Cuối cùng Harry ngủ ở trên ghế, lúc tỉnh lại trời vẫn còn mờ tối, đồng hồ đeo tay nói cho cậu biết rằng bây giờ là năm giờ mười lăm phút.
Không biết từ lúc nào mà chiếc bút thép đã lăn xuống mặt đất, nó chảy ra một vũng mực lớn, trông như một thi thể vừa ngã từ vách núi.
Trong phòng rất lạnh, gió thổi vào từ cửa sổ, người gác cổng bảo rằng đây là “Vấn đề do xây dựng”, trừ khi cả tòa nhà bị đập đi xây lại, không thì sẽ không thể sửa được, cậu phải tập làm quen với việc này thôi.
Harry cử động đôi vai cứng ngắc của mình, cậu khom người, nhặt chiếc bút đã trở nên vô dụng rồi quấn nó vào trong khăn tay.
Alex nằm trên giường trở mình, gọi tên cậu.
“Xin lỗi.” Harry nhỏ giọng nói, cậu cũng không biết tại sao mình lại hạ thấp giọng: “Cậu muốn tớ tắt đèn bàn hả?”
“Lên giường nằm đi.”
“Tớ có thể ngủ trên ghế.”
“Đừng có ngốc, đây là phòng của cậu.”
“Không ngờ là cậu vẫn còn nhớ chuyện này đấy.”
“Lại đây đi.” Alex nhặt chiếc hoa cài đã bị đè đến không còn hình dạng gì ở chiếc gối bên cạnh, ném xuống đất: “Trước kia chúng ta vẫn thường làm vậy mà, không phải sao?”
“Khi đó chúng ta chín tuổi.”
“Có khác gì nhau sao?”
Rất nhiều.
Harry muốn nói như vậy nhưng trong lúc nhất thời lại không tìm được lời giải thích nào hợp lý.
Alex nép sát vào tường, chừa ra một chỗ trống: “Thưa cậu Prudence, nếu cậu cứ tiếp tục do dự như vậy, chúng ta sẽ chết rét với nhau đó.”
Harry đưa tay tắt đèn bàn.
– —
Prudence dừng lại, ông dựa vào tảng đá để nghỉ ngơi, kiểm tra xem đôi giày da đã dính bao nhiêu cát.
Có lẽ cảm thấy bị uy hiếp, một con hải âu bỗng thét lên một tiếng chói tai với bọn họ, nó giương cánh, bay lướt qua mặt biển màu xanh lá cây văng đầy bọt sóng.
Người phóng viên quay đầu nhìn lại bãi cát mà họ đã đi qua, sóng biển đã lau sạch dấu giày của bọn họ.
Viện dưỡng lão chỉ còn là một mái hiên nho nhỏ màu nâu.
Sương mù và gió biển dính ướt trên đầu anh, nhầy nhụa.
Ngọn hải đăng vẫn ở phía xa, nó không hề đến gần bọn họ, giống như họ có đi mãi cũng không thể tới được.
“Sau đó tôi quyết định đưa chìa khóa dự bị cho cậu ấy, tránh việc cậu ấy lại tới gõ cửa lúc nửa đêm.” Prudence tìm một chỗ bằng phẳng trên tảng đá rồi ngồi xuống, người phóng viên cũng làm theo: “Với Alex, cậu phải luôn luôn chịu thỏa hiệp, chẳng qua là sớm hay muộn thôi.
Sau khi có chìa khóa, cậu ấy thường xuyên tới, có khi là buổi chiều, có khi lại là buổi tối, có những buổi sáng lúc tôi tỉnh lại sẽ phát hiện ra cậu ấy đang ngủ bên cạnh, ngay cả áo khoác cũng chưa cởi ra.
Nếu tôi không có trong phòng, cậu ấy sẽ đặt vài món quà nhỏ ở trên bàn làm việc, rượu vang, táo, nửa chiếc bánh galette*, một cây bút thép mới.
Cậu ấy rất sợ một mình, mặc dù cậu ấy chưa từng thừa nhận chuyện ấy, nếu cậu ấy không tới tìm tôi, cậu ấy cũng không chịu ở yên trong phòng mình đâu.
Năm đầu tiên ở Oxford, mọi người bắt đầu bàn luận về những người bạn đến phòng Alex, trong đó có vài cô gái nhưng đa số vẫn là con trai, tôi đã trông thấy vài người trong đó nhưng không nhớ tên ai cả, những người này tới nhanh, biến mất cũng nhanh nốt.
Tôi chưa bao giờ hỏi về chuyện này, Alex cũng chưa từng nói.”
*bánh galette: hay còn gọi là bánh vua, là một loại bánh truyền thống thường xuất hiện vào lễ hiển linh vào tháng 1, sau lễ giáng sinh.
“Cậu có thể tưởng tượng, vòng xã giao của Alex bao trọn cả Oxford và London, trải dài trên khắp tất cả những câu lạc bộ trên toàn quốc.
Ai ai cũng là bạn của cậu ấy, từ con gái của viện trưởng đến một kẻ dị giáo không tin vào ngày tận thế.
Cậu ấy kéo tôi vào thế giới xã giao của cậu ấy, những buổi dạ tiệc, những buổi tiếp khách và tiệc rượu, nhất là tiếp khách ấy, nghe thì có vẻ rất mê người nhưng thực chất chỉ là một đám người uống say đang tranh nhau quyền được phát biểu mà thôi, những người ở đó ai cũng nói chuyện lớn tiếng, chen vào miệng lẫn nhau, chẳng ai chịu nghe ai, tranh cãi như một bầy ngỗng hoang.
Tôi là cái bóng của Alex, khi thì bọn họ sẽ giả bộ như không thấy tôi, khi thì sẽ đối xử với tôi quá nhiệt tình.
Có một khoảng thời gian Alex rất thích đến những buổi họp mặt bí mật của cánh tả* để lắng nghe bọn học sinh cuồng tín bàn luận xem làm thế nào để bãi bỏ lớp học.
Barry thường tổ chức những buổi họp mặt này ở nhà cậu ta, đúng vậy, tên Barry ở giữa là a không phải e đấy, tên đầy đủ của cậu ta là Brandon Morton, sau này làm việc ở bộ ngoại giao.”
*cánh tả: hay chính trị cánh tả, là bên chính trị có khuynh hướng trái ngược với cánh hữu, thường phản đối sự phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội.
“Chờ một chút.” Người phóng viên nhíu mày: “Brandon Morton là gián điệp của Liên Xô.”
“Đúng vậy, Barry đã từng phụ trách một tờ báo về cánh tả ở trường, MI5* đã cho cậu ta vào danh sách theo dõi từ đầu năm 1955 nhưng cậu ta vẫn yên ổn làm việc ở bộ ngoại giao suốt mười mấy năm, đến năm 1972 thì mọi chuyện mới hoàn toàn bị bại lộ.
Barry đã cố trốn thoát qua Istanbul nhưng cuối cùng lại bị bắn chết ở trên tàu.
MI6* đợi đến năm 1991 mới chịu công khai hồ sơ của Barry, sau này còn được dựng thành phim, nếu tôi nhớ không lầm.”
*MI5: là cơ quan tình báo, phản gián điệp và đảm bảo an ninh của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.
*MI6: là cơ quan có nhiệm vụ cung cấp cho chính phủ Anh những thông tin tình báo nước ngoài.
“Tôi biết, cũng nhờ có bộ phim đó mà tôi mới biết đến người tên Morton nhưng tôi chưa từng biết rằng người đó lại có quan hệ với ngài Loiseau.”
“Đại học, Whitehall và phố Downing là một vòng tròn rất nhỏ, ít nhiều gì thì chúng tôi cũng có quan hệ với nhau, dù chúng tôi có muốn hay không.”
Ba người đến bơi ôm theo ba chiếc chăn dày đi qua trước mặt bọn họ rồi cất tiếng chào, họ trải chăn trên bãi cát lạnh như băng rồi cởi những chiếc áo len rộng lớn xuống, để lộ bộ đồ bơi ở bên trong, họ co ro, đi về phía mặt biển.
Người phóng viên và Prudence nhìn bọn họ bơi trong làn nước như đang nhìn những con thiêu thân đang lao vào ngọn lửa.
Bọn họ cười đùa, vẩy nước vào người nhau, nhào vào trong làn nước lạnh như băng, cất lên những tiếng kêu không biết là hưng phấn hay đau đớn.
“Cũng chỉ có người Bretagne mới có thể làm như vậy.” Prudence bình luận, ông đứng dậy, vỗ vào tảng đá như đang cảm ơn nó rồi tiếp tục đi về phía ngọn hải đăng.
“Còn xa lắm không ạ?”
“Khoảng ba mươi phút nữa.
Cậu cần nghỉ ngơi thêm một lát nữa sao, chàng trai trẻ tuổi?”
“Không cần đâu ạ, cảm ơn ngài.”
Một con đường được lót gỗ bỗng xuất hiện trên bãi cát, kéo dài đến tận hàng đê chắn sóng.
Những tấm ván gỗ thấm đầy nước nên đã trở nên mềm oặt, biến thành màu đen, trông chúng vô cùng mục nát nhưng ít ra vẫn thoải mái hơn việc bước đi trên cát một chút.
Gió biển thổi vù vù, người phóng viên lo rằng bút thu âm sẽ không thể thu rõ giọng Prudence, anh âm thầm hối hận vì mình đã không mang bút và sổ tay theo.
“Alex rất thích Bretagne nhưng ở thời chúng tôi, đường đi vô cùng khó khăn, chúng tôi phải ngồi trên chuyến tàu đêm đi từ Cornwall rồi xuống tàu ở Brest, sau đó lại ngồi xe lửa để đến Saint Malo, cứ như vậy mà đã lãng phí mất hai ngày.
Đó là chuyện trước khi tôi trở thành phóng viên cho mục nước ngoài ở tờ Góc nhìn, sau này tôi quá bận rộn, ngay cả một buổi chiều rảnh rỗi cũng khó kiếm.
Rất nhiều người không biết rằng trừ Paris, Góc nhìn còn có một phòng làm việc ở Bonn, tôi đã từng ở cả hai nơi.
Cậu có để ý thấy Alex gửi không ít thư đến nước Đức không? Địa chỉ đó từng là địa chỉ của Góc nhìn, bây giờ thì không còn nữa rồi, lúc tôi quay lại đó vào thập niên chín mươi, chỗ đó đã được xây thành một siêu thị.
Một siêu thị cơ đấy! Đúng là quyết định của Chúa mà.” Prudence lắc đầu: “Nói một cách công bằng thì thời ấy đi Cornwall cũng không dễ chút nào, mùa hè năm George kết hôn – đó là vào tháng 7 năm 1953 – Alex và tôi đã phải lăn lộn trên những con đường thôn quê gập ghềnh suốt một ngày rưỡi, cả hai chúng tôi đều không phải là những tài xế thuần thục, xe là do Barry cho chúng tôi mượn, đó là một chiếc Bristol 400 màu xanh da trời vô cùng bắt mắt, tiếc là nửa đường lại chết máy, làm thế nào cũng không khởi động được.
Chúng tôi phải đi tám chín dặm suốt dọc đường hoang dã mới tìm thấy một quán rượu nhỏ khiến người ta nghi ngờ, cả người ướt sũng, chủ quán nhìn chúng tôi, bảo rằng muốn gọi điện thoại thì phải trả hai bảng Anh.”
Hai cậu sinh viên trẻ tuổi không còn lựa chọn nào khác, chỉ có thể trả tiền.
Trong lúc Alex đang miêu tả vấn đề của chiếc xe với một người thợ sửa xe có chất giọng đậm chất Scotland, Harry cởi chiếc áo khoác đã ướt sũng ra, đánh giá khu vực âm u xung quanh.
Người khách duy nhất là một người đàn ông đang nằm trên một chiếc bàn ở trong góc, ông ta đeo đôi găng tay cụt ngón bẩn thỉu, trông như đang không hề hô hấp.
Nước mưa vỗ đầy lên cửa sổ thủy tinh vô cùng dơ bẩn, người chủ quán quan sát bọn họ, có lẽ là đang nghĩ xem có thể moi thêm bao nhiêu tiền từ trên người bọn họ.
Alex cúp điện thoại, lắc đầu: “Chúng ta phải ở lại đây một đêm.”
Người chủ quán lười biếng báo một cái giá, bởi vì quá hoang đường, Harry không kìm được bật cười: “Số tiền đó đủ cho chúng tôi mua một hồ xăng luôn đấy.”
“Nếu không ở đây thì ở bên ngoài đi, các cậu tự chọn.”
Phòng dành cho khách ở trên lầu, trần nhà thấp lùn cọ trúng đỉnh đầu Harry.
Hai chiếc giường một người đặt song song nhau dưới khung cửa sổ, tấm nệm lõm xuống như một cái hố, ga trải giường thì ố vàng.
Sau khi lò sưởi sát tường được đốt lên, trong phòng tràn ngập mùi thuốc lá gay mũi.
Ngọn đèn duy nhất trong phòng cũng không có chao đèn*, nó tỏa ra ánh sáng vàng nhạt mờ tối, lúc hai người đi lại cũng phải vô cùng cẩn thận, tránh không đụng vào bóng đèn nóng bỏng.
Hành lý vẫn còn ở trên xe, hai người bọc cơ thể trong tấm chăn len sần sùi, có mùi mốc, chờ cho lò sưởi hong khô quần áo đang được trải trên ghế.
*chao đèn: là bộ phận úp trên bóng đèn nhằm bảo vệ và tăng lượng ánh sáng cho đèn.
“Nếu nửa đêm chúng ta bị cắt cổ họng bởi một đám thổ phỉ ăn mặc như ở thế kỷ mười tám rồi bị băm nát ra làm thức ăn cho chó, tất cả đều là lỗi của Barry.” Alex nói với lò sưởi sát tường, co lại thành một đống nhỏ trong tấm chăn.
“Có lẽ chỗ này không phải là một chỗ tốt để nhắc đến chuyện giết người.” Harry nhìn một vết bẩn màu nâu bị bắn tung tóe ở trên tường: “Cậu có nghĩ đây là vết nước đọng không?”
“Tốt nhất là như vậy.” Alex vỗ gối, nằm xuống: “Coi như sáng mai người thợ máy chạy đến đây kịp lúc, chúng ta cũng sẽ tới trễ mười hai tiếng.”
“Sáng mai chúng ta có thể gọi điện thoại giải thích.”
“Tới trễ cũng không hoàn toàn là chuyện xấu đâu.”
“Tại sao?”
“Giảm bớt thời gian xã giao.
Tin tớ đi, Harry, không phải người nhà Loiseau nào cũng thú vị như tớ đâu.”
“Có thể tưởng tượng được.” Harry nhìn trần nhà, hai tay chắp sau gáy: “Cậu vẫn chưa nói cho tớ biết cô dâu may mắn ấy là ai.”
“Thành thật mà nói thì tớ cũng chưa gặp chị ấy, là cha giới thiệu cho George đó, họ là Hartford, cha của chị ấy có tước vị không bằng cha tớ nhưng lại có nhiều địa sản hơn.
Đúng là một cô gái đáng thương, chắc chị ấy vẫn chưa phát hiện ra người George yêu thật lòng là máy bay.” Alex yên lặng một hồi, hai người mỗi người nằm đó, nghe tiếng tí tách của gỗ đang cháy trong lò sưởi: “Cậu còn nhớ có một khoảng thời gian, chúng ta tưởng rằng anh ấy đã chết rồi không? Không ngờ anh ấy lại quay về trước lễ giáng sinh ấy?”
“Tớ nhớ.”
“Vào khoảng thời gian ấy…” Alex hắng giọng: “Hồi còn bé tớ đã tưởng rằng anh ấy thật sự đã rơi xuống eo biển cùng với máy bay, người trở về chỉ là một hồn ma.
George nhìn thì rất khắc nghiệt nhưng anh ấy chưa bao giờ là một người nghiêm túc.
Cậu nên nhìn dáng vẻ bây giờ của anh ấy đi, khác gì một nhà tu hành khổ hạnh trong bộ quân phục của lực lượng không quân đâu.”
“Tớ nhớ cậu đã từng viết một câu chuyện, gì mà một con chim lớn ăn thịt người ấy.”
“Tớ không tin là cậu có thể vặn vẹo câu chuyện đến như vậy.”
“Cậu viết như vậy thật mà.”
“Harry.”
“Cái gì?”
“Chỗ này lạnh quá, tớ có thể đi qua chỗ của cậu không?”
“Nếu tớ nói Không thể, cậu có ngoan ngoãn ở yên chỗ cũ không?”
“Không biết.”
Harry thở dài: “Đến đây đi.”
Hôm đó không phải là một buổi tối yên ổn, cơn mưa đập vào căn nhà gỗ nhỏ đã không được sửa chữa nhiều ngày, quầy rượu dưới lầu lại luôn truyền tới tiếng va chạm “đinh đinh” giữa kim loại và thủy tinh.
Chỉ cần ngoài cửa truyền tới tiếng “cót két” của ván gỗ, Harry sẽ bất chợt choàng tỉnh, lo rằng có người sẽ lén cầm dao lẻn vào.
Alex, người luôn nhắc đến chuyện bị cướp giết, lại không có nhiều băn khoăn đến như vậy, hắn không tỉnh lại một lần nào.
Trời vừa sáng, bọn họ đã rời khỏi quán rượu nhỏ ngay, họ từ chối món trứng rán và thịt xông khói đắt tiền, để bụng đói quay về tìm chiếc xe hỏng hóc kia.
Sau một đêm mưa như thác đổ, Bristol 400 đã lõm sâu vào trong bùn lầy.
Người thợ máy đến vào buổi trưa, sửa chữa hết ba tiếng, ông ta đổi bánh xe, cuối cùng hợp lực với bọn họ để đẩy chiếc xe ra khỏi hố bùn.
Rốt cuộc hai người tiếp tục lên đường vào buổi trà chiều, trước khi ánh nắng hoàn toàn biến mất, họ lái được đến con đường mòn dẫn về dinh thự.
Vẫn như thường ngày, Martha đợi họ ở hành lang, Harry trong ấn tượng của bà đã bắt đầu trở nên phai nhòa, giờ đây bà còn thấp hơn cậu một cái đầu.
Bà vừa nhìn thấy Harry đã bụm miệng ngay, xúc động bảo cậu “Lớn nhanh đến vậy”, sau đó hỏi hai người tại sao lại “nhăn nheo” như thế, sau khi nghe Alex giải thích, bà đuổi hai người vào trong phòng bếp.
Phòng bếp vẫn giống hệt như trong trí nhớ của Harry, chiếc bàn dài, lò sưởi sát tường thật lớn và cửa sổ thông hơi hình tròn, ngay cả giỏ để khoai tây cũng vẫn còn ở chỗ cũ.
Vì để chuẩn bị cho hôn lễ, trong phòng chất đầy những phần thịt đã được ướp sẵn cùng với những vòng hoa chưa được trang trí xong, một nồi kem đánh được đặt trên bàn, Alex quết một ít rồi bỏ vào trong miệng, bị Martha dùng muỗng gõ vào mu bàn tay.
Trông thấy ánh mắt của Harry, hắn trừng mắt nhìn lại.
Martha bảo Harry đến ở căn phòng trước kia của cậu, lầu hai ở phía tây.
Harry kéo hành lý vào, đặt trên thảm, đi tới bên cửa sổ.
Chiếc ghế bập bênh đã nhỏ hơn trong trí nhớ của cậu, gỗ ghế cũng trông yếu ớt không chịu nổi.
Cậu đẩy cửa sổ ra, những cây dẻ bên ngoài chụm lại thành một chiếc bóng trong buổi hoàng hôn, sương mù bao phủ đồng ruộng hiện lên một màu nâu đục ngầu, ngọn đèn đường vừa được xây rọi vào trong đó.
Ga trải giường và gối hơi có mùi xà phòng và hơi bị dính bụi, Harry cầm chiếc gối lên, ở dưới chẳng có cái gì, có lẽ cậu có thể hỏi Martha có nhìn thấy khăn tay của mẹ cậu không nhưng cậu nhanh chóng bỏ đi ý định ấy.
Cậu vặn mở đèn bàn, quan sát căn phòng nhỏ này lần nữa.
Mười một năm sau, cậu đã trở về nhà..