Silas ngồi ở ghế hành khách trong chiếc xe limousine Jaguar đang đỗ gần Nhà thờ Temple. Tay hắn cảm thấy nhâm nhấp trên viên đá đỉnh vòm khi hắn đợi Rémy trói và bịt miệng Teabing ở đằng sau bằng chiếc dây thừng tìm thấy trong thùng xe.
Cuối cùng, Rémy ra khỏi khoang sau xe, đi vòng quanh rồi vào ghế ngồi lái bên cạnh Silas.
“Chắc rồi chứ?”, Silas hỏi.
Rémy cười tủm tỉm, giũ sạch nước mưa, ngoái mắt qua tấm ngăn để ngỏ nhìn cái thân hình dúm đó của Leigh Teabing ở phía sau: “Lão ta không thể đi đâu cả”.
Silas nghe thấy tiếng ú ở của Teabing và hiểu rằng Rémy đã dùng băng keo cũ để bịt miệng ông ta.
“Fame ta gueule”(1), Rémy quát với Teabing. Với tay sang bảng điều khiển, Rémy ấn một nút nhỏ. Một tấm ngăn mờ đục dựng lên bịt kín phía sau. Teabing biến mất và tiếng ông ta câm bặt. Rémy liếc nhìn Silas: “Tôi đã nghe tiếng rền rĩ khốn khổ của lão ta quá đủ rồi”.
Vài phút sau khi chiếc limousine Jaguar lao nhanh trên đường phố thì điện thoại của Silas reo. Thầy Giáo. Hắn phấn khởi trả lời: “Xin chào Thầy?”.
“Silas”, giọng Pháp quen thuộc của Thầy Giáo nói, “nghe thấy tiếng con, ta nhẹ cả người. Điều đó có nghĩa là con vẫn an toàn”.
Silas cũng yên tâm hẳn khi nghe thấy giọng nói của Thầy Giáo. Suốt nhiều giờ qua, kế hoạch hành động đã bị đối hướng xoay chiều xoành xoạch. Cuốì cùng, giờ đây dường như đâu lại vào đấy: “Con đã có được viên đá đỉnh vòm”.
“Đây là tin tuyệt vời”, Thầy Giáo nói với hắn, “Rémy ở cùng con chứ?”.
Silas rất ngạc nhiên khi nghe thấy Thầy Giáo gọi tên Rémy: “Vâng, Rémy đã giải thoát cho con”.
“Vì ta đã ra lệnh cho hắn làm thế, ta chỉ ân hận là con đã phải chịu đựng sự giam giữ quá lâu”.
“Gò bó thân xác không có nghĩa ý gì cả. Điều quan trọng là chúng ta đã có được viên đá đỉnh vòm”.
“Đúng vậy, ta cần con trao nó cho ta ngay lập tức, thời gian rất quan trọng”.
Silas rất háo hức vì cuối cùng cũng được gặp Thầy Giáo mặt đối mặt: “Vâng, thưa Thầy, con rất vinh dự”.
“Silas, ta muốn Rémy sẽ mang nó đến cho ta”.
Rémy? Silas tiu nghỉu. Sau mọi việc Silas đã làm cho Thầy Giáo, hắn đã tin rằng chính hắn sẽ là người được tự tay trao vật báu. Thầy Giáo biệt đãi Rémy sao?
“Ta cảm thấy được sự thất vọng của con”, Thầy Giáo nói. “Điều đó nói lên rằng con không hiểu ý ta”. Thầy Giáo hạ giọng xuống thành một tiếng thì thầm: “Con phải tin rằng ta muốn nhận được viên đá đỉnh vòm từ con – Người của Chúa – hơn là từ tay của một tên tội phạm. Nhưng Rémy phải bị xử lý.
Hắn đã không tuân lệnh của ta và phạm phải một sai lầm nghiêm trọng khiến cho sứ mệnh của chúng ta lâm nguy”.
Silas cảm thấy ớn lạnh và liếc qua Rémy. Việc bắt cóc Teabing không nằm trong kế hoạch và quyết định làm gì với ông ta đặt ra một vấn đề mới.
“Con và ta là người của Chúa”. Thầy Giáo thì thầm, “chúng ta không thể bị ngăn chặn khỏi mục đích của chúng ta”. Một thoáng dừng dễ sợ trên đường dây. “Duy chỉ vì lý do đó, ta sẽ yêu cầu Rémy mang viên đá đỉnh vòm cho ta. Con hiểu chứ?”.
Silas cảm nhận được sự tức giận trong giọng nói của Thầy Giáo và rất ngạc nhiên là Thầy Giáo đã không thông cảm hơn.
Việc Rémy lộ diện là không thế tránh khỏi, Silas nghĩ. Rémy đã làm điều hắn phải làm. Hắn đã cứu viên đá đỉnh vòm.”Con hiểư” Silas gượng đáp.
“Tốt. Vì chính sự an toàn của con, con cần phải rời khỏi đường phố ngay lập tức. Cảnh sát sẽ sớm tìm kiếm chiếc limousine và ta không muốn con bị bắt. Opus Dei có một dinh thự ở London, con biết chứ?”.
“Tất nhiên rồi”.
“Con được chào đón ở đó chứ?”.
“Với tư cách là một đạo hữu”.
“Thế thì hãy đi đến đó và ra khỏi tầm ngắm. Ta sẽ gọi con ngay khi ta có được viên đá đỉnh vòm và giải quyết được vấn đề hiện nay của ta”.
“Thầy đang ở London chứ?”.
“Hãy làm như ta dặn và mọi việc sẽ tốt đẹp”.
“Vâng, thưa Thầy”.
Thầy Giáo trút một tiếng thở dài, như thể điều mà Thầy phải làm bây giờ là rất đáng tiếc: “Đã đến lúc ta nói chuyện với Rémy”.
Silas đưa máy cho Rémy, hắn cảm thấy đây có thể là cuộc điện đàm cuối cùng của Rémy Legaludec.
Khi Rémy cầm lấy điện thoại, y biết tên thầy tu tội nghiệp dị hợm này không hề biết số phận nào đang đợi hắn sau khi hắn đã hết phận sự.
Thầy Giáo đã lợi dụng ngươi, Silas.
Và giám mục của ngươi chỉ là một con tốt.
Rémy vẫn còn ngạc nhiên trước sức thuyết phục của Thầy Giáo. Giám mục Aringarosa đã tin tưởng mọi thứ. Ông đã mù quáng bởi chính sự liều lĩnh tuyệt vọng của mình. Aringarosa quá ham hố đâu còn bụng dạ nào mà tin. Mặc dù Rémy không thích Thầy Giáo lắm, y vẫn tự hào là đã chiếm được lòng tin của Thầy Giáo và giúp đỡ Thầy đáng kể. Mình xứng với số tiền được trả.
“Nghe kỹ nhé”, Thầy Giáo nói. “Hãy đưa Silas tới dinh thự của Opus Dei và thả nó xuống cách đó mấy con phố. Sau đó lái xe tới Công viên Saint James. Nó ở cạnh Nhà Quốc hội và tháp Big Bell. Anh có thể đỗ chiếc limousine ở Horse Cuards Parade. Chúng ta sẽ nói chuyện ở đó”.
Nói đoạn, ông ta tắt máy.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Câm cái mõm của người lại!
Đại học Hoàng gia do vua George IV lập vào năm 1829, đặt Khoa Thần học và Nghiên cứu Tôn giáo ở cạnh Nhà Quốc hội trên đất do Vương quốc cấp. Khoa tôn giáo Đại học Hoàng gia tự hào không chỉ về một trăm năm mươi năm kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu, mà còn về Viện Nghiên cứu Thần học Hệ thơng thành lập năm 1982. Viện này sở hữu một trong những thư viện nghiên cứu tôn giáo đầy đủ nhất, với thiết bị điện tử tiên tiến nhất trên thế giới.
Langdon vẫn cảm thấy run rẩy khi ông và Sophie từ ngoài trời mưa bước vào thư viện. Phòng nghiên cứu chính đúng như Teabing đã mô tả – một căn phòng hình bát giác đầy ấn tượng với một chiếc bàn tròn đồ sộ ở ngôi vị thống ngự; quanh chiếc bàn đó, hẳn vua Arthur cùng các hiệp sĩ của người có thể cảm thấy thoải mái nếu không có sự hiện diện của mười hai dàn vận hành máy vi tính màn hình phẳng. Ở đầu đằng kia căn phòng, một nữ thủ thư giữ sách tham khảo đang rót một bình trà và bắt đầu ngày làm việc.
“Chúc một buổi sáng thú vị”, cô nói với giọng Anh vui vẻ, để bình trà lại và đi tới. “Tôi có thể giúp được gì cho ông?”.
“Vâng, cảm ơn”, Langdon đáp lại. “Tên tôi là…”.
“Robert Langdon!” Cô nở một nụ cười khả ái. “Tôi biết ông là ai”.
Trong phút chốc, Langdon bỗng sợ là Fache đã đưa hình ông lên kênh truyền hình Anh, nhưng nụ cười của cô thủ thư gợi lên một điều khác hẳn. Langdon vẫn chưa quen với những lúc bất ngờ phải vào vai người nổi tiếng như vậy. Lại nữa, trên đời có người nhận ra khuôn mặt ông, thì lại là một cô thủ thư ở bộ phận sách tham khảo về nghiên cứu tôn giáo!
“Pamela Gettum”, cô thủ thư nói và chìa tay ra. Cô có một khuôn mặt thông minh và giọng lưu loát rất dễ thương. Cặp kính gọng sừng lủng lẳng nơi cổ cô thật là dầy.
“Rất vui được biết cô”, Langdon nói, “đây là bạn của tôi, Sophie Neveu!”.
Hai người phụ nữ chào nhau và Gettum ngay lập tức chuyển sang Langdon. “Tôi không biết là ông đến”.
“Cả chúng tôi cũng không biết. Nếu không quá phiền hà, cô có thể tìm giúp chúng tôi một vài thông tin được không?”.
Gettum có vẻ phân vân: “Bình thường sự phục vụ của chúng tôi phải có phiếu yêu cầu và có hẹn trước, tất nhiên trừ phi ông là khách của ai đó trong trường này”.
Langdon lắc đầu: “Tôi e rằng chúng tôi đến không báo trước.
Một người bạn của tôi rất ca ngợi cô. Ngài Leigh Teabing, cô biết chứ?”. Langdon cảm thấy day dứt khi nhắc đến cái tên đó.
Nhà sử học Hoàng Gia Anh”.
Bây giờ thì Gettum tươi tỉnh và cười: “Ôi trời, vâng. Thật là một tính cách đặc biệt. Cuồng tín! Đến lần nào cũng chỉ tìm độc một mục. Chén Thánh. Chén Thánh. Chén Thánh. Tôi thề là con người này sẽ chết trước khi từ bỏ công cuộc tìm kiếm đó”. Cô nháy mắt. “Có nhiều thời gian và tiền bạc mởi đủ điều kiện chơi những thứ xa xỉ thú vị như thế, phải không? Một Don Kihote chính cống”.
“Liệu cô có thể giúp chúng tôi được không?” Sophie hỏi. “Thực sự quan trọng đấy”.
Gettum liếc quanh thư viện vắng vẻ và sau đó nháy mắt ra hiệu cho cả hai: “Ồ, tôi không thể viện cớ là đang quá bận, đúng không? Nếu hai vị kí nhận, tôi nghĩ sẽ không có ai quá phiền lòng. Hai vị quan tâm đến điều gì nào?”.
“Chúng tôi đang tìm một ngôi mộ ở London”.
Gettum có vẻ nghi ngờ: “Chúng tôi có khoảng hai mươi nghìn ngôi mộ. Hai vị có thể nói cụ thể hơn một chút không?”.
“Đó là ngôi mộ của một hiệp sĩ. Chúng tôi không có tên”.
“Một hiệp sĩ. Điều đó sẽ khoanh hẹp phạm vi một cách đáng kể. Bớt chung chung đi nhiều”.
“Chúng tôi không có nhiều thông tin về hiệp sĩ mà chúng tôi đang tìm kiếm”, Sophie nói,. “Nhưng đây là điều chúng tôi biết”. Cô đưa ra một mảnh giấy, trên đó cô chỉ chép hai câu đầu của bài thơ.
Không muốn đưa toàn bộ bài thơ cho một người ngoài cuộc, Langdon và Sophie quyết định chỉ dưa ra hai câu đầu, những câu xác định nhân thân chàng. “Mật mã phân khoảnh”, Sophie gọi nó như thế. Khi một cơ quan tình báo bắt được một mã số chứa những dữ liệu nhạy cảm, mỗi nhân viên mật mã sẽ làm việc trên một phân đoạn riêng rẽ. Theo cách này, không một người giải mật mã nào có thể độc chiếm được trọn thông điệp đã giải mã.
Trong trường hợp này, sự phòng xa có lẽ là thái quá; ngay cả nếu người thủ thư này xem được toàn bộ bài thơ, xác định được ngôi mộ của người hiệp sĩ và biết được quả cầu bị mất tích là cái gì, thì thông tin cũng sẽ vô dụng vì không có hộp mật mã.
Gettum cảm nhận thấy một vẻ rốt ráo trong mắt vị học giả Mỹ nổi tiếng này, như thể việc nhanh chóng tìm ra ngôi mộ là một vấn đề có tầm quan trọng sống còn đối với ông. Người phụ nữ mắt xanh đi cùng ông cũng có vẻ lo âu.
Bối rối, Gettum đeo kính lên và xem kỹ mảnh giấy họ vừa đưa cho cô.
Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng.
Kết quả công sức chàng chuốc lấy cơn thịnh nộ Thần Thánh.
Cô liếc nhìn những vị khách của mình: “Đây là cái gì? Một kiểu bởi rác tìm vàng của Harvard?”.
Tiếng cười của Langdon nghe gượng gạo: “Ờ, đại loại như thế”.
Gettum ngừng lời, cảm thấy cô chưa hiểu được toàn bộ câu chuyện. Mặc dù thế, trí tò mò của Gettum bị kích thích và cô thấy mình suy nghĩ rất lung về bài thơ: “Theo như bài thơ, một hiệp sĩ đã làm điều gì đó khiến Chúa phật ý, tuy nhiên một Giáo hoàng đã có hảo tâm chôn cất chàng ở London”.
Langdon gật đầu: “Nó có gợi ý gì cho cô không?”.
Gettum tiến về một trong những dàn máy vi tính: “Tức thời thì chưa, nhưng ta hãy xem những gì có thể có được trong cơ sở dữ liệu”.
Trong hai thập kỉ qua, Viện nghiên cứu về Thần học Hệ thống của Đại học Hoàng gia đã sử dụng phần mềm nhận mặt chữ bằng quang học với các thiết bị dịch ngôn ngữ để số hoá và lập danh mục một bộ sưu tập văn bản khổng lồ – từ điển bách khoa về tôn giáo, tiểu sử tôn giáo, thánh thư bằng hàng tá ngôn ngữ, lịch sử, thư tín của Toà Thánh Vatican, nhật kí của các giáo sĩ, bất cứ những gì được coi là viết về tâm linh con người. Vì bộ sưu tập đồ sộ này giờ đây ờ dưới dạng bit và bye thay vì trên các trang giấy, nên các dữ liệu có thể truy nhập dễ hơn trước nhiều.
Ngồi vào một dàn vận hành máy vi tính, Gettum nhìn mẩu giấy và bắt đầu đánh chữ: “Để bắt đầu, ta sẽ đi thẳng đến tổng mục lục với một vài từ khoá hiển nhiên và xem điều gì xảy ra”.
“Cảm ơn”.
Gettum đánh mấy từ.
LONDON, HIỆP SĨ, GIÁO HOÀNG
Khi ấn vào nút SEARCH (tìm), cô có thể cảm thấy tiếng ro ro của máy vi tính lớn ở tầng dưới đang quét hình dữ liệu với tốc độ 500MB/giây. “Tôi đang yêu cầu hệ thống này chỉ ra cho chúng ta bất kì văn bản nào chứa đựng tất cả ba từ khoá vừa rồi. Sẽ ra nhiều văn bản hơn ta muốn, nhưng đó là một căn cứ tốt để bắt đầu”.
Màn hình đã hiển thị những truy cập đầu tiên.
Tranh vẽ Giáo hoàng. Bộ sưu tập chân dung của Ngài Joshua Reynols, nhà xuất bản trường Đại học London.
Gettum lúc lắc đầu: “Rõ ràng không phải cái ông đang tìm kiếm”. Cô chuyển sang cái thu được tiếp theo.
Những bài viết về Alexander Pope (1) ở London của Hiệp sĩ G. Wilson.
Một lần nữa cô lại lắc đầu.
Hệ thống tiếp tục vận hành và những truy cập được hiển thị nhanh hơn bình thường. Hàng tá văn bản xuất hiện, nhiều trong số đó đề cập đến nhà văn Anh thế kỉ mười tám Alexander Pope. tác giả của những tập thơ chống tôn giáo, nhái chất tráng ca, trong đó nói rất nhiều đến các hiệp sĩ và London.
Gettum lướt nhanh qua các con số dưới đáy màn hình. Máy tính này, bằng cách tính toán số lượng những truy cập hiện có và đem nhân lên với số phần trăm của cơ sở dữ liệu còn chưa được tìm kiếm, sẽ cung cấp một ước đoán sơ bộ về số lượng thông tin có thể tìm thấy. Sự thăm dò đặc biệt này có vẻ như sẽ cho một lượng dữ liệu lớn kinh khủng.
Ước tính tổng số những truy cập: 2,692
“Chúng ta cần lọc bớt các thông số đi nữa”. Gettum nói, ngừng việc thăm dò. “Đây là toàn bộ thông tin các vị có về ngôi mộ? Không có gì khác nữa sao?”.
Langdon liếc sang Sophie Neveu, vẻ phân vân.
Đây không phải là cuộc bớ rác tìm vàng, Gettum cảm thấy thế. Cô đã nghe người ta xì xào về trải nghiệm của Robert Langdon ở Roma năm ngoái. Người Mỹ này được phép tiếp cận thư viện kín cổng cao tường nhất trên trái đất – Phòng lưu trữ bí mật Vatican. Cô tự hỏi không biết Langdon đã lượm được loại bí mật nào trong đó và liệu cuộc săn tìm vô vọng hiện nay của ông về một ngôi mộ bí mật ở London có thể liên quan tới thông tin ông lượm được trong Toà thánh Vatican hay không. Gettum là một thủ thư có đủ thâm niên để biết rành lý do chung nhất khiến mọi người đến London để tìm các hiệp sĩ. Đó là Chén Thánh.
Gettum mỉm cười và chỉnh lại kính: “Ông là bạn của Leigh Teabing, ông đang ở nước Anh và đang tìm kiếm một hiệp sĩ?”. Cô chắp tay lại. “Tôi chỉ có thể giả định là ông đang tìm kiếm Chén Thánh”.
Langdon và Sophie giật mình nhìn nhau.
Gettum cười: “Các bạn của tôi ơi, thư viện này là một cơ sở cho những người tìm kiếm Chén Thánh. Leigh Teabing cũng nằm trong số đó. Tôi ước sao mình được một silinh cho mỗi lần giúp dò tìm về Rose, Mary Magdalne, Sangreal, Merovingien, Tu viện Sion, vân vân và vân vân. Ai nấy đều thích chuyện âm mưưu” Cô tháo kính và nhìn họ. “Tôi cần thêm thông tin”.
Trong yên lặng, Gettum cảm thấy ý muốn giữ bí mật của hai vị khách đang nhanh chóng bị lấn át bởi nỗi háo hức sớm có được kết quả.
“Đây”, Sophie Neveu bật ra, “đây là những thứ mà chúng tôi biết”. Mượn một cây bút của Langaon, cô viết hai dòng trên mẩu giấy và đưa nó cho Gettum.
Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng.
Nó nói về da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống.
Gettum mỉm cười. Chén Thánh thực vậy, cô nghĩ, nhận thấy đoạn nhắc đến Hồng và tử cung mang hạt giống. “Tôi có thể giúp được các vị”, cô nói, ngước lên khỏi mảnh giấy. “Tôi có thể hỏi bài thơ này có nguồn gốc từ đâu không? Và tại sao các vị lại tìm kiếm quả cầu?”.
“Cô có thể hỏi”, Langdon nói, với một nụ cười thân thiện. “Nhưng đó là một câu chuyện dài mà chúng tôi có rất ít thời gian”.
Nghe có vẻ như là cách nói lịch sự của câu “Đừng chõ vào việc của người khác!”.
“Chúng tôi sẽ mang ơn cô mãi mãi, Pamela”, Langdon nói, “nếu cô tìm ra được hiệp sĩ này là ai và được chôn cất ở đâu”.
“Tốt lắm!”, Gettum nói, lại quay ra đánh chữ trên máy tính.
“Tôi sẽ tiếp tục hợp tác. Nếu đây là một vấn đề liên quan đến Chén Thánh, chúng ta nên tham khảo chéo đối chiếu với những từ khoá về Chén Thánh. Tôi sẽ thêm một tham số cận kề và bỏ đi phần tiêu đề rườm rà. Như vậy sẽ hạn chế những truy cập của chúng ta xuống mức chỉ còn những trường hợp từ khoá văn bản ở gần một từ liên quan đến Chén Thánh”.
Tìm;
HIỆP SĨ, LONDON, GIÁO HOÀNG, NGÔI MỘ.
Trong vòng 100 từ gần với:
CHÉN THÁNH, HOA HỒNG, SANGREAL, CHIẾC LI.
“Việc này sẽ mất bao lâu?”. Sophie hỏi.
“Một vài trăm terabye với nhiều trường tham chiếu chéo”.
Mắt Gettum long lanh khi cô nhấn nút SEARCH. “Chỉ mười lăm phút thôi.
Langdon và Sophie không nói gì nhưng Gettum cảm nhận thấy khoảng thời gian này có vẻ như dài vô tận đối với họ.
“Trà nhé?” Gettum hỏi, đứng lên và đi về phía bình trà mà cô đã pha trước đó. “Leigh Teabing bao giờ cũng khoái trà của tôi”.
Chú thích:
(1) Pope tên của nhà thơ cũng có nghĩa là Giáo hoàng
—————————————-