Ngày 1 tháng Mười, buổi chiều. – Tôi đến nhà của Thomas Snelling tại Bethnal Green để tìm ông ta, nhưng không may ông ấy đang ở trong tình trạng chẳng nhớ được gì cả. Cái viễn cảnh bia bọt mà tôi vẽ ra hy vọng sẽ được việc lại khiến cho ông ta sớm rơi vào tình trạng trác táng. Tuy nhiên, từ vợ ông, một người xem ra khá tử tế, một tâm hồn đáng thương, tôi biết được rằng ông ta chỉ là phụ tá của Smollet, một trong hai người đồng nghiệp chịu trách nhiệm. Tôi đánh xe đến Walworth và thấy ông Joseph đang ở nhà, mặc áo sơ mi dài tay, đang rót trà ra khỏi một cái đĩa. Ông ta là một người tử tế, thông minh, rõ là một người tốt bụng, chắc chắn thuộc kiểu người yêu lao động, và rất có đầu óc. Ông ta nhớ tất cả mọi chuyện về những cái hộp, và từ một cuốn sổ ghi chép quăn góc tuyệt diệu, do ông lấy ra từ một chỗ bí ẩn nào đó trên quần áo, đầy những chữ tượng hình bằng viết chì đậm đã phai đi hơn nữa, ông ta cho tôi biết đích đến của những chiếc hộp. Ông nói rằng sáu cái đã được chất lên xe hàng mà ông lấy từ Carfax và mang đến 197 đường Chicksand, Thị trấn Tận Cùng Một Dặm Mới, và sáu hộp khác ông đặc cọc tại hồ Jamaica, Bermondsey. Nếu tay bá tước kia muốn phân bố những thứ khủng khiếp của hắn khắp Luân Đôn, thì những nơi trên sẽ là những lựa chọn đầu tiên để phân bổ, sau đó hắn có thể phân phối rộng rãi hơn. Ý nghĩa bộc lộc qua những động thái của các sự việc trên khiến tôi nghĩ rằng hắn có thể không chỉ giới hạn mình ở hai đầu London. Bây giờ hắn đang vươn xa tới phía đông của bờ biển phía bắc, về phía đông của bờ biển phía nam, và vươn xuống miền nam. Phía bắc và phía tây hẳn nhiên cũng không nằm ngòai những sự sắp xếp ma quái của hắn, chỉ để lại thành phố cô độc này ngay tại chính trái tim của London đô hội ở phía tây nam và phía tây. Tôi quay lại gặp Smollet, và hỏi xem ông ấy có biết gì thêm về bất kỳ những cái hộp nào khác được mang đi từ Carfax.
Ông ta trả lời, “Thật tuyệt, ngài đã đối xử với tôi rất tốt”, trước đó tôi đã đưa cho ông ta nữa đồng sovereign, ” và tôi sẽ nói với ngài tất cả những gì tôi biết. Tôi nghe người đàn ông được gọi tên Bloxam nói vào bốn đêm trưóc tại “Are and Ounds, trong ngõ hẻm Pincher, khi ông ta cùng bạn vừa hòan thành xong một công việc vất vả tại căn nhà cổ ở Purfleet. Có không nhiều những công việc đại loại như vậy đâu, và tôi nghĩ rằng có thể Sam Bloxan nói với ngài được nhiều thứ lắm.”
Tôi hỏi ông ta xem có thể tìm được người kia ở đâu. Tôi nói rằng ông ta sẽ có nữa đồng sovereign nữa nếu ông nói được địa chỉ. Khi đó ông ta nuốt một ngụm trà và đứng dậy, nói rằng ông sẽ bắt đầu đi tìm kiếm loanh quanh đâu đó thử.
Ngay tại cửa ông ta dừng lại và nói, “Xem này, thưa ngài, xem ra thật không phải khi tôi giữ ngài lại đây. Có thể tôi sẽ tìm thấy Sam sớm hoặc không, nhưng dù thế nào đi nữa ông ta cũng không thích nói gì nhiều với ngài tối nay đâu. Sam là một người rất đặc biệt khi ông ta bắt đầu say lúy túy. Nếu ngài có thể cho tôi một phong bì có dán tem cùng địa chỉ bên trên, tôi sẽ tìm ra chỗ của Sam và gửi đến cho ngài tối nay. Nhưng ngài nên gặp ông ta vào lúc sáng sớm, đừng bao giờ trước bữa nhậu ban đêm.”
Đó là tất cả những điều đã được làm, và một cô bé đã phóng đi với một penny để mua một cái phong bì cùng một xấp giấy để giữ lại số tiền lẻ. Khi cô ta trở về, tôi ghi địa chỉ lên phong bì và dán tem, và khi Smollet một lần nữa trung thực hứa hẹn rằng sẽ gửi cho tôi địa chỉ khi tìm thấy, tôi lên đường về nhà. Dù sao đi nữa chúng tôi cũng đang lần theo đúng dấu vết, Tối nay tôi rất mệt mỏi, và tôi muốn đi ngủ. Mina ngủ thiếp đi rất nhanh, và trông nàng khá xanh xao.Mắt nàng nhìn giống như nàng đã khóc. Em tội nghiệp thân yêu, anh không hề nghi ngờ rằng việc giữ kín mọi chuyện với em sẽ khiến em rất bứt rứt, và có thể sẽ khiến em khó chịu gấp đôi với anh và những người khác. Nhưng tốt nhất là phải như thế. Lúc này thất vọng và lo lắng hơn là để làm tan vỡ thần kinh của nàng. Bác sĩ đã đúng khi khẳng định rằng nàng phải tránh xa những câu chuyện khủng khiếp của chúng tôi. Tôi phải cứng rắn, bởi vì gánh nặng đặc biệt của sự im lặng trên tôi phải được giải tỏa. Tôi không bao giờ trở về chủ đề này với nàng dù ở bất kỳ tình huống nào. Thật sự ra, đó không phải là một chuyện khó khăn, bởi vì chính bản thân nàng cũng trở nên thật dè dặt với chủ đề này, và chẳng hề nói gì về bá tước hay những câu chuyện của ông ta kể từ khi chúng tôi nói cho nàng biết những quyết định của mình.
Ngày 2 tháng Mười, buổi tối. – Một ngày dài bận rộn và vất vả. Trước tiên bưu điện chuyển trực tiếp đến tôi một phong bì với một giấy nhỏ đính kèm, trên đó được viết bằng viết chì gỗ với dòng chữ viết ngóay, “Sam Bloxam, Korkrans, 4 Phố cụt Poters, đường Bartel, Walworth. Hỏi thêm về ‘depite’.”
Tôi để bức thư trong giường và đứng dậy mà không làm đánh thức Mina. Nàng vẩn còn ngủ say trong nặng nề và xanh xao, trong không khỏe tí nào. Tôi quyết định không đánh thức nàng, và khi tôi trở về sau cuộc tìm kiếm mới này, tôi sẽ sắp xếp để đưa nàng về Exeter. Tôi nghĩ rằng nàng sẽ vui hơn khi ở trong ngôi nhà của chúng tôi, và những công chuyện thường nhật sẽ khiến nàng khuây khỏa hơn làm ở đây và chìm trong sự bỏ mặt của chúng tôi. Tôi chỉ gặp bác sĩ Seward một chốc, nói với anh ta nơi tôi đã đi, hứa sẽ trở về nói hết khi tôi tìm thấy cái gì đó. Tôi đánh xe đến Walworth và với đôi chút vất cả, cũng đã tìm thấy Phố cụt Poter chứ không phải Phố cụt Potter. Tiu nhiên, khi tới được khu phố cụt này, tôi lại chẳng khó khăn gì để tìm thấy ngôi nhà tranh của Corcoran.
Khi tôi hỏi người đàn ông ra cửa về “depite”, ông ta lắc đầu và nói, “Tôi không biết. Không có người như vậy ở đây. Tôi chẳng bao giờ nghe nói đến ông ta trong những ngày tươi đẹp này. Đừng tin vào bất kỳ ai trong những hạng người đang sống ở đây hoặc bất cứ nơi đâu.”
Tôi lấy bức thư của Smollet ra, và khi đọc nó thì có vẻ như những bài học về đánh vần đã dẩn hướng cho tôi. “Ông là cái gì chứ?” tôi hỏi.
“Tôi là ‘depity’,” ông ta trả lời.
Ngay tức khắc tôi thấy rằng mình đã đi đúng đường. Vấn đề đánh vần ngữ âm đã một lần nữa làm tôi lạc lối. Với một nữa crown gợi ý cho những kiến thức ủy quyền cho tôi sử dụng, tôi biết rằng ông Bloxam, người đã ngủ với phần bia còn lại của ông ta trong đêm trước tại Corcoran, đã rời bỏ công việc của mình tại Poplar vào năm giờ sáng nay. Ông ta không thể nói với tôi chỗ ấy ở đâu, nhưng ông ta cũng nêu lên được một ý mập mờ rằng đó là một cái “coi chừng những cú nanh”, và với một lời gợi ý sáng sủa như thế tôi bắt đầu tìm Poplar. Khỏang mười hai giờ thì tôi tìm được một lời gợi ý về tòa nhà này, và tôi đến một tiệm cà phê, nơi một số công nhân đang ăn bữa chiều. Một trong số họ cho rằng có thể đó là tòa nhà “dự trữ lạnh” ở ngay đường Thiên Thần Chữ Thập, đó là nơi lý tưởng cho “coi chừ những cú nanh” tôi lập tức đánh xe đi. Một cuộc phỏng vấn với một gác cổng cáu gắt và người đốc công còn cáu gắt hơn, cả hai được an ủi bằng những đồng xu đầy uy lực, tôi đã có được dấu vết của Bloxam. Ông ta đề nghị với tôi hãy sẳn lòng trả tiền lương công nhật cho người đốc công của ông ta để có quyền hỏi ông ta về những vấn đề cá nhân. Ông ta là một gã có đủ trí thông minh, dù rất khó ưa với giọng nói và tác phong của mình. Khi tôi hứa với ông ta sẽ trả tiền để lấy những thông tin của ông ta và cho ông ta tiền đặt cọc, ông ta nói với tôi rằng ông ta đã làm hai cuộc viễn du giữa Carfax và ngôi nhà ở Piccadilly, và lấy ra khỏi ngôi nhà này đến nơi kia chín cái hộp lớn, “nặng ghê gớm,” với một con ngựa và cỗ xe được ông ta thuê cho công chuyện này.
Tôi hỏi ông ta có thể nói được số nhà của căn nhà ở Piccadilly hay không, thì ông ta trả lời, “Vâng, thưa ngài, tôi quên mất con số rồi, nhưng chỉ có vài cánh cửa từ một cái nhà thờ lớn hoặc đại loại thế mới được xây gần đây. Đó cũng là một ngôi nhà cũ kỹ bụi bậm, mặc dù những cái hộp đấy được mang đến từ một căn nhà lộng lẫy chẳng hề có tí bụi nào.”
“Hai căn nhà đều chẳng có ai thì làm sao ông vào nhà được?”
“Có một ông già hẹn tôi đợi ở trong một căn nhà ở Purfleet. Ông ta giúp tôi nâng mấy cái hộp và bỏ nó lên xe bò. Mẹ kiếp, đó một ông già khỏe nhất mà tôi từng đụng phải, và ông ta là một ông già, ria trắng, một ông già gầy ốm mà ngài có thể cho rằng không thể ném nổi một con cá trích.”
Làm sao diễn tả được sự run rẩy đang xuyên vào tôi!
“Thế đấy, ông ta nâng những cái hộp của ông ta như thể nó là những cốc trà, và tôi bị thổi tung đi khiến tôi không thể điều khiển nổi mình nữa, và tôi thì đâu có phải là một con gà con.”
“Làm sao mà ông vô được căn nhà ở Piccadilly?” tôi hỏi.
“Ông ta cũng có ở đấy luôn. Ông ta hẳn là đã khởi hành và đến đó trước tôi, bởi vì khi tôi rung chuông thì ông ta tự mình ra mở cửa và giúp tôi mang những cái hộp vô tiền sảnh.”
“Cả chín cái?” tôi hỏi.
“Phải, lần đầu năm và lần sau bốn. Đó là một công việc cực khổ, và chẳng thể nhớ nổi làm sao tôi về đến nhà.”
Tôi ngắt lời ông ta, “Vậy là những cái hộp để ở tiền sảnh”
“Vâng, cả đống đó đều rất lớn, và chẳng có gì khác ở đó.”
Tôi cố thêm một nỗ lực nữa. “Ông có cái chìa khóa nào không?”
“Chẳng lúc nào phải dùng chìa khóa hay cái gì khác cả. Ông già ấy được lắm, ông ta mở cửa tự mình và cũng tự đóng lại khi tôi xong việc. Tôi không nhớ cuối cùng là mấy giờ, nhưng đó là lúc đi uống bia.”
“Và ông không thể nhớ số nhà?”
“Không, thưa ngài. Nhưng ngài sẽ không gặp khó khăn về việc này đâu. Đó là những bậc đá cao phía trước với mái vòm trên nó, sẽ dẩn ngài đi đến chỗ cánh cửa.Tôi biết những bậc thang này, vì đã cùng ba kẻ lang thang khác vừa đến khiêng những cái hộp trên nó để kiếm một đồng xu. Người đàn ông già kia đã cho họ những đồng xilinh, và khi họ thấy họ đã có nhiều như vậy, họ muốn thêm. Nhưng ông ta đã xử một tên trong bọn họ bằng vai như thể ném hắn bay xuống các bậc thang, nên bọn kia lập tức cút đi với những lời chửi rủa.”
Tôi nghĩ rằng với những lời chỉ dẩn đó tôi có thể tìm thấy ngôi nhà, do đó tôi trả công ông bạn mình cho những thông tin trên, tôi bắt đầu đi đến Piccadilly. Tôi đã thu được những kinh nghiệm đau thương. Sự thật rõ là bá tước có thể tự mình xoay xở những cái hộp đó. Nếu đúng như vậy thì thời gian bây giờ là rất quý giá, bởi vì lúc này hắn ta có thể phân phối xong một khối lượng lớn bằng cách chọn thời gian hoạt động của mình để hòan thành công việc kia mà không ai theo dõi được. Tại gánh xiếc Piccadilly tôi đổi xe, và bước đi về hướng tây. Ở sau Hiến Pháp Nhỏ Hơn, tôi đi qua ngôi nhà được mô tả và hài lòng khi nhận thấy đó là một hang ổ được sắp xếp tiếp theo của Dracula. Ngôi nhau trông như có vẻ đã khá lâu chẳng có bóng người. Cửa sổ đóng một lớp bụi cửa chớp đóng kín. Tất cả sườn nhà lúc nào cũng tối tăm, và lớp thép lộ ra khi những nước sơn gần như tróc đi sạch. Rõ ràng là chỉ mới gần đây nơi này đã có một tấm bảng thông báo để trước ban công. Tuy nhiên nếu như vậy thì nó đã được giật mạnh đi, cái trụ đứng dùng để treo nó vẩn còn lại. Đằng sau tay vịn ban công tôi thấy rất nhiều tấm bảng để lộn xộn, với những đường vạch trắng sáng lên. Tôi có được một tình thế lý tưởng để có thể trông thấy những tấm bảng thông báo kia chưa bị bôi xóa, và như thế có thể sẽ có được một số gợi ý về người chủ căn nhà. Tôi nhớ lại những kinh nghiệm của mình trong cuộc điều tra và mua bán ở Carfax, và tôi không thể làm gì ngòai cảm giác rằng tôi có thể tìm thấy người chủ trước ở đấy, đồng nghĩa với việc khám phá và thu thập các khả năng truy nhập căn nhà này.
Lúc này chẳng có gì để tìm hiểu về phía Piccadilly, chẳng có thể làm gì hơn, tôi vòng ngược ra phía sau để tìm xem có cái gì đó có thể thu lượm từ hướng này hay không. Hang ổ này rất sống động, ngôi nhà Piccadelly gần như đang bị chiếm đóng. Tôi hỏi một hoặc hai người giữ ngựa và người giúp việc tôi bắt gặp xem họ có biết gì về ngôi nhà trống rỗng kia. Một trong số họ nói rằng gần đây anh ta có nghe thấy tiếng cái gì đó bị lấy đi, và rất gần đây thì có một tấm bảng thông báo “Để bán” được treo, nên có thể Mitchell, Các Con Trai và Candy, những nhân viên nhà đất có thể nói với tôi cái gì dó, bởi vì anh ta cho rằng anh nhớ đã trông thấy tên của công ty này trên tấm bảng. Tôi không mơ ước đến một cái gì đó đáng phấn khởi đến thế, hoặc là có được một người cung cấp tin có thể biết và đóan được nhiều chuyện như vậy, nên sau khi cám ơn anh ta với một dáng vẻ bình thường, tôi quay đi. Lúc này trời đã gần tối hơn, và khi đêm thu đang đến gần, tôi lại càng không để mất một chút thời gian nào. Lấy được địa chỉ của Mitchel, Sons & Candy từ sách chỉ dẩn của Berkeley, tôi nhanh chóng có mặt ở văn phòng của họ tại đường Sackville.
Một người đàn ông quý phái với dáng vẻ đặc biệt tinh tế đón tiếp tôi, nhưng ông ta không có sự cởi mở tương xứng. Được một lần nói với tôi về ngôi nhà Piccadilly, mà trong suốt cuộc nói chuyện ông ta gọi là “lâu đài” đã bán, ông ta quan tâm đến chuyện làm ăn của tôi như là phần kết cục. Khi tôi hỏi ai là người mua nó, ông ta mở to mắt, ngừng lại vài giây trước khi trả lời, “Nó đã được bán, thưa ngài.”
“Xin lỗi,” tôi nói , với sự lịch sự ngang bằng, “nhưng tôi có một lý do đặc biệt để mong mỏi biết được ai là người mua nó.”
Một lần nữa ông ta lại ngập ngừng lâu hơn, và càng nâng cặp lông mày của mình lên. “Nó đã được bán, thưa ngài,” câu trả lời ngắn gọn của ông ta một lần nữa lại được lặp lại.
“Hẳn thế rồi, ” tôi nói, “nhưng hẳn là ngài không phiền để cho tôi biết nhiều hơn.”
“Nhưng tôi phiền đấy,” ông ta trả lời. “Những câu chuyện làm ăn của khách hàng chúng tôi luôn được giữ an tòan trong những bàn tay của Mitchel, Các Con Trai và Candy.”
Ở ông ta hiện ra sự lạnh lẽo của lớp nước đầu tiên, và như thế thì đừng có tranh cãi với ông ta. Tôi nghĩ tốt nhất là nên gặp ông ta ở lãnh vực của riêng ông, nên tôi nói, “Khách hàng của ngài, thưa ngài, sẽ rất vui nếu có được một sự kiên quyết của người người bảo vệ được họ tin tưởng. Tôi là một người chuyên nghiệp.”
Và tôi đưa cho ông ta danh thiếp, “Trong trường hợp này tôi không bị thôi thúc bởi sự tò mò, tôi là người đại diện của huân tước Godalming, người mong mỏi muốn biết được rằng một phần tài sản của mình, ông ấy muốn nói rằng, sau này sẽ được an tòan.”
Những lời đó đã tạo nên một sự thay đổi đáng kể trong câu chuyện. Ông ta nói, “Tôi rất muốn được giúp đỡ ngài nếu như tôi có thể, ngài Harker, và đặc biệt một giúp đỡ chủ ngài. Chúng tôi đã một lần hân hạnh giải quyết một vấn đề nhỏ cho việc thuê một số căn buồng cho ông ấy khi ông ấy là ngài Arthur Holmwood đáng kính. Nếu ngài cho tôi biết địa chỉ của chủ ngài, tôi sẽ hỏi ý kiến người chủ nhà về vấn đề này, và sẽ ngay lập tức liên hệ với chủ nhân ấy bằng bưu điện tối nay. Kể ra cũng đáng nếu chúng ta có thể rời xa những luật lệ của mình để đưa những thông tin cần thiết cho người chủ nhân.”
Tôi muốn bảo vệ người bạn của mình, và không muốn tạo ra một kẻ thù, nên tôi cám ơn anh ta, cho anh ta địa chỉ của bác sĩ Seward và đi ra. Bây giờ trời đã tối, và tôi đang đói và mệt. Tôi uống một tách trà tại công ty Aeranted Bread và đi xuống Purfleet bằng chuyến xe lửa tiếp.
Đến nhà thì tôi thấy mọi người đã có mặt. Mina trông mệt mõi và xanh xao, nhưng nàng đang có một nỗ lực dễ thương để tỏ ra tươi tỉnh và phấn khởi. Điều đó làm tim tôi thắt lại khi nghĩ rằng tôi đã che giấu nàng một số điều gì đó và khiến cho nàng không được bình yên. Tạ ơn Chúa, đây sẽ là đêm cuối cùng nàng quan sát cuộc họp của chúng tôi với cảm giác chua chát về sự không tin tưởng của chúng tôi. Điều đó làm tôi lấy lại được can đảm để giữ nguyên ý kiến sáng suốt về việc giữ nàng đứng ngòai những câu chuyện ảm đạm của chúng tôi. Có vẻ như nàng đã có phần chịu đựng được điều này, hoặc là chính cái mục đích đã trở thành đáng ghét cho nàng, hoặc một lời bóng gió ngẫu nhiên đã khiến nàng thực sự run rẩy. Tôi rất mừng là chúng tôi đã đưa ra một nghị quyết đúng lúc, vì với một cảm giác như vậy, thì càng kiến thức chúng tôi càng thu thập được sẽ càng là một sự tra tấn cho nàng.
Tôi không thể nói với những người khác các khám phá trong ngày cho đến khi chúng tôi còn lại với nhau, nên sau bữa tối, với một chút âm nhạc để bảo vệ sự hiện diện thậm chí là giữa chúng tôi với nhau, tôi đưa Mina về phòng nàng để nàng ngủ. Cô gái thân yêu đó càng âu yếm với tôi hơn bao giờ hết, nàng bám lấy tôi như thể không muốn để tôi đi, nhưng chúng tôi chẳng có gì nhiều để nói và tôi đi ra. Tạ ơn Chúa, việc ngừng nói chuyện đã khiến chúng tôi chẳng còn gì khác biệt với nhau.
Khi tôi đi xuống trở lại thì mọi người đã tề tựu quanh ngọn lửa trong phòng nghiên cứu. Trên xe lửa tôi đá viết lại mọi chuyện trong nhật ký, và bây giờ việc đơn giản đọc lại nó cho họ chính là cách tốt nhất để cho họ có được những thông tin của riêng tôi.
Khi tôi chấm dứt, Van Helsing nói, “Thật là một ngày làm việc xuất sắc, bạn Jonathan. Không nghi ngờ gì nữa chúng ta đã theo đúng dấu vết của những cái hộp bị mất. Nếu chúng ta tìm thấy tất cả chúng ở trong căn nhà ấy, thì công việc của chúng ta đã gần đến đích. Nhưng nếu như có một số khác mất đi, chúng ta sẽ phải tìm kiếm cho đến khi chúng ta tìm thấy chúng. Đoạn chúng ta sẽ thực hiện công việc táo bạo sau cùng, săn đuổi con quái ấy đến cái chết thật sự của hắn.”
Chúng tôi ngồi im lặng một lúc và ngay khi đó ông Morris cất tiếng, “Hãy nói đi! Làm cách nào chúng ta có thể đi vào căn nhà đó?”
” Chúng ta sẽ vào cái khác,” Huân tước Godalming nhanh chóng trả lời.
“Nhưng, Art, điều đó là khác nhau. Chúng ta đột nhập căn nhà ở Carfax, nhưng chúng ta có bóng đêm và những bức tường công viên bảo vệ. Điều đó sẽ rất khác khi dây vào một vụ trộm ở Piccadelly, bất kể là ngày hay đêm. Tớ phải thú nhận rằng tớ chẳng thấy được cách nào để chúng ta vào trừ khi cái thằng cha nhân viên thân mến ấy có thể tìm cho chúng ta một thứ chìa khóa nào dó.”
Huân tước Godalming nhíu mày, rồi anh ta đứng dậy và đi về phía phòng. Ngay khi đó anh ta dừng lại và nói, quay lần lượt về từng người trong bọn tôi, “Cái đầu của Quincey thật tốt. Tiến hành một vụ trộm sẽ rất khó khăn. Chúng ta đành phải từ bỏ nó, nhưng chúng ta còn có một công việc khó khăn. Trừ phi chúng ta có thể tìm thấy được chùm chìa khóa của bá tước.”
Chúng tôi chẳng thể làm được gì tốt đẹp trước khi trời sáng, và cuối cùng cái khã dĩ được nhất là đợi đến khi huân tước Godalming có tin tức của Mitchell, chúng tôi quyết định sẽ không tiến hành thêm một bước nào nữa trước giờ ăn sáng. Chúng tôi có được một chút thỏai mái để ngồi và hút thuốc, tranh luận về các quan điểm tìm kiếm và chống đỡ khác nhau. Tôi có được cơ hội để để ghi vào nhật ký một lúc. Tôi rất buồn ngủ và sẽ đi ngủ…
Chỉ một dòng thôi. Mina ngủ ngon và thở bình thường. Trán nàng hằn lên một vết nhăn nhỏ, chứng tỏ nàng vẩn suy nghĩ thậm chí khi đang ngủ. Nàng vẩn rất xanh xao, nhưng trông không đến nổi quá hốc hác như lúc sáng. Tôi hy vọng là đến ngày mai thì thì tất cả sẽ được cải thiện. Nàng sẽ là chính mình tại nhà ở Exeter. Ôi, nhưng mà tôi phải ngủ đây!
NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
Ngày 1 tháng Mười – Tôi một lần nữa nhức đầu vì Renfield. Tính khí của ông ta thay đổi nhanh đến nổi tôi khó mà hiểu được nó, và chúng luôn chứng tỏ một cái gì đó hơn là tình trạng khả quan của ông ta, chúng tạo thành một cái gì đó hơn là một trường hợp nghiên cứu thú vị. Sáng nay, khi tôi đến để gặp ông ta sau khi ông ta đẩy lùi Van Helsing, thái độ của ông ta ra vẻ là một người đàn ông đang ra lệnh cho số phận. Thật ra ông ta đang ra lệnh cho số phận, một cách chủ quan. Ông ta thật sự chẳng hề quan tâm đến bất cứ cái gì trên trái đất này, ông ta đang ở trên mây và nhìn xuống tất cả sự yếu đuối và muốn tất cả những con người khốn khổ như chúng tôi chết đi.
Tôi nghĩ rằng tôi sẽ cải thiện được trường hợp này và biết được thêm cái gì đó, nên tôi hỏi ông ta, “Lần này thì những con ruồi đâu cả rồi?”
Ông ta mỉm cười với tôi theo dáng điệu kẻ bề trên, một nụ cười như thế đã trở thành khuôn mặt của Malvolio, khi ông ta trả lời tôi, “Những con ruồi, thưa ngài thân mến, có một đặc điểm đáng chú ý. Những cái cánh của nó là biểu tượng cho sức mạnh siêu thực của khả năng tâm linh. Những người cổ xưa đã làm đúng khi họ ví tâm hồn như con bướm!”
Tôi nghĩ rằng tôi đã đẩy được sự loại suy của ông ta lên đến mức logic tột đỉnh, nên tôi nói nhanh, “Bây giờ thì ông đang nghiên cứu tâm hồn, phải không?”
Sự điên khùng của ông ta làm nền cho lý do của ông, rồi một cái nhìn khó hiểu trải ra khắp mặt ông ta khi ông ta lắc đầu với một vẻ quả quyết mà tôi rất hiếm khi thấy ở ông.
Ông ta nói, “Ồ không, ồ không! Tôi không phải muốn những tâm hồn. Cuộc sống là tất cả những thứ tôi muốn.” Nói đến đây ông ta tươi tỉnh hẳn. “Vào lúc này tôi chẳng khác nó mấy chút. Cuộc sống là tất cả những điều tốt đẹp. Tôi đã có tất cả những gì tôi muốn. Ông phải tìm một bệnh nhân mới thôi, bác sĩ, nếu ông muốn nghiên cứu về sự ăn thịt động vật!”
Điều này làm tôi khá đau đầu , nên tôi thăm dò ông. “Vậy thì ông điều khiển sự sống. Tôi cho rằng, có lẽ ông là chúa trời chăng?”
Ông ta mỉm cười với một vẻ ôn hòa bề trên không sao tả xiết. “Ồ không! Còn lâu tôi mới có thể láo xược tự cho mình những phẩm chất của thần thánh. Thậm chí tôi cồn không quan tâm đến những công việc tâm linh đặc biệt của Ông ấy nữa. Nếu tôi có thể vận dụng những khả năng trí óc của mình, thì đến nay tôi chỉ hoàn toàn tập trung vào những sự việc sống trên mặt đất, một phần nào đó ở những tình huống mà Enoch có thể thực hiện những năng lực tinh thần!”
Vấn đề khá hóc đối với tôi. Tôi không thể ngay tức khắc nhớ ra được Enoch, nên tôi phải hỏi một câu hỏi đơn giản, dù rằng tôi cảm thấy nó sẽ khiến tôi tự hạ thấp chính mình trước đôi mắt của người tâm thần kia. “Và vì sao lại là Enoch?”
“Bởi vì ông ta đi cùng với Chúa.”
Tôi vẩn chẳng hiểu ra mô tê gì cả, nhưng không muốn thú nhận nó, nên tôi quyết định quay về từ cái mà ông ta đã phủ nhận. “Vì sao mà ông không còn quan tâm đến sự sống mà không muốn linh hồn. Vì sao vậy?” Tôi đặt câu hỏi rất nhanh và có phần nào nghiêm nghị, với mục đích làm ông ta mất bình tĩnh.
Nỗ lực này đã thành công, bởi vì trong một thóang ông ta vô giác rơi trở vào tình trạng nô lệ cũ, cúi người trước tôi, và thật sự là xun xoe trước tôi khi ông ta trả lời. “Tôi không muốn bất cứ linh hồn nào, thật sự là vậy, thật sự! Tôi không muốn. Tôi không thể dùng nó nếu tôi có nó. Nó sẽ có cái gì hữu dụng cho tôi. Tôi không thể ăn nó hoặc…”
Ông ta thình *** h ngừng lại và sự xảo nguyệt lại lan rộng trên khuôn mặt ông ta giống như một cơn gió quét trên bề mặt nước.
“Và bác sĩ, giống như cuộc sống, cuối cùng là cái gì? Khi ngài có tất cả những gì ngài yêu cầu, và ngài biết rằng ngài sẽ không bao giờ muốn, đấy là tất cả. Tôi có bạn bè, những người bạn tốt, giống như ngài, bác sĩ Seward.” Điều này được nói với một cái liếc mắt mang đậm vẻ xun xoe khó tả. “Tôi biết rằng tôi sẽ không bao giờ thiếu cuộc sống!”
Tôi nghĩ rằng qua những câu nói điên rồ tối nghĩa ấy, ông ta thấy được những sự đối lập của tôi, bởi vì ngay tức khắc sau đó ông ta chui ngay vào nơi trốn tránh cuối cùng quen thuộc của ông ta, đó là sự im lặng lì lợm. Sau một khỏang thời gian ngắn, tôi thấy rằng lúc này không thể nói chuyện được với ông ta. Ông ta thật lầm lì, và vì vậy tôi bỏ đi.
Sau đó cũng trong ngày ông ta lại gọi tôi. Thông thường thì tôi sẽ không đến mà chẳng có lý do gì đặc biệt, nhưng lúc này tôi đang rất thích thú với ông ta đến nỗi tôi vui mừng để thử. Harker đi ra ngòai, lần theo những tung tích, và Huân tước Godalming cùng Quincey cũng thế. Van Helsing ngồi trong phòng nghiên cứu của tôi, mãi mê với những hồ sơ được Harker chuẩn bị. Ông ta có vẻ nhưng đang nghĩ rằng bởi những kiến thức chính xác từ tất cả các chi tiết ông ta sẽ soi sáng được một số tung tích. Ông ta mong muốn không bị quấy rầy trong công việc, dù bất kỳ lý do nào. Tôi đã từng kêu ông ấy đi với tôi để thăm bệnh nhân, chỉ vì tôi nghĩ rằng sau sự cố gắng cuối cùng của ông ta, có thể ông ấy không còn quan tâm đến chuyện đó nữa. Còn có một lý do khác. Renfield có thể sẽ không nói chuyện thỏai mái trước một người thứ ba như khi chỉ có tôi và ông ấy.
Tôi thấy ông ta đang ngồi giữa phòng trên chiếc ghế đẩu cảu ông ta, với một dáng điệu ngụ ý biểu lộ sức mạnh tinh thần của ông. Khi tôi đến, ông ta nói ngay, như thể câu hỏi đã chực sẳn trên môi ông. “Về những linh hồn thì thế nào?”
Rõ ràng là sự ước đóan của tôi đã chính xác. Sự suy nghĩ vô thức đã làm công việc của nó, dù là với người tâm thần. Tôi quyết định làm rõ vấn đề.
“Còn về của chính ông thì sao?” tôi hỏi.
Ông ta không trả lời ngay mà nhìn chung quanh, nhìn lên và xuống, có vẻ như ông ta đang chờ đợi để tìm một ít cảm hứng để trả lời.
“Tôi không muốn bất kỳ linh hồn nào!” Ông ta yếu ớt nói với vẻ biết lỗi. Vấn đề này có vẻ đã tác động tâm tưởng của ông ta, nên tôi quyết định sẽ dùng nó, vì “tỏ ra độc ác chỉ để tốt lành.” Cho nên tôi nói, “Ông thích cuộc sống, và ông muốn cuộc sống?”
“Ôi vâng! Chỉ là thế thôi. Ngài không cần phải bận tâm về điều đó!”
“Nhưng,” tôi hỏi, “làm sao chúng ta có thể có cuộc sống mà không có linh hồn?”
Có vẻ như điều này làm ông ta khó nghĩ, và tôi tiếp tục, “Vào một thời điểm tốt đẹp nào đó ông sẽ có một ít thời gian khi ông rời khỏi đây, với tâm hồn của hàng ngàn ruồi, nhện, chim và mèo, chúng vo ve, líu lo, than van chung quanh ông. Ông đã có cuộc sống của chúng, ông cũng biết đấy, và ông phải giải quyết với linh hồn chúng!”
Những điều này có vẻ như đã có tác động với trí tưởng tượng của ông, nên ông ta đưa tay lên bịt tai và đóng sập mắt lại, khép rịt mắt như một cậu bé nhỏ khi khuôn mặt cậu đầy xà bông. Cái vẻ cảm động trong dáng vẻ ấy đã tác động đến tôi. Nó cũng cho tôi một cái cảm giác rằng đứng trước mặt tôi là một đứa trẻ, chỉ là một đứa trẻ, dù nét mặt đã già cỗi, và những mớ râu lởm chởm nơi cằm đã bạc trắng. Rõ ràng là ông ta đang trải qua một sự xáo động lớn trong tâm hồn, và khi đã biết về những tính khí trong quá khứ của ông thì có thể suy luận ra rằng có vẻ như có một cái gì đó khác lạ đang lan tỏa trong ông, tôi nghĩ rằng đã có thể xâm nhập vào tâm trí của ông ở mức mà tôi có thể và lướt đi cùng ông.
Bước đầu tiên là phải phục hồi niềm tin, nên tôi hỏi ông ta, nói thật lớn để ông ta có thể nghe được tôi dù ông đang bịt chặt tai, “Ông có muốn một chút đường để bắt những con ruồi quanh đây không?”
Ông ta có vẻ như bật dậy ngay, và lắc đầu. Với một tiếng cười ông ta trả lời, “Không! Dù sao thì ruồi cũng chỉ là những sinh vật khốn khổ!” Ngừng lại một chút ông ta tiếp, “Nhưng tôi không muốn tâm hồn của chúng vo ve quanh tôi, dù thế nào đi nữa.”
“Hoặc là nhện?” tôi tiếp tục.
“Những con nhện tai họa! Những con nhện thì dùng làm gì? Chẳng có gì trong nó để ăn hoặc…” Ông ta ngừng lời đột ngột như thể nhớ lại về một chủ đề bị ngăn cấm.
“Chính thế, chính thế!” tôi nghĩ bụng, “đây là lần thứ hai ông ta thình *** h ngừng lại khi gặp từ ‘uống’. Điều này có nghĩa là gì nhỉ?”
Renfield có vẻ như đã tự thức tỉnh mình sau khi phạm một sai lầm, nên ông ta vội vã như muốn làm sao nhãng sự chú ý của tôi về chuyện này, “Tôi không tạo ra bất kỳ một kho dự trữ nào về những chuyện như thế này. ‘Những con chuột cống và chuột nhắt và những con vật nhỏ nhặt như vậy’ như Shakespeare đã nói ‘trẻ con được nuôi trong tủ đựng thức ăn’, chúng có thể được gọi như vậy. Tôi đã trảu qua tất cả những chuyện bậy bạ như vậy. Ngài cũng có thể yêu cầu một người ăn các phân tử bằng một đôi đũa, cũng như quan tâm đến tôi như một lòai ăn thịt bậc thấp, tôi biết những gì xảy ra trước tôi.”
“Tôi hiểu” tôi nói. “Ông muốn những thứ lớn hơn để có thể chạm răng vào? Ông có muốn một con voi cho bữa sáng không?”
“Ngài đang nói những chuyện hoang đường phi lý nào vậy? “Ông ta đã quá tỉnh táo, dù tôi đã dồn ép ông khá nhiều.
“Tôi tự hỏi” tôi trả lời theo phản xạ, “linh hồn một con voi thì như thế nào!”
Nỗ lực của tôi đã được đón nhận như mơ ước, vì ngay lập tức ông ta rơi trở về trạng thái kích động và trở thành một đứa trẻ trở lại.
“Tôi không muốn linh hồn một con voi, hoặc bất kỳ linh hồn nào khác!” ông ta nói. Sau một lúc ông ta ngồi xuống với vẻ chán nãn. Thình *** h ông ta nhảy dựng lên, với đôi mắt sáng rực và với tất cả những dấu hiệu biểu lộ một sự kích động mãnh liệt trong não. “Quỷ tha ma bắt ngài và những linh hồn của ngài!” ông ta gào lên. “Vì sao ngài quấy rầy tôi về những cái linh hồn đó? Bộ tôi chưa đủ chuyện để lo lắng và đau khổ đủ làm tôi sao nhãng chẳng nghĩ về những cái tâm hồn đấy sao?”
Ông ta trông thật thù địch đến nỗi tôi nghĩ rằng ông ta đang rơi vào một cảm giác muốn giết người khác, nên tôi húyt sáo.
Tuy nhiên, trong chốc lát sau tôi lại thấy ông ta bình tĩnh trở lại, và nói với vẻ biết lỗi, “Xin tha lỗi cho tôi, bác sĩ. Tôi đã quên mất bản thân mình. Ngài không cần ai giúp đỡ đâu. Tôi đã quá lo lắng trong tâm tưởng và trở nên dễ nổi cáu. Nếu như ngài biết được vấn đề mà tôi phải đương đầu, những chuyện mà tôi phải giải quyết, ngài sẽ thương hại, sẽ khoan dung, sẽ tha lỗi cho tôi. Xin ngài đừng nhét tôi vào cái áo trói. Tôi muốn suy nghĩ và tôi không thể tự do nghĩ ngợi khi cơ thể tôi bị giam hãm. Tôi chắc rằng ngài sẽ hiểu được!”
Ông ta rõ ràng đã tự chủ được, và khi những người phục vụ đến tôi nói họ đừng làm phiền, và họ rút lui. Renfield quan sát họ quay đi. Khi cánh cửa khép lại ông ta ngồi xuống với vẻ cân nhắc và duyên dáng, “Bác sĩ Seward, ngài đã rất quan tâm đến tôi. Hãy tin rằng tôi rất, rất biết ơn ngài!”
Tôi nghĩ là rời ông ta trong tình trạng này thì thích hợp, nên tôi đi ra. Có một cái gì đó rõ ràng đang đọng trong tâm tưởng con người này. Có rất nhiều điểm có vẻ như tạo nên một cái gì đó mà những nhà báo Mỹ gọi là “một câu chuyện,” chỉ khi chúng được sắp xếp theo một thứ tự thích hợp. Chúng là như thế này:
Cương quyết không nói đến “uống.”
Sợ hãi khi nghĩ đến gánh nặng của “linh hồn” bất kỳ thứ gì.
Chẳng hề ngần ngại mong muốn đến “cuộc sống” trong tương lai.
Khinh thường đến sự tồn tại của những dạng cuộc sống nói chung, dù ông taếtttt khiếp sự săn đuổi từ linh hồn của chúng.
Thật hợp lý là tất cả những điểm này chỉ ra một khả năng! Ông ta tin chắc vào một phương cách nào đó sẽ khiến ông ta có được một cuộc sống dạng cao.
Ông ta rõ ràng khiếp sợ gánh nặng của những linh hồn. Và ông ta đã mong ước đến cuộc sống của một con người nào đó!
Và sự bảo đảm ấy…?
Chúa nhân từ! Bá tước đã đến gặp ông ta, và đây lại là một sự phối hợp mới trong những sự họat động khủng khiếp kia!
Sau đó – Sau một lúc đi dạo, tôi đế chỗ Van Helsing và nói với ông ta sự nghi ngờ của tôi. Ông ấy nhanh chóng trở nên rất căng thẳng, và sau khi suy nghĩ về vấn đề này một lúc ông ta nói tôi dẩn ông đến chỗ Renfield. Tôi làm điều đó. Khi chúng tôi đi đến cửa chúng tôi nghe thấy người bệnh tâm thần này hát lên hoan hỉ, như thể ông ta đã từng làm điều đó trong một lúc nào đấy đã trôi xa.
Khi đi vào chúng tôi kinh ngạc khi thấy ông ta đang rãi đường như thường lệ. Ruồi, vốn khá đờ đẩn trong mùa thu, đang bắt đầu vo ve trong phòng. Chúng tôi cố làm ông ta nói về chủ đề trong cuộc nói chuyện trước của chúng tôi, nhưng ông ta không quan tâm đến. Ông ta tiếp tục hát hỏng, như thể chúng tôi chẳng hề tồn tại. Ông ta gom những mảnh giấy nhỏ lại và cuộn nó thành một cuốn sổ ghi chép. Chúng tôi đi ra trong sự thờ ơ như lúc chúng tôi đi vào.
Trường hợp này quả thật rất đáng tò mò. Chúng tôi sẽ phải theo dõi ông ta tối nay.
THƯ CỦA MITCHEL, CÁC CON TRAI & CANDY GỬI CHO HUÂN TƯỚC GODALMING.
“Ngài 1 tháng Mười.” Thưa Ngài,
“Chúng tôi đã dành tất cả thời gian chỉ để vui mừng thỏa mãn những yêu cầu của ngài. Chúng tôi tha thiết, với tất cả sự kính trọng với sự yêu cầu của ngài Huân tước, được truyền đạt bởi ông Harker nhân danh ngài, để cung cấp những thông tin sau đây về vấn đề mua và bán của căn nhà số 347, Piccadilly. Người cung cấp đầu tiên là người thi hành di chúc của ngài Archibald Winter – Sufield quá cố. Người mua là một nhà quý tộc nước ngòai, bá tước de Ville, người này đã tiến hành việc trả tiền mua bán nhà theo cách ‘không cần đếm’, xin ngài Huân tước tha lỗi cho chúng tôi đã dùng một cách diễn đạt thiếu thẩm mỹ như vậy. Sau đó chúng tôi không còn biết gì về ông ta nữa.
“Chúng tôi luôn chờ đợi những yêu cầu của Ngài,
“Những người phục vụ khiêm tốn của Huân tước,
“Mitchell, Các Con Trai và Candy.”
NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
Ngày 2 tháng Mười. – Tôi cắt đặt một người trông hành lang tối hôm qua, nói anh ta ghi chép thật chính xác bất kỳ âm thanh nào mà anh ta nghe được từ phòng của Renfielđ, chỉ thị cho anh ta rằng nếu có bấy kỳ chuyện gì lạ xảy ra thì phải gọi tôi ngay. Sau bữa ăn tối, khi tất cả chúng tôi đã tập trung bên lò sưỡi trong phòng nghiên cứu, bà Harker đã đi ngủ, chúng tôi thảo luận và những hoạt động và những sự khám phá đã đạt được trong ngày. Harker là người duy nhất có được một số kết quả, và chúng tôi đều vô cùng hy vọng rằng những manh mối của anh ta sẽ rất hữu dụng.
Trước khi đi ngủ tôi đi quanh phòng bệnh nhân và nhìn qua ô cửa theo dõi. Ông ta đang ngủ ngon lành, ngực ông ta phập phồng với sự hô hấp bình thường.
Đến sáng thì người được phân công đã báo cáo với tôi rằng quá nữa đêm một lúc ông ta thức giấc và liên tục cầu nguyện đầy ồn ào. Tôi hỏi anh ta xem có phải đó là tất cả hay không. Anh ta trả lời rằng đó là tất cả những gì anh ta nghe được. Dáng điệu của anh ta trông đầy nghi ngờ nên tôi hỏi thẳng anh ta có ngủ quên không. Anh ta chối là không ngủ, mà chỉ “gà gật” một chút. Thật là tệ, những con người loại này không thể tin tưởng trừ khi trông chừng họ.
Hôm nay Harker lại lần theo những manh mối của anh ta, còn Art và Quincey đi trông chừng ngựa. Godalming nghĩ rằng nên để cho lũ ngựa luôn sẳn sàng, vì khi chúng tôi có được thông tin cần thiết thì chúng tôi sẽ không còn thời gian để mất nữa. Chúng tôi phải tuyệt diệt tất cả những hang ổ này vào khỏang giữa mặt trời mọc và mặt trời lặn. Chúng tôi sẽ tóm được bá tước vào thời điểm hắn yếu ớt nhất, và không để cho hắn một nơi trốn tránh nào để ẩn thân. Van Helsing đã đi đến Viện Bảo tàng Anh quốc để tìm một số tài liệu về một loại dược phẩm cổ. Những nhà vật lý già giữ sổ sách về chúng cùng những gì liên quan không đồng ý, và giáo sư tìm những phương thuốc chữa bệnh cổ của phù thủy và ma quỷ có thể sẽ hữu dụng cho chúng tôi sau này.
Đôi khi tôi nghĩ rằng tất cả chúng tôi hẳn là đã điên và vì vậy chúng tôi sẽ trở về trạng thái minh mẫn trong những chiếc áo trói.
Sau đó – Chúng tôi gặp lại nhau. Cuối cùng có lẽ chúng tôi cũng đã lần theo dấu vết, và công việc của chúng tôi vào tối mai có thể sẽ bắt đầu cho sự kết cục. Tôi tự hỏi không biết sự im lặng của Renfield có nói lên điều gì về chuyện này không. Tính khí của ông ta tuân theo những hoạt động của bá tước, đến nỗi tiến trình hủy diệt của tên ác quỷ kia có thể sẽ mang ông ta đi theo một cách thức khôn ngoan nào đó. Nếu chúng tôi có thể có được một vài chỉ dẩn về những gì đang diễn ra trong tâm tưởng ông ta, giữa khỏang thời gian tôi đưa ra cho ông ta những lý lẽ vào và sự quan tâm của ông ta về việc bắt ruồi trở lại, thì điều đó có thể mang đến cho chúng tôi những manh mối đáng giá. Bây giờ thì ông ta có vẻ như đang trong một đợt tĩnh lặng… Ông ta đấy ư? Hình như có một tiếng kêu theo vọng ra từ phòng ông ta…”
Người phục vụ vội vã xông vào phòng tôi và nói rằng Renfield hình như vừa gặp phải một tai nạn. Anh ta nghe thấy tiếng ông ta kêu thét và khi anh ta vào phòng, anh ta thấy ông nằm úp mặt trên sàn nhà, phủ đầy máu. Tôi phải đi ngay…”