Trung tân Opus Dei ở London là một nhà gạch khiêm tốn ở số 5 phố Orme Court, trông xuống đường North Walk ở vườn Kensington. Silas chưa bao giờ đến đây, nhưng hắn cảm thấy đây là nơi an toàn để ẩn náu khi hắn bước lại gần ngôi nhà.
Mặc dù trời mưa, Rémy vẫn thả hắn xuống cách đó một đoạn ngắn để giữ cho chiếc limousine tránh khỏi những phố chính.
Silas đâu có ngại phải đi bộ. Mưa có tác dụng gột rửa mà.
Theo gợi ý của Rémy, Silas đã chùi sạch dấu tay trên khẩu súng của mình và vứt nó qua một cửa cống. Hắn rất vui vì tống khứ được nó. Hắn cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Lúc này, chân hắn vẫn còn đau vì vết trói, nhưng Silas đã từng chịu đựng những nỗi đau lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, hắn tự hỏi về Teabing, người mà Rémy đã trói go vứt ở phía sau chiếc xe. Giờ đây, chắc chắc lão già người Anh hắn đang phải cảm thấy đau đớn lắm.
“Anh sẽ làm gì với lão ta?”, trên đường tới đây, Silas đã hỏi Rémy.
Rémy nhún vai: “Đó là một quyết định dành cho Thầy Giáo”. Có một sự dứt khoát kì lạ trong giọng y.
Lúc này, khi Silas gần đến tòa nhà Opus Dei, mưa bắt đầu nặng hạt hơn, thấm đẫm chiếc áo choàng to của hắn, làm nhói đau vết thương của ngày hôm trước. Hắn sẵn sàng bỏ lại phía sau những tội lỗi của hai mươi tư giờ trước và thanh lọc tâm hồn mình. Công việc của hắn đã hoàn thành. “.
Đi qua một cái sân nhỏ tới cửa trước, Silas không ngạc nhiên khi thấy cánh cửa không khóa. Hắn mở cửa và bước vào căn phòng chờ nhỏ. Một hồi chuông điện tử khe khẽ vang lên trên gác khi Silas bước lên tấm thảm. Chuông báo là một nét chung của những sảnh kiểu này, nơi những người cư ngụ hầu như suốt ngày cầu nguyện ở trong phòng. Silas có thể nghe thấy tiếng đi lại trên các sàn gô kêu cót két.
Một người đàn ông mặc áo chùng bước xuống gác: “Tôi có thể giúp gì được anh?”. Ông ta có đôi mắt dường như thậm chí không hề ghi nhận vẻ bề ngoài kì dị của Silas.
“Cảm ơn. Tên tôi là Silas. Tôi là một thành viên Opus Dei”.
“Người Mỹ à?”.
Silas gật đầu: “Tôi chỉ ở trong thành phố ngày hôm nay. Tôi có thể nghỉ ở đây không?”.
“Thậm chí anh không cần phải hỏi. Có hai phòng trống ở trên tầng ba. Tôi có phải mang trà và bánh mì cho anh không?”.
“Cảm ơn ông”, Silas đang đói ngấu.
Silas lên gác, vào căn phòng khiêm nhường có một cửa sổ, hắn cởi bỏ chiếc áo chùng ướt sũng và quỳ gối cầu nguyện trong bộ đồ lót. Hắn nghe thấy chủ nhân đi lên và đặt một cái khay bên ngoài cửa phòng. Silas thôi cầu nguyện, dùng bữa, đặt mình xuống và chìm vào giấc ngủ.
Dưới đó ba tầng, điện thoại vang lên. Thành viên Opus Dei đã đón tiếp Silas trả lời điện thoại.
“Đây là cảnh sát London”, người gọi nói. “Chúng tôi đang tìm một thầy tu bạch tạng. Chúng tôi được tin báo rằng hắn ta có thể đang ở đó. Ông có trông thấy hắn không?”.
Thành viên Opus Dei giật mình: “Vâng, anh ta đang ở đây. Có gì không ổn?”.
“Hắn hiện sống ở đó sao?”.
“Vâng, đang cầu nguyện trên gác. Chuyện gì xáy ra vậy?”.
“Hãy để anh ta ở nguyên đó”, sĩ quan cảnh sát yêu cầu. “Đừng nói một lời nào với bất kỳ ai. Tôi sẽ phái người đến ngay”.
Công viên Thánh Jeam là một biển cây xanh giữa London, một công viên công cộng giáp ranh các cung điện Westminster, Buckingham và nhà thờ Thánh James. Trước kia, vua Henry VIII cho rào kín công viên này, thả nai rừng để săn bắn. Đến nay, công viên Thánh James mở cửa thường xuyên cho công chúng. Vào những buổi chiều đầy ánh nắng, những người dân London pích-ních dưới những gốc liễu và cho đàn bồ nông cư ngụ trong hồ ăn, tổ tiên của chúng là món quà do đại sứ Nga tặng vua Charles II.
Thầy Giáo không thấy một con bồ nông nào hôm nay. Thế chỗ chúng, thời tiết giông bão đã xua những con hải âu từ biển cả về đậu kín các bãi cỏ – hàng trăm cơ thể nhỏ trắng toát cùng quay về một hướng, kiên nhẫn vượt ra ngoài cưn gió ẩm ướt.
Bất chấp màn sương sớm, công viên vẫn bày ra trước mắt quang cảnh tráng lệ của Nhà Nghị viện và Tháp Big Bell. Phóng mắt qua những bãi cỏ thoai thoải, qua hồ thả vịt và những bóng liễu rủ thướt tha, Thầy Giáo có thể thấy những chóp nhọn của toà nhà có chứa phần mộ của những chàng hiệp sĩ – lý do hoàn hảo khiến ông ta thuyết phục được Rémy đến nơi này.
Khi Thầy Giáo lại gần cửa trước bên phía ghế hành khách của chiếc limousine đang đỗ, Rémy nhoài người sang mở cửa.
Thầy Giáo dừng lại bên ngoài, tợp một ngụm từ chai cô nhắc mang theo. Rồi lau miệng, ông ta ngồi xuống bên cạnh Rémy và đóng cửa lại.
Rémy giơ viên đá đỉnh vòm lên như một chiến lợi phẩm:
“Suýt nữa thì mất tiêu”.
“Anh đã làm tốt đấy”, Thầy Giáo nói.
“Chúng tôi i đã làm tốt”, Rémy đáp, đặt viên đá đỉnh vòm vào đôi bàn tay háo hức của Thầy Giáo.
Thầy Giáo ngắm nhìn nó hồi lâu, mỉm cười: “Còn khẩu súng? Anh đã chùi sạch dấu tay rồi chứ?”.
“Để lại vào hộp đựng găng, nơi tôi đã thấy nó”.
“Thật tuyệt!” Thầy Giáo tu một ngụm cô-nhắc nữa và đưa chai cho Rémy. “Nào cùng uống chúc mừng cho sự thành công của chúng ta. Kết thúc đã gần kề rồi”.
Rémy đầy lòng biết ơn nhận lấy chai rượu. Rượu cô-nhắc hơi mặn, nhưng Rémy bất cần. Giờ đây, y và Thầy Giáo là những đối tác thực sự. Y có thể cảm thấy mình đã vươn lên được một vị trí cao hơn trong cuộc sống. Ta vẽ không bao giờ lại làm một tên đầy tớ nữa! Khi Rémy nhìn bờ đắp cao của hồ vịt phía dưới, Château Villitte dường như ở xa lắc tận đâu đâu.
Uống thêm một hớp rượu nữa, Rémy có thể cảm thấy rượu cô nhắc làm máu mình ấm lên. Tuy nhiên, hơi ấm trong cổ họng Rémy nhanh chóng chuyển thành một hơi nóng không thoải mái chút nào. Nới lỏng chiếc nơ, Rémy nếm phải một cái gì sàn sạn thật khó chịu và trả chai rượu lại cho Thầy Giáo: “Có lẽ tôi đủ rồi”, y gượng nói một cách yếu ớt.
Cầm lấy chai rượu, Thầy Giáo nói: “Rémy, như anh biết đấy, anh là người duy nhất biết mặt tôi. Tôi đặt niềm tin rất lớn ở anh”.
“Vâng”, y đáp, cảm thấy như lên cơn sốt khi y nới cái nơ lỏng thêm ra, “và nhân dạng của ngài sẽ theo tôi xuống mồ”.
Thầy Giáo im lặng hồi lâu: “Tôi tin anh”. Bỏ chai rượu và viên đá đỉnh vòm vào túi, Thầy Giáo với tay vào hộp đựng găng, lấy ra khẩu súng lục Medusa nhỏ xíu. Trong khoảnh khắc, Rémy cảm thấy nỗi sợ dâng trào, nhưng Thầy Giáo chỉ đơn giản bỏ tọt nó vào túi quần mình.
Ông ta đã làm gì vậy? Đột nhiên Rémy thấy toát mồ hôi.
“Tôi biết mình đã hứa cho anh tự do”. Thầy Giáo nói, giọng nghe đầy hối tiếc. “Nhưng xét hoàn cảnh của anh, đây là điều tốt nhất tôi có thể làm”.
Chỗ sưng phồng trong cổ họng Rémy bùng lên như động đất. Y gục xuống cần tay lái, ôm cuống họng và thấy vị nôn ở trong khí quản đang thít lại. Y thốt ra một tiếng kêu nghẹt lại, thậm chí không đủ to để nghe được từ bên ngoài xe. Vị mặn chát trong rượu cô nhắc giờ đây phát tác.
Ta đang bị mưu sát.
Bán tín bán nghi, Rémy quay sang Thầy Giáo đang thản nhiên ngồi bên cạnh mình, mắt nhìn thẳng về phía trước bên ngoài kính che gió. Mắt Rémy nhòa đi, y thở hổn hển. Ta đã làm mọi thứ có thể cho hắn. Làm sao hắn nỡ thế được! Có phải Thầy Giáo đã chủ định giết Rémy từ lâu hay đó là do những hành động của Rémy ở Nhà thờ Temple đã khiến cho Thầy Giáo mất lòng tin, Rémy sẽ không bao giờ biết. Lúc này đây, kinh hoàng và cuồng nộ đang lồng lên trong y. Rémy cố lao vào Thầy Giáo, nhưng cơ thể cứng đờ của y hầu như không cử động được. Ta đã tin mi mọi điều!
Rémy cố giơ nắm tay xiết chặt để ấn còi xe, nhưng thay vì, y trượt sang một bên, lăn trên ghế ngồi, nằm vật bên cạnh Thầy Giáo, tay vẫn nắm lấy cổ họng. Bây giờ mưa đã rơi nặng hạt hơn. Rémy không nhìn thấy gì nữa, nhưng y có thể cảm thấy bộ óc cạn kiệt ôxy của mình đang ráng hết sức níu lấy chút sáng suốt thoi thóp cuối cùng. Khi thế giới của y từ từ tối đen lại, Rémy Legeludes có thể thề rằng hắn đã nghe thấy tiếng sóng Riviera êm dịu vỗ bờ.
Thầy Giáo bước ra khỏi chiếc limousine, hài lòng thấy không có ai nhìn về phía mình. Ta không có sự lựa chọn nào hết, ông ta tự nhủ, ngạc nhiên thấy mình chẳng thấy hối hận gì mấy về điều vừa làm. Rémy đã tự định đoạt số phận của hắn đấy chứ! Suốt bao nhiêu lâu, Thầy Giáo đã sợ rằng Rémy có thể cần bị thủ tiêu khi nhiệm vụ đã hoàn thành, nhưng bằng cách trâng tráo chường mặt ra ở Nhà thờ Temple, Rémy đã đẩy nhanh quá trình tất yếu ấy một cách đầy kịch tính. Việc Robert Langdon bất ngờ đến Château Villette đã cùng một lúc mang đến cho Thầy Giáo cả một món bở ngẫu nhiên từ trên trời rơi xuống lẫn một tình thế khó xử phức tạp. Langdon đã trao viên đá đỉnh vòm ngay giữa cuộc, một bất ngờ thú vị, nhưng đồng thời lại tạo cho cảnh sát truy sát mình. Dấu tay của Rémy ở khắp nơi trong Château Villette cũng như ở nơi đặt máy nghe trộm trong nhà để xe, nơi Rémy đã tiến hành những hoạt động do thám. Thầy Giáo hài lòng vì đã hết sức cấn thận ngăn chặn mọi liên hệ giữa các hoạt động của Rémy và của chính ông ta. Không ai có thể với tới được Thầy Giáo trừ phi Rémy nói ra và đó không còn là mối lo phiền của ông ta nữa.
Vãn còn một đầu dây lỏng lẻo cần thắt chặt lại ở đây, Thầy Giáo nghĩ, đi về phía sau của chiếc ô tô. Cảnh sát sẽ không biết gì về chuyện đã xảy ra và không còn một nhân chứng sống nào để khai với họ. Liếc nhìn xung quanh để bảo đảm không có ai đang theo dõi, ông ta mở cửa và trèo vào khoang sau rộng rãi.
***
Vài phút sau đó, Thầy Giáo băng qua công viên Thánh James. Giờ chỉ có hai người còn lại, Langdo và Neveu. Họ phức tạp hơn. Nhưng có thể xử trí được. Tuy nhiên, lúc này, Thầy Giáo còn phải lo toan đến chiếc hộp mật mã đã.
Đắc ý nhìn qua công viên, ông ta có thể thấy đích đến của mình. Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng. Ngay sau khi Thầy Giáo nghe được bài thơ, ông ta đã biết câu trả lời. Dù vậy, không lấy gì làm lạ là những người kia không đoán ra. Ta có một lợi thế không công bằng. Đã từng nghe những cuộc trò chuyện của Saunière trong nhiều tháng, đôi khi Thầy Giáo thấy vị Đại Sư nhắc đến chàng hiệp sĩ nổi tiếng, thể hiện sự tôn kính với chàng hầu như ngang bằng với chính Da Vinci. Sự ám chỉ của bài thơ đến chàng hiệp sĩ thật đơn giản đến mức thô thiển một khi ta đã trông thấy nó – nhờ trí tuệ của Saunière – và tuy nhiên, bằng cách nào ngôi mộ này có thể tiết lộ mật khẩu cuối cùng thì vẫn là một điều bí ẩn.
Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng.
Thầy Giáo mơ hồ nhớ lại những tấm ảnh chụp ngôi mộ nổi tiếng và đặc biệt là những nét nổi bật của nó. Một quả cầu đẹp. Hình cầu lớn gắn trên mộ to gần bằng chính ngôi mộ. Sự hiện diện của quả cầu dường như làm Thầy Giáo vừa phấn khởi lại vừa bối rối. Một mặt, nó như một cây cột mốc chỉ đường nhưng theo bài thơ, cái miếng thiếu trong trò chắp hình lại là một quả cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng… chứ không phải là cái đã có sẵn ở đó. Thầy Giáo tính xem xét ngôi mộ kỹ hơn để tìm ra câu trả lời.
Mưa trở nên nặng hạt hơn, Thầy Giáo đút viên đá đỉnh vòm sâu vào trong túi áo bên phải của mình dể tránh cho nó khỏi bị ướt. Ông ta để khẩu súng lục Medusa nhỏ xíu trong túi bên trái, không thể trông thấy được. Vài phút, ông ta bước vào nơi tôn nghiêm yên tĩnh của tòa nhà chín trăm năm tuổi nguy nga nhất London.
***
Đúng lúc Thầy Giáo bước ra khỏi cơn mưa thì Giám mục Arigarosa bước vào trong mưa. Trên đường băng ướt mưa ở phi trường Biggin Hill Excutive, Arigarosa chui ra từ chiếc máy bay chật hẹp, khép chặt chiếc áo thầy tu để tránh ướt lạnh. Ông đã hi vọng được Đại uý Fache ra đón. Thay vào đó là một sĩ quan cảnh sát người Anh trẻ tuổi với một cái ô.
“Giám mục Arigarosa phải không ạ? Đại uý Fache phải đi nên ông ấy yêu cầu tôi chăm sóc ông. Ông ta gợi ý tôi nên đưa ông đến Scotland Yard(1). Ông ấy nghĩ đó sẽ là nơi an toàn nhất”.
An toàn nhất. Arigarosa nhìn xuống cái cặp nặng đầy trái phiếu của Vatican ghì chặt trong tay. Ông hầu như đã quên: “Vâng, cảm ơn anh”.
Arigarosa trèo vào chiếc xe cảnh sát, tự hỏi Silas có thể ở đâu. Vài phút sau đó, máy quét hình của cảnh sát lạo xạo cho câu trả lời.
Số 5 Orme Court.
Arigarosa nhận ra địa chỉ này ngay lập tức.
Trung tâm Opus Dei ở London.
Ông quay sang phía người lái xe: “Cho tôi đến ngay chỗ đó”.
Chú thích:
(1) Sở chỉ huy cảnh sát London.
——————————–