– Ô không! – Peter kêu lên.
– Bây giờ biết làm gì? Không được phép cho bà ấy bắt gặp bọn mình ở đây!
– Thì mình đã nói rồi, biến đi thôi! Bob, bọn mình mang chỗ giấy theo!
Thám tử Thứ Ba đút tập giấy vào ba-lô. Chỉ trong chớp mắt, cả bộ ba đã rời phòng làm việc và tiến ra phía hành lang dẫn xuống dưới, Nhưng đúng lúc đó đã có tiếng lạch cạch của chìa khoá trong ổ.
– Muộn rồi ! – Peter rít lên.
– Bây giờ làm sao?
– Qua cửa sổ!
Họ quay trở lại và chui vào phòng làm việc của tiến sĩ Jones. Không một giây quá sớm, bởi ngay khi Bob là người cuối cùng bước chân vào phòng làm việc, thì cánh cửa ra vào ở bên dưới nhà đã mở ra và tiền sĩ Jones bước vào, trên hai cánh tay ôm một loạt những túi mua đồ đầy ắp. Bob quan sát người đàn bà qua kẽ cửa. Nếu cô ấy vào phòng khách, thì họ có thể bạo gan biến ra ngoài qua cửa ra vào. Nhưng không! Người phụ nữ không vào phòng khách. Cô ấy đi thẳng về phía cầu thang.
– Cô ấy lại đây! – Bob nói nhỏ.
– Đi thôi!
Peter là người đầu tiên đến bên cửa sổ. Những thanh sắt đứng tương đối sát, và trong một thoáng cậu đã e rằng mình sẽ bị kẹt ở trong nầy. Nhưng rồi cậu dồn sức chui lọt được người qua và nhảy xuống.
Sau đó đến lượt Bob. Cậu không gặp khó khăn gì, lẹ làng chui sang bên kia, và xuống dưới còn nhanh hơn cả Peter.
– Giờ cậu, Justus! – Bob thầm thì.
Thám tử trưởng không động đậy.
Justus?
– Đồ tiếu lâm nhà các cậu! – Cuối cùng bộ siêu não rít lên.
– Làm ơn chỉ cho mình biết, mình làm thế nào mà chui qua được hả? Mình đâu có gầy trơ xưong như các cậu, quên rồi sao? – Justus thử đút một cánh tay qua chấn song sắt, nhưng chỉ đến vai là cậu đã bị tắc. Cố gắng cũng chẳng được ích gì.
– Tìm chỗ nấp đi! – Peter kêu nhỏ.
Ngay lúc đó tiếng bước chân đã vang lên gần cửa. Justus không còn lựa chọn nào khác. Cậu ném mình xuống nền phòng và còn kịp lăn vào gầm giưòng trong tích tắc cuối cùng.
Cửa mở ra và tiến sĩ Jones bước vào, ném những túi mua đồ lên giường rồi thở dai thả người xuống chiếc ghế trong góc phòng. Justus co chân lên, cuộn tròn người lại, thầm mong không bị phát hiện.
Tiến sĩ Jones ngồi cả phút đồng hồ không động đậy, thế rồi bà lại nhỏm người lên và rời phòng. Justus dỏng tai lên nghe ngóng. Ở đâu đó có tiếng nước chảy, chắc là tiền sĩ Jones đang ở trong phòng tắm. Hoặc bây giờ hoặc không bao giờ nữa!
Cậu bò từ dưới gầm giường ra, nhổn người lên và rón rén ra phía hành lang.
Không thấy bóng một ai. Nhẹ nhàng như có thể, cậu chạy dọc theo cầu thang xuống dưới, mở cửa không một tiếng động rồi rời toà biệt thự.
– Xuỵt! Justus! Lại đây!
Bob và Peter đang khom người ngồi phía dằng sau một chiếc ghế dài bằng gỗ trong vườn. Họ chìm toàn thân vào trong những bụi hoa hồng, không một ai đứng ngoài có thể nhìn thấy họ. Justus nhập váo nhóm.
– May quá. Mình cứ nghĩ bọn mình có nhiều thời gian hơn một chút để mà tìm tòi.
– Cái quan trọng nhất thì bọn mình đã tìm thấy rồi, – Bob nhắc nhở và đưa tay vuốt ve ba-lô của cậu.
– Giờ tìm cách biến khỏi đây thôi!
– Khoan! – Justus cảnh báo.
– Cậu đã quên mất nhiệm vụ thứ hai rồi sao, ta còn phải thực hiện xong chuyện đó nữa. Dấu vết của kẻ lạ mặt bên cửa sổ! Trơì có thể mưa bất cứ lúc nào, và vết bột sẽ tan hết.
– Nếu có vết bột thật, – Bob thêm vào.
– Nếu có vết bột. Tiến sĩ Jones bây giờ ở tầng trên. Nếu bọn mình rón rén áp người đi dọc tường nhà, cô ấy sẽ không nhìn thấy bọn mình! Đi thôi, nhanh lên, trước khi cả hai bà cô đáng kính kia cũng quay trở lại nốt!
Họ rời chỗ nấp và đi vòng quanh toà biệt thự. Cho tới khi họ sang tới hướng bên kia, tới bên khuôn cửa sổ của phòng khách. Ánh sáng còn vừa đủ để họ săm soi luống đất trồng hoa.
Vết bột không nổi bật hẳn lên, nhưng vẫn đủ rõ cho họ bám theo.
– Cái bẫy của mình hoạt động rồi, Justus! – Peter vui vẻ kêu nhỏ.
-Khẽ thôi! – Bob nhắc nhở.
– Nếu cậu cứ tiếp tục la hét như thế, tiền sĩ Jones sẽ nghe thấy bọn mình đấy.
– Đúng là cái bẫy hoạt động rồi. Kẻ lạ mặt đã bước vào khoảng đất có rải bột mỳ, khi gã quan sát bọn mình qua cửa sổ, và tiếp tục tha bột đi chỗ khác. Giờ chỉ còn câu hỏi nầy thôi – gã rải dấu vết bột mỳ nầy bao xa và đi đâu?
Những giọt mưa đầu tiên rơi xuống nhỏm mũi Justus. Rất nhanh chóng, cơn mưa đổ xuống sầm sập. Giờ không được phép lãng phí thời gian. Cả bộ ba cúi người thấp hơn nữa xuống dưới bại cỏ và bám theo vết bột mỳ, đi một đoạn dọc tường nhà rồi cuối cùng đến bên khoảng bờ rào, ngăn cách vườn hoa hồng với khuôn viên của nhà Willow. Tới đó, vết bột biến mất trong một bụi rậm đầy gai.
– Làm sao mà mình hiểu nổi đây? – Peter hỏi.
– Kẻ lạ mặt đã biến vào một bụi rậm ư? – Cậu nhìn lên trên.
– Gã không thể nhảy qua đây được, hàng rào nầy cao qua.
Justus quan sát hàng rào kỹ hơn. Ở vĩ trí nầy, hàng rào rõ ràng cũng dày đặc như ở mọi vị trí khác. Mặc dầu vậy, sao nó có vẻ khang khác. Thám tử trưởng đưa tay sờ những chiếc lá, sờ nền đất, sờ gốc cây – và đột ngột nắm trong tay mình một khúc hàng rào rời ra.
– Cái gì thế? – Bob ngỡ ngàng.
– Chả lẽ bờ rào là cây giả?
Justus quan sát bó cây nho nhỏ trong tay mình và nhìn kỹ hơn cái lỗ vừa xuất hiện.
– Không, không phải cây giả. Nhưng đã có người khóet một lỗ hổng ở đây, rồi dùng bó cây nầy lấp vào chổ đó. Không một ai nhìn ra được, nhưng bụi cây làm cửa nầy có thể được lôi ra ngoài cả cành lẫn rễ bất cứ lúc nào.
– Đơn giản đến thiên tài, – Peter nhận xét.
– Vậy thì kẻ lạ mặt trong buổi cầu hồn đầu tiên của bọn mình đã chui qua cái lỗ nầy mà biến đi. Logic, tối như thế thì bọn mình làm sao nhìn thấy được điều gì.
– Giờ chỉ còn câu hỏi cái lỗ nầy dẫn đi đâu, – Justus nói.
– Đi đâu nữa, sang vườn của ông bà Willow, – Bob nói.
– Chắc không? – Thám tử trưởng quì xuống trên cả tứ chi và bắt đầu bò qua cái lỗ trên bờ rào. Nhưng thay vì sang với thảm cỏ được cắt rất gọn gàng của khuôn viên hàng xóm, cậu lại va phải một bức tường bằng gỗ. Cậu gõ vào nó.
Nghe có vẻ rỗng, vậy là lần gỗ nầy không dày. Justus ấn ấn và tấm gỗ nhượng bộ, xoay quanh một bản lề lên phía trên.
– Mình đã đoán trước mà! – Justus lẩm bẩm và bò tiếp, bò tiếp vào với bóng tối hầu như tuyệt đối. Chỉ có một thứ ánh sáng màu xám xịt rất yếu ớt hắt được qua một khuôn cửa sổ nhỏ xíu, bẩn thỉu.
Cậu đứng dậy và chờ cho tới khi Peter và Bob tới nơi.
– Có ai đem đèn theo không?
Một chút sau đó thôi, Bob thắp lên một ngọn lửa nhỏ từ chiếc bật lửa chống bão của cậu và bộ ba thám tử hiểu ra họ đang ở đâu.
– Đây là một cái lều đựng đồ làm vườn! – Peter nhận định khi nhìn thấy cái máy cắt cỏ đệ trong một góc, một chiếc bàn thợ tiện nho nhỏ và một loạt máy móc làm vườn treo trên tường.
– Nhận diện nhanh đấy, Justus nói.
– Đây là nhà kho để máy móc của John Willow, sát ngay với hàng rào. Rõ ràng đã có người bắt vào đây một khung cửa ngầm, để bất cứ lúc nào cũng có thể ngấm ngầm tuồn sang khuôn viên của cô hàng xóm đáng yêu. Các bạn ơi, hôm nay thật sự là một ngày của những khám phá bất ngờ! – Justus cúi xuống, kéo bụi cây bí mật bằng gổ. Nhìn từ phía bên nầy, người ta hầu như không nhận ra cánh cửa.
Bộ ba thám tử đưa mắt nhìn quanh, trong khi mưa đập ào ào lên phần mái nhà làm bằng gỗ trên đầu họ. Trên một chiếc kệ gỗ có để những lọ trồng hoa cũ.
Bob nhấc một vài lọ lên. Qua lần kính bẩn thỉu của khung cửa sổ nhỏ xíu, người ta có thể nhìn tới ngôi nhà của ông bà Willow. Trong nhà có ánh đè.
– Ngoại trừ cái cửa bí mật kia, có vẻ như trong lều nầy chẳng còn gì mà khám phá, – Sau một hồi tìm tòi, Peter nhận xét.
– Nó là một túp lều đựng máy móc làm vườn, chỉ thế thôi.
– Tắt điện đi! – Justus đột ngột rít lên và Bob ngay lấp tức sập bật lửa lại. – Ngoài kia có người!
Bộ ba thám tử chen đến bên khuôn cửa sổ nhỏ xíu và nhìn ra ngoài. Cánh cửa vào nhà vừa mở ra, bà Willow bước ra ngoài trời đang mưa xối xả.
– Nhanh lên, John, hay anh chờ cho tới khi em ướt như chuột lột đã hả? – bà Willow hổn hển kêu. Để tránh mưa, bà choàng một lần khăn nhựa có in hoa và so hai vai lên.
– Ra xe trước đi! – Giọng nói bực bội của ông Willow từ trong nhà vang ra.
Bà Willow vội vàng đi dọc đoạn phố, ngay sau đó cả người chồng của bà cũng rời nhà, đóng cửa lại và đi theo vợ. Cả ông cũng có vụ khí để đối chọi với cái ướt ngoài nầy: Một chiếc áo mưa màu đen óng ánh.