ta đặt trong một cái phong bì và đưa nó cho tôi. Mỗi người còn lại cũng được vũ trang như vậy.

“Nào,” ông ta nói, “bạn John, chiếc chìa khóa chính đâu? Nếu chúng ta có thể mở được cửa, chúng ta không cần phải bẻ cửa sổ vào nhà, như lần trước ở nhà cô Lucy.”

Bác sĩ Seward thử một hoặc hai cái chìa khóa chính, sự khéo tay máy móc của một bác sĩ phẫu thuật đã khiến cho công việc của anh có nhiều thuận lợi. Sau đó anh tra được một chiếc vừa khớp, sau khi xoay tới xoay lui một lúc thì cái then cài bắt đầu lay động, và với một tiếng cót két han gỉ, nó bật lên. Chúng tôi đẩy cánh cửa han gỉ khiến nó kêu ken két và chậm chạp mở ra. Đáng ngạc nhiên là cảnh tượng lúc này giống như là lúc bác sĩ Seward mở cánh cửa mộ của cô Westenra mà tôi đọc được trong nhật ký của anh, tôi đóan là ý nghĩa này cũng đập vào những người khác, khiến cho họ cũng đều lui lại. Giáo sư là người đầu tiên bước tới, và bước vào sau cánh cửa mở.

“In manus tuas, Domine!” ông nói, làm dấu thánh khi ông bước qua ngưỡng cửa. Chúng tôi đóng cửa, để cho những người ở ngòai đường không chú ý đến ánh đèn của chúng tôi. Giáo sư cẩn thận kiểm tra lại cửa, để chúng tôi có thể mở được nó trong trường hợp khẩn cấp chúng tôi cần phải thóat ra. Đoạn tất cả chúng tôi bật đèn và bắt đầu lục sóat.

Ánh sáng từ ngọn đèn nhỏ li ti đã khiến cho tất cả mọi vật trở nên có hình dáng kỳ lạ khi những tia sáng cắt lẫn nhau, hoặc do những bóng người mờ đục tạo nên những bóng đen khổng lồ. Tôi không thể dứt được cảm giác là đang có ai đó lẩn quẩn giữa chúng tôi. Tôi tưởng tượng lại hồi ức, chúng âm u bủa vây, đem tôi lao vụt về những câu chuyện khủng khiếp ở Transylvania. Tôi nghĩ mọi người trong số chúng tôi đều có cảm giác này, vì tôi để ý thấy ai cũng nhìn ngược lại sau vai mình mỗi khi nghe thấy tiếng động hoặc bắt gặp một cái bóng thấp thoáng, giống như tôi đang làm với chính mình.

Toàn bộ nơi này phủ đầy tòan bụi. Trên nền nhà bụi dầy đến hàng inch, ngòai trừ đôi chỗ thấp thóang dấu chân. Khi chiếu đèn xuống tôi thấy dấu vết của những chiếc ủng khắc lên đám bụi. Tường thì mịn mượt và đầy bụi, trong một góc là một đống mạng nhện lớn, trên đó bụi đọng lại nhiều đến nỗi trông nó như những mảnh giẻ rách mà sức nặng của chúng khiến đám mạng nhện phải chùng xuống. Ở trên bàn trong tiền sảnh là một chùm chìa khóa lớn, có dán nhãn vàng trên mỗi chiếc. Chúng hình như đã được dùng nhiều lần, bởi vì trên bàn có nhiều dấu vết tương tự nhau trên đám bụi, tương tự như vết mà giáo sư tạo ra khi nhấc chùm chìa khóa lên.

Ông ta quay lại phía tôi và nói, “Anh hẳn là biết nơi này, Jonathan. Anh đã vẽ lại tấm bản đồ nơi này, và ít ra anh biết về nó nhiều hơn chúng tôi. Đường nào sẽ dẩn đến nhà thờ?”

Tôi cũng biết đôi chút về các lối đi, dù lần trước khi vào thăm nơi đây tôi không thể thu tóm chúng vào nhận thức của mình, nên tôi dẩn đường, vào sau vài lần rẽ sai hướng tôi cũng thấy mình đối diện với một cánh cửa bằng gỗ sồi thấp, mái vòm, chống đỡ bằng những thanh sắt.

“Chính là nơi này,” giáo sư nói khi ông đưa cây đèn về phía tấm bản đồ ngôi nhà, được sao chép từ trong hồ sơ gốc của tôi về các vấn đề liên quan đến cuộc mua bán này. Run rẩy một lúc chúng tôi cũng tìm thấy được chiếc chìa khóa thích hợp trong chùm chìa khóa và mở cửa. Chúng tôi chuẩn bị đón chờ những chuyện không dễ chịu gì, bởi vì khi chúng tôi mở cửa thì một luồng khí ngột ngạt, hôi thối xộc ra dù cho khỏang cách còn khá xa, nhưng không có ai trong chúng tôi chờ đợi hương hoa khi chúng tôi đến đây. Không một ai khác trong số các bạn tôi đã từng gặp bá tước dù chỉ trong thóang chốc, còn tôi thì đã thấy hắn khi hắn tồn tại trong trạng thái nhịn ăn ở trong phòng, lẫn khi hắn no nê máu tươi, trong một lâu đài lớn rộng rãi, nhưng ở nơi này thật là nhỏ bé và chật hẹp, và việc bỏ hoang một thời gian dài đã khiến không khí ở đây trở nên ngột ngạt và hôi thối. Đấy là làn hơi của đất đen, của chướng khí khô lạnh, thổi xuyên qua bầu không khí oi tù. Nhưng chính cái làn hơi này thì tôi sẽ mô tả nó như thế nào đây nhỉ? Nó không chỉ một mình đơn độc mà dương như nó kết hợp với tất cả bệnh tật chết chóc với cái vị hăng cay của máu, nhưng dường như chính bản thân sự mục nát này cũng đang tự mục nát. Khiếp thật! Nó làm cho chính tôi cảm thấy bệnh khi nghĩ về nó. Mỗi hơi thở đều cho thấy rằng hình như con quái vật kia đang bám lấy nơi này để làm tăng cao vẻ gớm ghiếc.

Trong trường hợp bình thường thì hẳn là cái mùi hôi thối như vậy đã khiến cho công việc mạo hiểm của chúng tôi chấm dứt ngay rồi, nhưng đây không phải là một công việc bình thường, và cái mục đích cao cả và kinh khiếp mà chúng tôi đang dấn thân vào đã cho chúng tôi sức mạnh để vượt qua những điều kiện vật chất thông thường. Sau khi vô tình giật ngược lại dưới tác dụng của làn hơi tanh tưởi đầu tiên ập đến, chúng tôi, mọi người như một lại tiếp tục công việc của mình như thể cái vùng đất hôi hám này là một vườn hồng rực thắm.

Chúng tôi bắt đầu kiểm tra tỉ mỉ nơi này, giáo sư nói khi chúng tôi bắt đầu, “Điều đầu tiên là phải xem coi có bao nhiêu hộp còn lại, chúng ta phải kiểm tra từng lổ hỗng, từng góc cạnh, từng vết nứt và kiểm tra xem chúng ta có thể rút ra được những điều gợi ý nào từ những thứ còn lại.”

Những tia sáng đủ để thấy xem còn lại bao nhiêu cái rương đất đồ sộ kia, và không thể nào đếm chúng lầm được.

Chỉ còn lại hai lăm trong số năm mươi thùng! Ngay khi đó tôi vô cùng hỏang sợ khi thấy huân tước Godalming thình thình quay ngoắt lại và nhìn vào một cánh cửa vòm dẩn vào một lối đi tối phía sau, tôi cũng nhìn theo, và trong một thóang tim tôi như ngừng đập. Thấp thóang trong bóng đêm bên ngòai, hình như tôi nhìn thấy khuôn mặt ma quái sáng rực của bá tước, với cái sống mũi, đôi mắt đỏ, đôi môi đỏ, màu nhợt nhạt dáng sợ. Nó chỉ trong một thóang, nên huân tước Godalming nói, “Tôi nghĩ là tôi nhìn thấy một khuôn mặt, nhưng nó chỉ là một cái bóng,” và tiếp tục cuộc điều tra của mình, tôi quay đèn về phía lối đi và bước đi vào trong lối đi. Không có dấu hiệu của ai trong đó cả, và cũng chẳng có một góc cạnh, một cánh cửa, không một kẽ hở nào, mà chỉ có một bức tường lớn chắn lối, không thể có một chỗ nào để cho hắn trốn tránh. Tôi nghĩ rằng có thể nỗi sợ hãi đã hình thành sự tưởng tượng, và không nói gì.

Vài phút sau tôi thấy Morris thình *** h bước lùi vào một góc để kiểm tra. Tất cả chúng tôi đều chăm chú theo dõi anh ta, không nghi ngờ gì nữa, sự căng thẳng trong chúng tôi đang mỗi lúc mỗi lớn, và chúng tôi thấy một mảng lân tinh lớn, phát quang lấp lánh như những ngôi sao. Tất cả chúng tôi đều lùi lại một bước theo bản năng. Cả nơi đó bắt đầu xuất hiện đầy những con chuột sống.

Trong một lúc chúng tôi đứng thất kinh, và huân tước Godalming đã cứu chúng tôi, anh ấy có vẻ nhưng đã chuẩn bị trước năng lực cho sự việc này. Bước nhanh về phía cánh cửa gỗ sồi bọc thép lớn mà bác sĩ Seward đã mô tả từ bên ngòai, và chúng mắt tôi trông thấy, anh ấy quay chìa khóa trong ổ, kéo cái chốt lớn, và giật tung cánh cửa ra. Đoạn, lấy cái còi nhỏ bằng bạc trong miệng ra, anh ấy thổi một hồi dài, lanh lảnh. Có tiếng chó vang lên ăng ẳng từ phía sau nhà của bác sĩ Seward để trả lời, và vài phút sau ba con chó săn vùn vụt lao đến góc nhà. Một cách vô thức tất cả chúng tôi đi ra phía cửa, và khi chúng tôi đi, tôi để ý thấy bụi đã được xáo trộn nhiều.Những chiếc hộp đã được mang đi theo lối này. Nhưng cứ từng phút trôi qua thì số lượng chuột lại càng gia tăng vùn vụt. Chúng xuất hiện thành đàn ở khắp mọi nơi cùng lúc, dưới ánh đèn, những thân thể tối tăm đang chuyển động của chúng sáng lên và lấp lánh, và những đôi mắt lóng lánh, khó nhìn của chúng khiến cho nơi đây trở thành một xó xỉnh của trái đất chứa đầy những con ruồi lửa. Những con chó vẩn lao vụt đến, nhưng khi đến ngưỡng cửa thì chúng thình *** h dừng lại và gầm gừ, rồi đoạn, đồng loạt ngước mũi lên, bắt đầu tru lên trong một dáng điệu sầu thảm nhất. Số lượng chuột đã lên đến hàng ngàn, và tất cả chúng tôi đi ra.

Huân tước Godalming nhấc một con trong lũ chó lên, mang nó đến, đặt nó lên nền nhà. Ngay lúc mà chân nó chạm vào đất mẹ, hình như sự can đảm của nó được phục hồi, và nó phóng đến lũ những kẻ thù tự nhiên của mình. Chúng chạy trốn ào ạt trước nó nhanh đến nỗi nó không đạt được những chiến công đáng kể , và những con chó khác, cũng được nhấc lên theo cách đó, thì cũng có được một số ít nạn nhân trước khi cả đám chuột kia biến mất.

Cùng với sự ra đi của lũ chuột, có vẻ như sự hiện diện của ma quỷ cũng chết theo, vì bầy chó bắt đầu vẫy đuôi và sủa đầy vui mừng khi chúng thình *** h phóng đến bên kẻ địch đã bất lực của chúng, vờn chúng, tung chúng lên không khí và nhảy đến đớp mạnh. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy lên tinh thần. Có thể do không khí chết chóc đã được quét đi bằng cách mở toang các cánh cửa nhà nguyện, hoặc do sự khuây khỏa mà chúng tôi có được khi lại thấy mặt nhau ở bên ngòai, tôi không biết rõ, nhưng rõ ràng nhất là cái bóng đen của nỗi sợ hãi đã tuột khỏi chúng tôi như một cái áo chòang, và việc chúng tôi thóat ra đã mất đi một chút gì nghiệt ngã nhất của nó, dù chúng tôi mất đi chút nào sự kiên quyết của mình. Chúng tôi đóng cánh cửa thông ra ngòai, ngăn và khóa nó lại, và mang lũ chó đi với mình, chúng tôi bắt đầu kiểm tra ngôi nhà. Chúng tôi chẳng tìm thấy gì ngòai trừ một số lượng bụi khủng khiếp, và chẳng hề có dấu vết gì chạm đến nó ngòai dấu chân của tôi khi tôi ghé qua nó lần đầu. Lũ chó chẳng hề biểu lộ bất kỳ triệu chứng gì đáng để ý, thậm chí khi chúng tôi quay lại nhà nguyện, chúng còn tỏ ra vui mừng như thể chúng lại sắp được đi săn thỏ trong rừng vào mùa đông.

Từ phía Đông, buổi sáng đang nhanh bước xuất hiện trước chúng tôi. Bác sĩ Van Helsing lấy chiếc chìa khóa tiền sảnh ra khỏi chùm chìa khóa, khóa cửa một cách chính thống, đặt chiếc chìa khóa vào túi sau khi đã làm xong việc này.

“Đến lúc này,” ông ta nói, “rõ ràng đêm nay là một đêm thành công của chúng ta. Chúng ta đã chẳng bị tổn hại nào như tôi đã từng lo sợ và hơn nữa chúng ta đã xác định được rõ có bao nhiêu thùng gỗ đã mất đi. Điều làm tôi vui mừng hơn tất cả, cái điều khó khăn và nguy hiểm đầu tiên, và có thể là hơn tất cả là chuyến đi đã thành công mà không đem đến cho bà Mina dịu dàng nhất của chúng ta hay làm bà ấy run sợ cả khi thức lẩn khi ngủ dù với dấu hiệu, âm thanh hay mùi vị của những điều kinh dị mà có thể bà ấy sẽ không bao giờ quên. Chúng ta cũng học được một bài học nữa có thể cần phải tìm hiểu kỹ là ngay những con thú hoang tuân theo lệnh của bá tước cũng không tuân theo sức mạnh tinh thần của hắn, xem nào, những con chuột đã đến theo tiếng gọi của hắn, giống như hắn đã gọi bầy sói từ trên đỉnh lâu đài để ngăn cản chuyến đi của anh hay để chấm dứt tiếng gào khóc của bà mẹ tội nghiệp, dù chúng đã đến theo lệnh hắn, chúng đã bỏ chạy tóan loạn trước bầy chó nhỏ bé của anh Arthur bạn tôi. Chúng ta có trước mặt mình những con quái vật mới, những mối nguy hiểm mới, những nỗi sợ hãi mới, và con quái vật này… Hắn sẽ không dùng sức mạnh của hắn với thế giới hoang dã chỉ trong đêm nay. Lúc này thì hắn đã đi đâu đó. Được lắm! Nó sẽ cho chúng ta cơ hội để có được một số cách để thét lên câu “chiếu tướng” trong ván cờ này, ván cờ mà chúng ta chơi với sự đặt cược là tâm hồn con người. Còn bây giờ thì chúng ta hãy về nhà. Bình minh đã sắp đến, và chúng ta có lý do để hài lòng với những công việc đầu tiên của chúng ta trong đêm nay. Công việc này sẽ khiến chúng ta mất nhiều ngày đêm theo đuổi, nó đầy rẫy nguy hiểm, nhưng chúng ta phải tiếp tục, và sự nguy hiểm càng lúc càng co lại gần chúng ta.”

Ngôi nhà khá yên tĩnh khi chúng tôi trở về, trừ ra một số kẻ tội nghiệp đang gào thét từ một khu dành riêng ở khá xa, và những âm thanh gầm gừ khẽ từ phòng Renfield. Con người khốn khổ tội nghiệp ấy không nghi ngờ gì nữa lại đang tự tra khảo mình, sau khi đã trở nên điên loạn và không cần biết gì về sự đau đớn nữa.

Tôi nhón chân đi về căn phòng của mình, và thấy Mina đã ngủ, thở nhẹ đến nỗi tôi phải lắng tai mới nghe được. Nàng trông trắng hơn thường lệ. Tôi hy vọng cuộc họp tối nay sẽ không làm nàng phải phiền muộn. Tôi thật sự nhẹ nhõm rằng nàng sẽ không tham dự vào những công việc tương lai của chúng tôi nữa, thậm chí trong các cuộc bàn tính của chúng tôi. Nó thật là một sự căng thẳng quá mức sức chịu đựng của một người phụ nữ. Đầu tiên tôi không nghĩ đến điều này, nhưng bây giờ thì tôi đã biết rõ hơn. Vì vậy tôi rất vui khi mọi chuyện đã được xác định rõ. Có những điều có thể sẽ làm nàng hỏang hốt khi nghe thấy, và lúc này che giấu chúng trước nàng có thể còn tệ hơn là nói với nàng nếu như nàng đã có ý nghi ngờ rằng có một sự giấu diếm nào đó. Do đó công việc của chúng tôi sẽ là một cuốn sách đóng kín trước mặt nàng, đến lúc cuối cùng, khi mà chúng tôi có thể nói với nàng rằng mọi chuyện đã kết thúc, và thế giới này đã được giải phóng khỏi con quái vật dưới âm ty kia. Tôi dám nói rằng sẽ rất khó khăn để giữ im lặng giữa những người hoàn toàn tin cậy nhau như chúng tôi, nhưng tôi sẽ cương quyết, và ngày mai tôi sẽ phủ một màn đen lên những sự việc của tối nay. Tôi ngủ trên ghế sofa, để không làm rộn nàng.

Ngày 1 tháng Mười, sau đó. – Tôi nghĩ rằng thật là tự nhiên khi tất cả chúng tôi đều ngủ quá giấc, bởi vì ngày hôm trước đã quá bận rộn và đến đêm thì hầu như chẳng ngủ chút nào. Thậm chí Mina cũng cảm thấy kiệt sức, vì mặc dù tôi đã ngủ đến khi mặt trời lên cao, tôi vẩn thức dậy trước nàng, và phải gọi hai hoặc ba lần nàng mới thức dậy. Thực tế là, nàng đã có một giấc ngủ say đến nỗi vài giây sau nàng mới nhận ra tôi, nhưng nhìn tôi với một vẻ hỏang sợ xa vắng, cái nhìn của một người vừa trải qua một cơn ác mộng. Nàng phàn nàn rằng nàng còn mệt lắm, và tôi để nàng ngủ thêm. Chúng tôi bây giờ đã biết rằng có hai mươi mốt chiếc hộp đã được mang đi, và nếu có nhiều chiếc hộp được mang đi như vậy theo bất kỳ cách nào, chúng tôi cũng có thể lần theo dấu vết của tất cả chúng. Tất nhiên, điều đó sẽ là một sự lao động khó khăn hiển nhiên, và các vấn đề sẽ được xác định rõ hơn sớm hơn. Tôi sẽ tìm Thomas Snelling hôm nay.

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD

Ngày 1 tháng Mười. – Tôi thức giấc khi trời đã gần đứng bóng bởi tiếng chân của Giáo sư đi vào phòng. Ông ta có vẻ vui và phấn khởi hơn thường lệ, như vậy chắc chắn rằng những công việc đêm qua đã giúp ông ấy giải quyết một số vấn đề còn tồn đọng trong tâm tưởng.

Sau khi nói qua về cuộc mạo hiểm tối hôm qua ông thình *** h lên tiếng, “Bệnh nhân của anh làm tôi rất chú ý. Tôi có thể đi thăm ông ta với anh không? Hoặc, nếu như anh quá bận rộn, tôi sẽ đi một mình nếu như có thể được. Đây là lần đầu tôi thấy một người bệnh tâm thần triết lý, và đó là một lý do hấp dẩn đấy.”

Tôi có một số công việc phải giải quyết, vì vậy tôi nói ông ấy rằng tôi sẽ rất vui nếu ông ấy có thể đi một mình, và tôi không muốn để ông ấy phải chờ đợi, vì vậy tôi gọi một người hầu và dặn anh ta những chỉ thị cần thiết. Trước khi giáo sư rời khỏi phòng tôi khuyến cáo ông ấy đừng có những ấn tượng sai lầm về người bệnh của tôi.

“Nhưng,” ông ta trả lời, “tôi muốn ông ấy nói chuyện về chính bản thân anh ta và về ảo tưởng của anh ấy trong việc tiêu thụ cuộc sống. Ông ta đã nói với bà Mina, như tôi đã đọc trong nhật ký của anh vào hôm qua, và ông ta đã có niềm tin về việc này. Vì sao anh lại mỉm cười, bạn John?”

“Xin lỗi,” tôi nói, “nhưng câu trả lời là ở đây.” Tôi đặt tay trên xấp giấy được đánh máy. “Khi những người tỉnh táo chúng ta học từ kẻ tâm thần những phát biểu về cách nào ông ta tiêu thụ cuộc sống, miệng của ông ta lại nồng nặc mùi tanh của những con ruồi và nhện mà ông ta chỉ vừa kịp xơi chúng trước khi bà Harker bước vào phòng.”

Đến lượt mình, Van Helsing mỉm cười. “Tốt!” ông ta nói. “Trí nhớ của anh chính xác, bạn John ạ. Tôi cũng nên nhớ điều này. Và lần này rất rõ ràng rằng suy nghĩ và trí nhớ sẽ tạo nên một bài học đáng giá trong một trường hợp tâm thần bệnh lý. Có thể tôi sẽ thu được nhiều kiến thức từ sự điên khùng của một người điên hơn là tôi sẽ thu được qua lời dạy của những bậc thông thái nhất. Ai mà biết được, phải không?”

Tôi tiếp tục công việc, và giải quyết chúng chóng vách. Có vẻ là thời gian mới trôi qua rất ít, nhưng Van Helsing đã trở về phòng nghiên cứu.

“Tôi quấy rầy anh chăng?” ông ta hỏi một cách lịch sự khi đứng trước cửa.

“Hoàn toàn không,” tôi trả lời. “Xin mời vào. Công việc của tôi đã chấm dứt, và tôi đang tự do. Tôi có thể đi với ông, nếu ông muốn.”

“Điều đó không cần thiết nữa. Tôi đã gặp ông ta!”

“Thế ư?”

“Tôi sợ rằng ông ta không đánh giá cao tôi. Cuộc phỏng vấn của tôi rất ngắn. Khi tôi đi vào pòng ông ta đang ngồi trên một cái ghế đẩu ở giữa phòng, gối khuỷu tay lên đầu gối, và khuôn mặt của ông ấy tạo ra một bức tranh về sự bất mản ão não. Tôi nói với ông ta bằng một giọng vui vẻ nhất có thể được, cùng với nó là tất cả sự kính trọng mà tôi có thể tạo ra. Ông ta chẳng hề trả lời một tí gì. “Ngài có biết tôi không?” tôi hỏi. Câu trả lời của ông ta rất chắc nịch. ‘Tôi biết ông rất rõ, ông là gã già Van Helsing đần độn. Ước gì ông cùng với bộ óc đầy những lý thuyết ngu xuẩn của ông biến đi một chỗ nào khác. Mẹ kiếp tất cả những bộ óc Hà Lan đần độn!’ Và ông ta không nói thêm gì nữa, mà ngồi lặng với vẻ rầu rĩ kiên định đối với tôi như thể tôi chẳng hề có mặt trong phòng. Thời điểm bắt đầu cho cơ hội học hỏi của tôi đối với một người tâm thần thông minh là như vậy đó, nên tôi sẽ đi, nếu như tôi có thể, tự an ủi mình bằng một vài từ vui vẻ với tâm hồn hiền dịu của bà Mina. Bạn John, tôi có một niềm vui không thốt ra lời rằng bà ta sẽ không phải đau đớn thêm nữa, sẽ không cần lo lắng thêm với những điều khủng khiếp của chúng ta. Mặc dù chúng ta sẽ mất đi sự giúp đỡ của bà ấy, nhưng như vậy thì tốt hơn.”

“Tôi đồng ý với ông với tất cả tâm can mình,” tôi trả lời nồng nhiệt, vì tôi muốn ông trở nên yết ớt hơn với vấn đề này. “Bà Harker tốt hơn là nên đứng ngòai mọi chuyện. Mọi việc đã đủ tồi tệ cho chúng ta, cho tất cả những người đàn ông trên thế giới này, và cho những ai đã gắn chặt với chúng ta, nhưng không có chỗ cho một người phụ nữ, và nếu bà ấy còn tiếp tục tiếp xúc với những công việc này, nó sẽ nhất định làm bà ấy sụp đổ theo thời gian.”

Rồi Van Helsing đi hội ý với bà Harker còn Harker, Quincey và Art cùng đi tìm kiếm dấu vết của những cái thùng đất. Tôi sẽ chấm dứt công việc của mình và chúng tôi sẽ gặp lại nhau tối nay.

NHẬT KÝ CỦA MINA HARKER

Ngày 1 tháng Mười. – Thật là lạ đối với tôi khi giữ mình trong lặng lẽ như tôi đã làm hôm nay, sau khi có được lòng tin tuyệt đối của Jonathan sau ngần ấy năm trời, để thấy anh ấy rõ ràng là né tránh một vấn đề hiển nhiên, và đó chính là mấu chốt của tất cả. Sáng nay tôi đi ngủ trễ sau ngày hôm qua mỏi mệt, và dù Jonathan cũng đi ngủ trễ, anh ấy vẩn thức sớm hơn. Anh ấy có nói chuyện với tôi trước khi đi ra, chưa bao giờ anh ấy nói năng dịu ngọt và âu yếm đến như vậy, nhưng anh ấy chẳng hề nói một lời về những gì xảy ra trong chuyến thám hiểm ngôi nhà của bá tước. Và hẳn là anh ấy biết chuyện ấy thật làm khó chịu với tôi như thế nào. Anh chàng tội nghiệp! Tôi nghĩ rằng điều ấy thậm chí hẳn phải làm anh ấy buồn khổ hơn là tôi nữa. Tất cả bọn họ đều đồng ý rằng tốt nhất là tôi không tham dự thêm bất cứ điều gì trong cái công chuyện khủng khiếp này, và tôi đã bằng lòng. Nhưng cứ nghĩ rằng anh ấy lại giấu tôi một chuyện gì đó! Và bây giờ tôi đang gào khóc như một kẻ ngu khờ, khi tôi biết rằng điều đó xuất phát từ tình yêu vô bờ của chồng tôi và từ những ước nguyện thật, thật là cao đẹp của những người đàn ông khỏe mạnh khác.

Điều đó làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Phải rồi, một ngày nào đó Jonathan sẽ nói với tôi tất cả. Và đừng để cho một lúc nào đó anh ấy nghĩ rằng tôi đã từng có lúc che giấu anh ấy một điều gì, tôi vẩn phải luôn giữ cuốn nhật ký này. Và nếu anh ấy nghi ngờ sự thật tôi sẽ cho anh ấy xem, cho đôi mắt thân yêu của anh ấy đọc mọi dòng suy nghĩ của tôi đã được ghi vào đây. Hôm nay tôi cảm thấy buồn và mất tinh thần đến kỳ lạ. Tôi nghĩ rằng đó là do tác động của những sự kiện khủng khiếp vừa qua.

Tối hôm nay tôi đi ngủ khi những người đàn ông khởi hành, đơn giản chỉ vì họ bảo tôi làm thế. Tôi không cảm thấy buồn ngủ, mà chỉ thấy vô cùng khó chịu bứt rứt. Tôi nghĩ về những gì đã xảy ra từ khi Jonathan đến gặp tôi ở London, và tất cả mọi chuyện có vẻ giống như một bi kịch khủng khiếp, trong đó số phận đã tàn nhẫn ấn mọi chuyện vào kết cục định mệnh. Mọi điều đã mang lại một điều rằng, bất kể nó đúng với tôi như thế nào, cái nổi bật nhất trên những gì đã xảy ra là sự xót xa. Nếu tôi không đi đến Whitby, có thể Lucy tội nghiệp thân yêu bây giờ vẩn còn ở lại với chúng ta. Bạn ấy đã không đến khu nghĩa địa trước khi tôi đến, và nếu bạn ấy không đến đấy trong thời gian ở với tôi bạn ấy đã không mộng du. Và nếu bạn ấy không đến ngủ lại đấy vào ban đêm, thì con quái vật kia đã không thể tàn phá bạn ấy như hắn đã làm. Ôi, vì sao tôi lại bến Whitby nhỉ? Thôi nào, lại khóc nữa rồi! Hôm nay chuyện gì đã xảy ra cho mình thế nhỉ? Tôi phải giấu chuyện này với Jonathan mới được, kẻo anh ấy lại biết được rằng tôi đã khóc đến hai lần trong một buổi sáng… Tôi, người không bao giờ khóc vì chuyện của mình, và là người anh ấy không bao giờ để cho rơi một giọt lệ, con người thân yêu ấy sẽ bày ra trái tim cáu kỉnh của anh ta mất. Tôi sẽ phải giữ một vẻ mặt bình thản, và nếu tôi cảm thấy muốn rơi lệ, anh ấy sẽ không bao giờ nhìn thấy. Tôi cho rằng đó chỉ là một trong những bài học mà những người phụ nữ tội nghiệp chúng ta phải học lấy…

Tôi không thể nhớ chắc được mình đã thiếp ngủ như thế nào vào tối hôm qua. Tôi chỉ nhớ là mình thình *** h nghe thấy tiếng chó sủa loạn lên và rất nhiều tiếng động kỳ lạ, giống như tiếng cầu kinh đầy lộn xộn vẳng ra từ căn phòng của ông Renfield, ở đâu đó trong đấy. Và rồi sự im lặng đã bao trùm lên tất cả, sự im lặng thăm thẳm làm tôi giật mình, tôi thức dậy và nhìn ra ngòai cửa sổ. Tất cả đều tối tăm và tĩnh mịch, những bóng đen được rọi lên bởi ánh trăng hình như đều chứa đầy những sự im lặng bí ẩn của chính chúng. Không có gì có vẻ sinh khí, mà tất cả đều có vẻ mờ mịt và bất động như cái chết hoặc sự hủy diệt, từ đó một làn sương trắng mỏng manh, gần như không thể cảm thấy được đang chậm chạp trườn ngang qua bãi cỏ hướng đến căn nhà, nó hình như cũng có riêng cảm giác và sinh khí của mình. Tôi nghĩ rằng những suy nghĩ lan man của mình có thể khiến cho tôi cảm thấy dễ chịu, nên khi tôi trở về giường tôi cảm thấy mình được bao trùm bởi một cảm giác lơ mơ. Tôi nằm một lúc, nhưng không thể ngủ được, vì vậy tôi thức dậy và nhìn ra cửa sổ lần nữa. Sương mù đang lan rộng, và bây giờ bao phủ quanh căn nhà, đến nỗi tôi có thể nó đọng thành một lớp dày trên tường. Người đàn ông tội nghiệp kia vẩn tiếp tục la hét lớn ồn ào hơn bao giờ, và dù tôi không thể phân biệt từng lời ông ta nói, tôi vẩn có thể xác định tương đối trong âm giọng của ông cái vẻ van nài cuồng nhiệt của riêng ông. Sau đó là những âm thanh của sự vùng vẫy, và tôi biết rằng những người phục vụ đã đến coi sóc ông. Tôi sợ đến nỗi tôi vội tuồn về giường, kéo áo quần phủ lên đầu, đưa ngón tay lên bịt lỗ tai. Tôi không có một giấc ngủ sâu, như tôi nghĩ rằng cuối phải thế, mà tôi đã thiếp đi trong những giấc mơ. Tôi không nhớ gì cả đến khi trời sáng, khi Jonathan đánh thức tôi. Tôi nghĩ rằng tôi đã phải cố và mất một lúc để nhận ra mình đang ở đâu, và nhận ra Jonathan là người đang cúi xuống chỗ tôi. Giấc mộng của tôi thật là kỳ dị, và gần như rằng nó tiêu biểu cho cách mà các suy nghĩ của tôi trộn lẫn vào nhau, hoặc là tiếp tục trong những giấc mơ.

Tôi nghĩ rằng tôi đang ngủ, và chờ đợi Jonathan trở về. Tôi rất khó chịu về anh ấy, và không còn sức lực để phản ứng, chân tôi, tay tôi, và óc tôi nặng trịch, và không có gì có thể hoạt động được một cách bình thường. Đoạn tôi tôi ngủ một cách khó khăn và lo lắng. Sau đó tôi bắt đầu nhận ra rằng bên trên tôi không khí trở nên nặng nề, ẩm ướt và lạnh lẽo. Tôi kéo quần áo xuống khỏi mặt, và trong sự ngạc nhiên của mình, tôi nhận thấy tất cả chung quanh đều mờ tối. Ngọn đèn khí mà tôi đã để chờ Jonathan đã được vặn xuống, chỉ còn giống như một vệt đỏ nhỏ trong màn đêm. Tôi nhận thức rằng mình đã đóng cửa sổ trước khi lên giường. Tôi muốn thức dậy để kiểm chứng điều này, nhưng cái cảm giác lơ mơ nặng nề giống như một sợi dây xích khóa chặt chân tay tôi và thậm chí ý chí của tôi nữa. Tôi vẩn nằm và chịu đựng, và đó là tất cả những gì có thể. Tôi nhắm mắt, nhưng vẩn có thể nhìn thấy qua mi. (Thật là tuyệt với những mưu mẹo mà những giấc mơ dùng với chúng ta, và thật là thuận tiện cho chúng ta tưởng tượng.) Sương mù càng lúc càng trở nên dày hơn, và tôi có thể nó lan đến như thế nào, bởi vì tôi thấy nó giống như làn khói, hoặc giống như hơi nước bốc lên trắng xóa, tỏa ra, không chỉ từ cửa sổ, mà còn từ các khớp nối trên cửa. Nó càng lúc càng dày, và có vẻ như đang tập trung lại thành một cột khói trong phòng, trên đinh tôi có thấy một luồng sáng như một con mắt đỏ. Đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng như thể cái cột mây khói kia lúc này đang quay trong phòng, và vẳng đến những lời trong kinh thánh, “một cột mây khói vào ban ngày và lửa vào ban đêm.” Thật sự đó là những lời chỉ dẩn tâm linh đang đến với tôi trong giấc ngủ? Nhưng cây cột bây giờ đang là sự kết nối của lời chỉ dẩn kia trong cả đêm và ngày, do ngọn lửa trong con mắt đỏ kia, khiến cho tôi như bị thôi miên, cho đến tận lúc tôi thấy nó phân chia ra, và hình như đang chiếu vào tôi trong sương khói kia là một đôi mắt đỏ rực, giống như Lucy đã nói với tôi trong chuyến du hành tâm thần ngắn ngủi kia trên vách đá, lúc tia nắng mặt trời lịm tắt đập vào khung cửa sổ của nhà thờ Thánh Mary. Thình *** h sự kinh hỏang bùng lên trong tôi như là lúc Jonathan nhìn thấy những người phụ nữ khủng khiếp kia hiện ra trong thế giới thực qua đám bụi mù quay cuồng dưới ánh trăng, và trong giấc mơ tôi hẳn là đã ngất xỉu đi, vì tôi thấy tất cả trở nên tối đen. Nỗ lực giác quan cuối cùng mà trí tưởng tượng mang đến cho tôi là một khuôn mặt trắng tóat thâm tím đang cuối xuống chỗ tôi xuyên qua làn sương mù.

Tôi phải cẩn thận với nhữngấcccc mơ mới được, bởi vì nếu nó sẽ thủ tiêu lý tính của con người nếu cứ diễn ra diễn lại nhiều lần. Tôi sẽ nói bác sĩ Van Helsing hoặc bác sĩ Seward cho tôi cái gì đó khiến tôi có thể ngủ được, nhưng tôi lại sợ đánh thức họ. Một cơn mơ lúc này sẽ biến thành những người phụ nữ kia mang đến sự khủng khiếp cho tôi. Tối nay tôi sẽ thật cố gắng để có thể ngủ một cách tự nhiên. Nếu không, ngày mai tôi sẽ nói họ cho tôi một liều chlorat, dùng một lần thì chắc không hại gì, và nó sẽ khiến tôi ngủ ngon. Tối nay tôi sẽ mệt hơn nếu như tôi chẳng ngủ được gì cả.

Ngày 2 tháng Mười, 10 giờ sáng. – Tối hôm qua tôi đã ngủ, nhưng chẳng mộng mị gì. Hẳn là tôi đã ngủ rất say, vì tôi chẳng bị Jonathan đến giường đánh thức dậy, nhưng giấc ngủ không giúp tôi phục hồi, vì hôm nay tôi cảm thấy mệt và mất tinh thần kinh khủng. Cả ngày hôm qua tôi cố đọc sách, hoặc nằm ngủ lơ mơ. Đến chiều, ông Renfield muốn xin gặp tôi. Người đàn ông tội nghiệp này rất lịch thiệp, và khi tôi đến ông ấy hôn tay tôi và xin Chúa cầu phúc cho tôi. Nó làm cho tôi phần nào xao xuyến ghê gớm. Tôi khóc khi nghĩ đến ông ấy. Đó là một sự mềm yếu mới, và tôi phải cẩn thận về điều này mới được. Jonathan sẽ đau khổ lắm nếu anh ấy biết tôi khóc. Anh ấy và những người khác đi ra ngòai đến tận giờ cơm chiều, và tất cả bọn họ trở về trong mệt mỏi. Tôi làm tất cả những gì có thể để họ có thể vui vẻ lại, và tôi cho rằng những nỗ lực đó tốt choi tôi, nó khiến cho tôi quên đi sự mệt mỏi của mình.. Sau bữa ăn tối, họ lại bắt tôi đi nằm, và sau đó ra ngòai hút thuốc, họ nói thế, nhưng tôi biết họ đang muốn nói nói chuyện với nhau về những gì diễn ra trong ngày. Qua dáng điệu của Jonathan, tôi biết rằng anh ấy có một điều gì rất quan trọng phải truyền đạt. Tôi không đến nỗi quá buồn ngủ như tôi tưởng, nên trước khi họ đi tôi hỏi bác sĩ Seward cho tôi một ít thuốc ngủ, vì tôi không ngủ ngon vào đêm trước. Anh ta rất tử tế, cho tôi uống một ngụm thuốc ngủ, nói rằng nó không gây hại gì cả, nó rất nhẹ… Tôi uống và đợi giấc ngủ vẩn còn đang trốn tránh đến. Hy vọng rằng tôi không làm cái gì sai, bởi vì khi giấc ngủ bắt đầu ve vãn tôi, thì nỗi sợ hãi mới lại đến, và có thể là tôi đã rất ngu ngốc khi cướp đi của chính mình năng lực thức tĩnh. Có thể là tôi muốn vậy. Giấc ngủ đến rồi đây. Xin tạm biệt.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.