Ngày 3 tháng Mười – Tôi phải làm một điều gì đó nếu không thì sẽ hóa điên mất. Bây giờ là sáu giờ, và chúng tôi gặp mặt trong phòng nghiên cứu trong một giờ rưỡi để ăn cái gì đó, vì bác sĩ Van Helsing và bác sĩ Seward đã nhất trí rằng nếu chúng tôi không ăn thì chúng tôi sẽ không làm việc với khả năng tốt nhất được. Chúng tôi sẽ làm hết sức mình. Chúa biết và yêu cầu rằng trong ngày hôm nay, tôi phải cố ghi lại ở bất kỳ cơ hội nào có được, vì tôi đang dám chấm dứt mọi suy nghĩ của mình. Tất cả mọi thứ, lớn hay nhỏ, đều phải được dẹp đi. Có thể kết cục sẽ dạy chúng ta điều tốt nhất. Điều dạy dỗ ấy, dù lớn hay nhỏ, cũng không thể đưa Mina hoặc tôi đến một tình trạng nào tồi tệ hơn hôm nay. Tuy nhiên, chúng tôi phải tin tưởng và hy vọng. Mina vừa mới nói chuyện với tôi, với những dòng lệ lăn dài trên đôi gò má thân thương, đó là lúc mà những điều đau khổ và thử thách đang kiểm tra sự tin cậy của chúng tôi. Chúng tôi phải tiếp tục có lòng tin, và Chúa sẽ giúp mọi việc đi đến kết cục. Kết cục! Ôi, Chúa tôi! Kết cục gì chứ?… Làm việc! Làm việc thôi!
Khi bác sĩ Van Helsing và bác sĩ Seward trở lại để xem xét ông Renfield tội nghiệp, chúng tôi dũng cảm tiếp nhận những chuyện đã diễn ra. Trước tiên, bác sĩ Seward nói với chúng tôi rằng khi ông ta và bác sĩ Van Helsing đi xuống phòng dưới họ thấy Renfield nằm trên sàn, hoàn toàn bất động. Mặt ông ấy thâm tím và bị nghiền nát, còn xương cổ thì bị gãy.
Bác sĩ Seward hỏi người hầu chịu trách nhiệm ở khu hành lang xem anh ta có nghe thấy gì không?Anh ta nói rằng anh ta đã ngồi xuống, anh ta thú nhận rằng mình đã bắt đầu nữa gà gật, thì anh ta nghe thấy những tiếng động lớn ở trong phòng, và sau đó thì Renfield cất tiếng gọi nhiều lần, “Chúa ơi! Chúa ơi! Chúa ơi!” Sau đó là tiếng của một cái gì đó rơi xuống, và khi anh ta đi vào phòng, anh ta thấy ông ta nằm trên sàn, úp mặt xuống, giống như lúc bác sĩ thấy ông ta. Van Helsing hỏi xem ông ta nghe thấy “nhiều loại tiếng động” hay chỉ “một loại tiếng,” và anh ta nói rằng anh ta không thể chắc được. Thoạt tiên thì có vẻ như có hai loại tiếng, nhưng chẳng có ai trong phòng nên chắc là chỉ có một loại thôi. Anh ta sẳn sàng thề nếu cần, rằng tiếng “Chúa ơi” đó chỉ được nói bởi người bệnh thôi.
Bác sĩ Seward nói với chúng tôi, khi chỉ còn chúng tôi còn lại, rằng anh ta không muốn đi sâu vào vấn đề này. Những cuộc thẩm vấn và điều tra đã được tiến hành, và chúng sẽ không bao giờ vươn tới được sự thật, và không có ai tin được vào cái sự thật đó. Như vậy, anh ta nghĩ rằng dựa trên những bằng chứng của người phục vụ cung cấp, có thể xác nhận rằng nguyên nhân cái chết là do một cú ngã rủi ro từ trên giường. Trong trường hợp những nhân viên chuyên điều tra những cái chết bất thường cần điều này, và tiến hành một cuộc điều tra hợp pháp, thì cũng sẽ dẩn đến cùng một kết quả.
Khi bắt đầu thảo luận đến câu hỏi rằng sắp tới sẽ phải làm gì, thì chuyện trước nhất chúng tôi quyết định là Mina sẽ phải hoàn toàn phục hồi sự tự tin. Dù là bằng cách nào đi nữa, bất kể sự thương tổn như thế nào, cũng phải giữ cho nàng yên ổn. Nàng tự mình đồng ý với những lời khuyên từng trãi này, và thật là đáng thương xót khi thấy nàng thật là can đảm, và một lần nữa đầy đau buồn trong cái hố sâu thăm thẳm của tuyệt vọng như vậy.
“Không được giấu diếm gì cả,” nàng nói, “Than ôi! Chúng ta cũng phải thật là sẵn sàng. Và ngòai ra không còn điều gì trên thế giới này có thể khiến cho tôi đau khổ hơn những gì tôi vừa gánh chịu, hơn nỗi đau khổ của tôi lúc này! Bất kể cái gì diễn ra, thì nó phải là những niềm hy vọng mới hoặc những sự khuyến khích mới cho tôi!”
Van Helsing nhìn nàng chăm chú trong khi nàng nói, và lên tiếng, thình *** h như dịu dàng, “Nhưng thưa bà Mina thân yêu, bà không cần phải lo sợ. Không phải cho bản thân bà, mà cho cho những người khác bên bà, sau tất cả những gì đã diễn ra?”
Khuôn mặt nàng như đanh hẳn lại, nhưng mắt nàng sáng lên với vẻ tận tâm của những kẻ tuẫn tiết khi nàng trả lời, “Ah không! Điều đó đã chắc trong tâm trí tôi rồi!”
“Điều gì?” ông ấy lịch lãm hỏi, trong khi chúng tôi vẩn đứng lặng, mỗi người theo đuổi cách riêng của mình để hiểu ý nghĩa trong câu nói của nàng.
Câu trả lời của nàng đến thẳng một cách đơn giản, như thể nàng chỉ giản đơn phát biểu một điều gì đó, “Bởi vì tôi đã thấy nó trong mình, và tôi sẽ quan sát nó thật rõ ràng, với một dấu hiệu nào đó gây hại cho bất kỳ ai tôi yêu mến, tôi sẽ chết!”
“Bà sẽ không tự kết liễu chính mình chứ?” ông ta hỏi, khàn giọng.
“Tôi sẽ. Nếu như không có một người bạn nào yêu thương tôi, bảo vệ tôi trước một nỗi đau khổ, trước một nỗ lực tuyệt vọng đến thế!” Nàng nhìn ông ta đầy ý nghĩa trong khi nói.
Ông ta đang ngồi, nhưng bây giờ ông đứng dậy, tiến đến gần nàng, và đặt tay mình lên vai nàng khi ông nói một cách trịnh trọng. “Con ta, có một người như thế đang ở đây cho những điều tốt đẹp dành cho con. Cho chính mình ta có thể giữ những điều giao ước với Chúa để mang đến một cái chết không đau đớn như vậy cho con, thậm chí trong cái lúc mà điều đó là điều tốt nhất. Không, nó sẽ rất an tòan! Nhưng con tôi…”
Trong một thóang ông như nghẹn lại, và một tiếng nức nở lớn cuộn lên trong cổ họng ông. Ông nuốt nó xuống và tiếp tục. “Ở đây có một số người đang đứng giữa con và cái chết. Con không được chết. Con không được chết bởi bất kỳ chuyện gì, tệ nhất là cho tất cả những gì của con. Cho đến khi cái tên kia, kẻ đã làm nhơ nhuốc cuộc sống êm dịu của con, có được một cái chết thật sự mà con sẽ không vướng phải. Còn nếu hắn vẩn là một kẻ Chưa Chết nhanh nhẹn, cái chết của con sẽ thậm chí làm cho con giống như hắn. Không, con phải sống! Con phải vật lộn và phấn đấu để được sống, dù rằng cái chết đã trở nên giống như một ân huệ không thể nói ra. Con phải chiến đấu với chính tên Thần Chết ấy, dù hắn đến với con trong đau khổ hay vui sướng. Dù ngày hay đêm, dù an tòan hay hiểm nguy! Cho linh hồn còn sống của con ta yêu cầu con không được chết. Không, không được nghĩ đến cái chết, cho đến khi tên quái vật ghê gớm kia chỉ còn là quá khứ.”
Cô gái tội nghiệp thân yêu trở nên trắng bệch như xác chết, run rẩy và rùng mình, như tôi thấy vũng cát lún run rẩy và trăn trở trong những đợt sóng thủy triều. Tất cả chúng tôi đều im lặng. Chúng tôi không thể làm được gì. Cuối cùng nàng trở nên bình tĩnh, và quay về phía ông ấy, nàng nói dịu dàng, nhưng thật đau khổ, khi nàng nắm lấy tay mình, “Tôi hứa với ông. người bạn thân của tôi, rằng nếu Chúa để tôi sống, tôi sẽ phấn đấu để làm điều đó. Cho đến khi, đến khi thời điểm của Hắn đến, những điều khủng khiếp này sẽ rời khỏi tôi.”
Nàng thật là tốt đẹp và can đảm đến nỗi tất cả chúng tôi đều cảm thấy con tim mình được tiếp thêm sức mạnh để làm việc và chịu đựng với nàng, và chúng tôi bắt đầu thảo luận xem mình sẽ làm gì tiếp. Tôi nói với nàng rằng tất cả những giấy tờ của nàng đều được an toàn, và tất cả các giấy tờ hay nhật ký và các cuộn băng thu có thể chúng tôi sẽ phải dùng đến sau này, và vẩn tiếp tục ghi lại các tài liệu như nàng đã làm trước đây. Nàng có vẻ hài lòng với những chuyện này, nếu như “hài lòng” có thể dùng để nối kết một sự buồn bã đến thế với một niềm vui.
Như thường lệ Van Helsing lại nghĩ đến mọi chuyện trước những người khác, và đã chuẩn bị với thứ tự chính xác các công việc của chúng tôi.
“Nó có thể tốt đấy,” ông ta nói “với cuộc gặp gỡ của chúng ta sau khi viếng thăm Canfax chúng ta quyết định không làm gì với những chiếc hộp đất nằm ở đấy. Chúng ta đã làm như vậy, và bác tước hẳn phải đoán được mục đích của chúng ta, và không nghi ngờ gì nữa, đã lo liệu sớm để làm thất bại một cố gắng tương tự về những chuyện như vậy. Nhưng bây giờ hắn không biết mục đích của chúng ta. Không những thế, hoàn toàn rất có thể là hắn không biết là chúng ta đã có những năng lực để làm triệt tiêu hoàn toàn những nòi giống của hắn, và hắn không thể dùng đến chúng như trước đây.
“Chúng ta bây giờ phải làm việc nhiều hơn nữa để sắp xếp các kiến thức của chúng ta. Khi chúng ta kiểm tra ngôi nhà ở Piccadilly, chúng ta có thể dõi theo các dấu vết của chúng. Hôm nay là của chúng ta, và là những hy vọng cuối cùng của chúng ta.Mặt trời đang mọc trên những nỗi đau buồn của chúng ta và sẽ bảo vệ chúng ta khi nó còn chiếu sáng. Đến khi mặt trời lặn vào tối nay, con quái vật sẽ có thể phục hồi những gì mà nó có thể làm lúc này. Hắn đang bị giam hãm trong lốt vỏ trần tục. Hắn không thể hòa tan và trong không khí hay không thể biến mất qua các vết nứt, khe hở hay các vết nẻ. Nếu hắn muốn đi qua cửa, hắn vẩn phải mở cửa như một người thường. Vậy tất cả những gì chúng ta phải làm là săn đuổi tất cả các hang ổ của hắn và làm tiệt nọc chúng. Vì vậy chúng ta sẽ làm, nếu như chúng ta chưa kịp bắt và tiêu diệt hắn, thì chúng ta sẽ đẩy hắn vào một cái vịnh nơi mà việc mà chúng ta bắt và tiêu diệt hắn chỉ còn là vấn đề thời gian.”
Đến đây thì tôi đứng dậy bởi vì tôi không thể chịu đựng được ý nghĩ rằng những giây phút đang trôi vùn vụt qua là vô cùng quý giá cho cuộc sống của Mina, trong khi đó chúng tôi chỉ toàn nói những chuyện không làm được. Nhưng Van Helsing đã giơ tay ông lên cảnh cáo,
“Không, bạn Jonathan,” ông ta nói, “trong lúc này, con đường nhanh nhất đến dích là con đường xa nhất, như cách ngôn của các anh đã nói. Chúng ta sẽ làm và làm mọi việc với một tốc độ kinh khiếp, khi mà thời điểm đến. Nhưng hãy nghĩ đi, tất cả những gì có thể là chìa khóa cho chuyện này chính là ngôi nhà ở Piccadilly. Bá tước có thể đã mua thêm nhiều ngôi nhà khác. Hắn ta có thể có các văn bản mua bán, chìa khóa và những thứ khác của chúng. Hắn ta sẽ có nhiều giấy tờ mà hắn đã viết lên. Hắn ta sẽ có nhiều cuốn séc. Phải có nhiều thứ thuộc về hắn đang tồn tại đâu đó. Vì sao không tập trung vào điểm này thật tập trung, thật lặng lẽ, vào nơi mà hắn đến và đi, vào mọi lúc mọi thời điểm, khi mà cả một vùng giao thông rộng lớn sẽ không thể có một sự chú ý nào. Chúng ta sẽ đến và kiểm tra ngôi nhà. Và khi chúng ta biết được rằng nó chứa gì, thì chúng ta sẽ làm điều mà bạn Arthur đã nói, săn đuổi ‘đến tận cùng trái đất’ như cách nói của anh ta và chúng ta sẽ hạ con cáo già này, phải không? Điều đó không đúng sao?”
“Vậy thì chúng ta đi ngay,” tôi kêu lên, “chúng ta đang lãng phí những thời gian rất rất quý giá!”
Giáo sư vẩn bất động, mà chỉ đơn giản nói, “Và làm thế nào chúng ta có thể đi vào trong căn nhà ở Piccadilly?”
“Bằng mọi cách!” tôi kêu lên. “Chúng ta sẽ bẻ khóa nếu cần.”
“Thế còn cảnh sát nước anh? Họ sẽ làm gì và họ sẽ nói gì?”
Tôi khựng lại, nhưng tôi biết rằng nếu ông ta muốn chậm lại thì hẳn ông ta có lý do chính đáng. Vì vậy tôi nói, với tất cả sự bình thản mà tôi có thể có được. “Đừng chờ đợi nhiều hơn cần thiết. Tôi chắc rằng ông biết sự hành hạ mà tôi đang phải chịu đựng.”
“Và, con trai ta, cũng là cái mà ta đang chịu đựng. Và thật sự ra, tôi không muốn làm tăng thêm nỗi đau khổ của anh. Nhưng chỉ cần suy nghĩ những gì chúng ta có thể làm, đến khi tất cả mọi thứ đều sẳn sàng. Và đó là thời điểm cho chúng ta. Tôi đã nghĩ và nghĩ, và đối với tôi, có vẻ như cách đơn giản nhất lại tốt hơn hết. Nào chúng ta muốn vào nhà, nhưng chẳng có chìa khóa. Có phải thế không?” Tôi gật đầu.
“Nào, hãy giả sử rằng, nếu như trong thực tế anh chính là người chủ của ngôi nhà và không thể đi vào nhà. Và vì anh không có lòng dạ nào để bẻ khóa, thì anh sẽ làm gì?”
“Tôi sẽ gọi đến một người thợ sữa khóa và yêu cầu anh ta mở khóa cho tôi?”
“Và cảnh sát có can thiệp hay không?”
“Ồ không! Ông nếu họ biết rằng người kia đang được thuê làm.”
“Vậy thì” ông ta nhìn tôi thật dịu dàng khi cất tiếng, “tất cả còn lại để nghi ngờ chỉ còn là vấn đề lương tâm của người được thuê, và niềm tin của những nhân viên cảnh sát kia sẽ dựa trên việc người được thuê ấy có một lương tâm tốt hay xấu. Những nhân viên cảnh sát của các anh hẳn là những người nhiệt tình và thông minh, rất thông minh để đọc thấu tâm can người, và họ hẳn sẽ làm bối rối chính mình trước một vấn đề như vậy. Không, không, bạn Jonathan của tôi, bạn đã mở khóa hàng trăm căn nhà trống rỗng ở London, và ở bất kỳ thành phố nào trên thế giới, và nếu anh làm lại điều đó một cách thành thạo thì sẽ không ai can thiệp. Tôi có đọc về một người tử tế sở hữu một căn nhà tuyệt đẹp ở London, và khi anh ta đi nghỉ hè hàng tháng ở Thụy Sĩ và khóa cửa nhà, một tên trộm đã đột nhập và bẻ khóa cửa sổ phía sau rồi vào nhà. Sau đó hắn đi ra, mở cửa chớp phía trước và đi ra bằng cửa này, trước những đôi mắt chăm chú của cảnh sát. Đoạn hắn bắt đầu rao bán đấu giá căn nhà, quảng cáo nó, dán những thông báo lớn. Và đến ngày nọ hắn đã bán được bởi một tổ chức đấu giá lớn tất cả những đồ đạc của cái người chủ thực sự ngôi nhà kia. Sau đó hắn đến chỗ công ty xây dựng, bán căn nhà, tạo ra một bản thỏa thuận trong đó chính hắn ký tên vào và mang đi trong tất cả những lúc cần thiết. Còn cảnh sát của các anh và những người có trách nhiệm khác giúp đỡ hắn tất cả những gì hắn cần. Và đến khi người chủ căn nhà trở về sau kỳ nghỉ ở Thụy Sĩ thì anh ta chỉ thấy một cái lỗ lớn ở cái nơi mà trước đây căn nhà của anh ta ở đó. Tất cả đã được làm đúng luật, và công việc mà chúng ta sắp làm cũng sẽ đúng luật. Chúng ta sẽ không đi quá sớm để những người cảnh sát phải để ý, và sẽ lấy làm lạ. Mà chúng ta sẽ đi sau mươi giờ, khi mà đường phố đã đông người, và chúng ta sẽ làm những chuyện như thể chúng ta thực sự là chủ ngôi nhà.”
Tôi không thể không nhận thấy là ông ta nói đúng và nỗi sợ hãi khủng khiếp trên khuôn mặt của Mina đã nhanh chóng chuyển dần thành sự thư giãn trầm lặng. Hy vọng đã được thắp lên bởi con người dẩn đầu tài giỏi này.
Van Helsing tiếp tục, “Khi đã vào nhà chúng ta có thể tìm thấy thêm các điều chỉ dẩn khác. Dù sao đi nữa thì một số trong chúng ta có thể ở lại đây trong khi những kẻ còn lại sẽ tìm ở những nơi khác nơi có thể có những cái thùng đất khác, ở Bermondsey và Mile End.”
Huân tước Godalming đứng dậy. “Tôi có những thứ có thể dùng được. Tôi sẽ đánh điện nói người của tôi chuẩn bị ngựa và mang đến những nơi thích hợp nhất.”
“Nghe đây, bạn già” Morris nói, “ý tưởng chính là làm cho tất cả đều sẳn sàng trong trường hợp muốn đi ngựa, nhưng cậu đừng nghĩ rằng những con ngựa lộng lẫy với những huy hiệu trang trí của cậu trên những con đường đến Walworth hay Mile End sẽ khiến cho chúng tớ cảm thấy hấp dẩn với những mục đích mà bọn ta đang theo đuổi. Theo tớ thì chúng ta nên đi xe trạm khi chúng ta đi xuống miền Nam hay miền Đông. Và thậm chí chúng ta có thể để họ lại nơi nào đó lân cận với nơi mà chúng ta sẽ đến.”
“Bạn Quincey nói đúng!” giáo sư nói. “Anh ta đã nhìn thấy được mọi việc. Chúng ta đang làm một việc khó khăn, và chúng ta không nên để người khác có nhiều cơ hội nhìn thấy chúng ta.”
Mina đã có một cái nhìn tươi tỉnh hơn đối với mọi vật và tôi hãnh diện khi nhận thấy tính khẩn cấp của sự việc đã giúp nàng quên đi khỏang thời gian khủng khiếp đã phải chịu đựng trong đêm. Nàng trông rất, rất xanh xao, gần như trắng bệch, và đôi môi nàng đã khô nứt ra, làm đôi hàm răng trắng của nàng như đang có vẻ nhô lên. Tôi không nói lên điều này, hầu tránh cho nàng những nỗi đau không cần thiết, nhưng nó khiến cho máu trong huyết quản của tôi như đông lại khi nghĩ đến những điều đã xảy ra cho Lucy tội nghiệp lúc bá tước hút máu nàng. Lúc này thì vẩn chưa có dấu hiệu nào cho thấy đôi hàm răng ấy trở nên sắc bén hơn, nhưng thời gian thì qua rất nhanh, và không có thời gian để sợ nữa.
Khi chúng tôi đi thảo luận về trình tự những công việc cần làm, về việc sắp xếp những nỗ lực của mình, thì lại nảy sinh những điều tranh cãi mới. Cuối cùng thì mọi người đồng ý rằng trước khi bắt đầu ở Piccadilly, chúng tôi sẽ triệt phát cái hang ổ gần bên của bá tước bằng tay. Trong trường hợp hắn phát hiện ra điều đó sớm, chúng tôi vẩn vượt lên trước hắn bằng sự tàn phá của mình. Và khi đã làm giảm đi sự hiện diện vật chất của hắn, ở điểm yếu nhất của hắn, có thể sẽ cho chúng tôi thêm một số sự gợi ý mới.
Để bắt đầu những nỗ lực của nhóm, giáo sư đề nghị rằng sau khi chúng tôi đến Carfax, cả bọn chúng tôi nên vào ngôi nhà ở Piccadilly. Tôi nên cắt hai bác sĩ đến đó, trong khi Huân tước Godalming và Quincey thì sẽ tìm những hang ổ ở Walwork và Mile End để tiêu diệt nó. Giáo sư nêu ra một vấn đề có thể xảy ra rằng bá tước có thể xuất hiện ở Piccadilly trong ngày hôm đó, và nếu vậy thì thì chúng tôi có sẽ phải bất chợt đương đầu với hắn. Đó là một vấn đề mà tôi tích cực chú ý, và đến lúc này tất cả sức lực của tôi đã tập trung lại, tôi nói rằng tôi muốn ở lại và bảo vệ Mina. Tôi nghĩ rằng ý nghĩ của tôi sẽ giải quyết được vấn đề, nhưng Mina không muốn nghe đến điều này. Nàng nói rằng có thể sẽ có một số vấn đề về luật pháp mà tôi có thể hữu dụng. Giữa những giấy tờ các loại của bá tước có thể có một số chỉ dẩn mà tôi có thể lần ra từ những kinh nghiệm của mình ở Transylvania. Và nếu mọi chuyện diễn ra như vậy, chúng tôi có thể tập trung tất cả sức mạnh của mình khi cần để đương đầu với năng lượng siêu nhiên của bá tước. Nàng nói rằng đó là hy vọng cuối cùng của nàng, và tất cả chúng tôi phải làm việc cùng nhau.
“Đối với em,” nàng nói, “em không sợ gì hết. Mọi thứ đã tệ đến mức có thể có rồi. Và dù bất kỳ cái gì có thể xảy ra phải chứa trong nó một chút gì để hy vọng hay an ủi. Hãy đi đi, chồng của em! Chúa có thể, nếu Người muốn, bảo vệ em trong lúc đơn độc cũng như lúc bên bất kỳ ai.”
Đến đây thì tôi bật khóc. “Vậy thì nhân danh Chúa, chúng ta hãy đi ngay, vì chúng ta đang làm mất thời gian. Bá tước có thể đến Piccadilly sớm hơn chúng ta nghĩ.”
“Không như vậy đâu!” Van Helsing nói, khoanh tay lại.
“Nhưng vì sao?” tôi hỏi.
“Anh quên rằng,” ông nói, với một nụ cười tự tin, “rằng đêm qua hắn đã có một bữa tiệc no nê, và sẽ ngủ trễ à?”
Tôi mà quên ư! Tôi sẽ không bao giờ… không bao giờ có thể! Làm sao mà bất kỳ ai trong chúng ta có thể quên được thảm cảnh khủng khiếp vừa qua! Mina rung lên trong cố gắng giữ vẻ can đảm, nhưng cơn đau xót đã chế ngự được nàng và nàng đưa tay lên trước mặt, và khẽ rùng mình khi nàng rên lên. Van Helsing không muốn gợi lại cho nàng những chuyện khủng khiếp này. Ông ta chỉ đơn giản là không chú ý đến nàng và phần của nàng trong việc này trong những nỗ lực trí óc của ông.
Khi ông nhận thức được điều này sau khi nói, ông hỏang hốt vì sự bất cẩn của mình và cố an ủi nàng.
“Ôi, bà Mina,” ông ta nói, “bà Mina thân, thân yêu, than ôi! Tại tôi tất cả, kẻ đã rất sùng kính bà lại nói ra những điều đáng quên đi như vậy. Đôi môi già nua ngu ngốc này của tôi và cái đầu lão ngu xuẩn này không đáng được như vậy đâu, nhưng bà hãy quên nó đi, được không nào?” Ông ấy cúi xuống chỗ nàng khi ông nói.
Nàng đua tay lên, nhìn ông qua những dòng lệ mờ, và nói khản đặc, “Không, tôi sẽ không quên, bởi vì nó vô cùng đáng cho tôi nhớ lấy. Với nó tâm khảm tôi sẽ luôn tràn ngập một điều rằng ông thật là đáng yêu, và đó là tất cả những gì tôi sẽ nhớ. Nào, mọi người phải đi nhanh lên. Bữa sáng đã sẳn sàng, và tất cả chúng ta phải ăn vì chúng phải khỏe mạnh.”
Bữa sáng thật là một bữa ăn lạ cho tất cả chúng tôi. Chúng tôi cố khuyến khích và động viên lẩn nhau, và Mina là người tươi tỉnh và vui vẻ nhất trong số chúng tôi. Khi tất cả đã xong, Van Helsing đứng dậy và nói, “Bây giờ, hỡi các bạn thân yêu của tôi, chúng ta phải tiến đến những khó khăn khủng khiếp phía trước. Tất cả chúng ta đều đã vũ trang trong cái đêm đầu tiên mà chúng ta đến thăm hang ổ của kẻ thù. Hãy vũ trang lần nữa để đương đầu về cả tinh thần lẩn thể xác chứ?”
Chúng tôi đồng ý với ông ta.
“Thế thì tốt lắm. Nào, bà Mina, dù thế nào bà cũng sẽ an tòan đến tận hòang hôn,. Và trước khi đó chúng tôi sẽ trở về… nếu… Chúng tôi sẽ trở về! Nhưng trước khi đi hãy để tôi được trông thấy bà đã được bảo vệ trước mọi cuộc tấn công. Tôi đã có cho riêng mình những thứ mà khi bà đi ngủ, bà nên chuẩn bị căn phòng mình bằng đặt chúng, những thứ mà ta đã biết để Hắn không thể vào. Bây giờ để tôi được bảo vệ đích thân bà. Tôi sẽ chạm vào trên trán bà một mẩu Bánh Thánh nhân danh Cha, Con và…
Rồi một tiếng thét vang lên làm những trái tim của chúng tôi lần lượt như đông cứng cả lại. Khi ông ấy chạm Bánh vào trán Mina, nó đã héo quắt đi nó… cháy bùng vào da thịt như thể đó là một miếng kim loại nóng trắng. Bộ não yêu thương tội nghiệp của nàng nói cho nàng biết ý nghĩa của sự kiện ấy nhanh như khi thần kinh của nàng cảm nhận được sự đau đớn, và cả hai thứ đó đã đánh quỵ nàng, đã vượt trên bản năng tự nhiên khiến tiếng thét hãi hùng ấy bật lên.
Nhưng lời nói trở về với tâm tưởng của nàng rất nhanh. Tiếng vọng của câu thét vẩn còn chưa dứt, nó vẩn còn reo vang trong không khí bởi những sự phản xạ âm thì nàng đã quỵ gối xuống trên sàn nhà với sự đau đớn trong tủi nhục. Phủ tóc xuống che kín mặt, như một người bệnh phong kéo áo chòang, nàng khóc thét lên.
“Bẩn thỉu! Xấu xa! Thậm chí cả Đấng Tối Cao cũng xa lánh da thịt ô uế của tôi! Tôi phải chịu đựng cái dấu hiệu đáng hổ thẹn này trên trán mình cho đến tận Ngày Phán Xét.”
Tất cả đều khựng lại. Tôi buông mình xuống bên nàng trong nỗi đau khổ tuyệt vọng, và vòng tay siết chặt lấy nàng. Trong vài phút những trái tim tràn đầy đau khổ của chúng tôi cùng hòa nhịp đập, còn những người bạn đứng quanh chúng tôi quay đi khi những dòng lệ của họ lặng lẽ tuôn rơi. Rồi Van Helsing quay lại và nói thật dũng cảm. Dũng cảm đến mức tôi không thể cảm thấy rằng ông ta đang cố gắng truyền cảm hay nói bằng những gì không thuộc con người ông.
“Rất có thể là bà sẽ phải chịu đựng dấu hiệu này đến tận cái ngày mà Chúa chính ngài thấy nó. Chắn chắn Ngài sẽ sữa chữa lại tất cả những lỗi lầm trên Trái Đất này mà các con cháu Ngài đã phạm phải trong Ngày Phán Xét. Và ồ, bà Mina, con thân yêu, con yêu, ở đây con có thể thấy là tất cả chúng ta những người yêu thương con đều có mặt ở đây để được nhìn thấy cái lúc mà cái dấu hiệu đỏ này, dấu hiệu ấn chứng những kiến thức của Chúa, sẽ tan biến đi, để lại vầng trán của con tinh khiết như chính trái tim của con mà chúng ta đều biết rõ.Chắc chắn khi chúng ta còn sống, cái dấu hiệu kia sẽ tan biến đi khi Chúa thấy phải nhấc đi cái gánh nặng đặt lên chúng ta. Đến khi nào chúng ta vẩn còn mang trên người Thánh Giá của chúng ta, khi mà Con Của Người vẩn tuân theo những Ý Nguyện Của Người. Có thể rằng chúng ta đã được lựa chọn làm những công cụ thực hiện những ý định tốt đẹp của Người, và chúng ta sẽ đi theo mệnh lệnh của Người, dù rằng phải vượt qua bao khổ đau và hổ thẹn. Vượt qua nước mắt và máu. Vượt qua nghi ngờ và sợ hãi và tất cả làm nên sự khác biệt giữa Chúa và con người.”
Trong lời nói của ông ấy có niềm hy vọng và sự an ủi. Và chúng tạo nên sự chịu đựng. Mina và tôi cùng cảm thấy thế, và đồng thời chúng tôi mỗi người đều cầm lấy tay người đàn ông già và cúi hôn lên đấy. Rồi không nói thêm một lời tất cả chúng tôi đều quỳ xuống, nắm lấy tay nhau, chúng tôi cũng thề sẽ trung thực với nhau. Chúng người đàn ông sẽ tự mình nâng tấm màn u ám đang bao phủ trong tim nàng, người mà tất cả chúng tôi đều yêu thương theo cách của mình. Và chúng tôi đều cầu nguyện để được giúp đỡ và che chở trong cái nhiệm vụ kinh khiếp đang đặt ra trước mặt mình. Đã đến lúc khởi hành. Và tôi nói lời chia tay với Mina, một cuộc chia ly mà không một ai trong chúng tôi có thể quên được cho đến tận cuối đời, và chúng tôi khởi hành.
Có một điều mà tôi đã xác quyết trong tâm tưởng của mình. Nếu chúng tôi thấy Mina cuối cùng phải trở thành ma cà rồng, thì nàng sẽ không dấn thân vào vùng đất bí ẩn kinh khiếp ấy một mình. Tôi nghĩ đến điều đó vì trong thời cổ một ma cà rồng có nghĩa là nhiều. Chỉ khi mà thân xác kinh khiếp của chúng có thể yên nghỉ trong đất mẹ linh thiêng, thì chỉ có những tình yêu thần thánh nhất mới có thể phục hồi họ khỏi vị thứ hãi hùng đó.
Chúng tôi đến Carfax mà chẳng gặp rắc rối gì mà bắt đầu tìm tất cả những gì trông giống như cơ hội đầu tiên. Thật khó mà tin rằng giữa tất cả những thứ chán ngắt được bao phủ bởi những lớp bụi hờ hững và đổ nát này lại là nguồn gốc cho cái điều khủng khiếp mà chúng tôi đã biết. Tâm trí chẳng gợi lại cho chúng tôi điều gì, và cũng chẳng có kỷ niệm kinh khiếp nào thúc đẩy chúng tôi, chúng tôi thật sự gặp khó khăn trong tiến hành công việc. Chúng tôi không tìm thấy một giấy tờ nào, hay là chẳng có dấu hiệu nào có thể dùng được trong nhà. Và trong ngôi nhà thờ cổ những cái hộp lớn vẩn giống như lần cuối chúng tôi nhìn thấy nó trước đây.
Bác sĩ Van Helsing trịnh trọng nói với khi chúng tôi đứng trước mặt ông, “Và bây giờ, các bạn tôi, chúng ta có bổn phận phải làm ở đây. Chúng ta phải tẩy uế nơi này, phải làm linh thiêng lại chốn kỷ niệm thần thánh này, cái nơi mà hắn đã từ một nơi xa xôi đến làm cho xuống cấp như vậy. Hắn chọn vùng đất này bởi vì nó đã từng là một nơi linh thiêng. Vì thế chúng ta sẽ tiêu diệt hắn bằng chính vũ khí của hắn, chúng ta sẽ làm cho nơi này vẩn tiếp tục linh thiêng. Nó vốn đã được thần thánh hóa bởi bàn tay con người, giờ chúng ta sẽ làm cho nó được thần thánh hóa nhân danh Chúa.”
Khi ông nói, ông lấy từ trong túi ra một cái vit và vặn mạnh, rồi nắp của một cái hộp nhanh chóng bật lên. Đất trong hộp có mùi mốc và ngột ngạt, nhưng chúng tôi không thấy có gì đáng chú ý, nên tất cả sự chú ý của chúng tôi lại tập trung về phía giáo sư. Ông lấy từ trong hộp ra một mẫu Bánh Thánh và đặt nó cung kính lên dất, và rồi ông đóng nắp và bắt đầu đóng đinh, chúng tôi giúp ông làm.
Chúng tôi lần lượt làm như vậy với mỗi cái hộp lớn, và rời đi khi thấy đã làm xong với tất cả các hộp. Nhưng mỗi cái hộp đó là để lại cho Chủ Nhà. Khi chúng tôi đóng cổng lại sau lưng, giáo sư nói trịnh trọng, “Chúng ta đã làm được nhiều việc. Nếu chúng ta có thể thành công như vậy với những nơi khác, thì ánh mặt trời của buổi hòang hôn hôm nay có thể rọi trên vầng tráng trắng như ngà của bà Mina mà chẳng thấy một vết nhơ nào.”
Khi chúng tôi băng qua bãi cỏ trên đường ra ga đón xe lửa thì chúng tôi thấy mặt trước của viện điều dưỡng. Tôi nhìn hăm hở và từ cửa sổ phòng mình tôi nhìn thấy Mina. Tôi vẫy tay với nàng, và gật đầu để nói rằng công việc của chúng tôi đã thành công tốt đẹp. Nàng gật đầu lại để nói rằng nàng đã hiểu. Lần cuối cùng tôi thấy nàng đang vẫy tay tạm biệt. Chúng tôi bước đến sân ga với trái tim trĩu nặng và chúng tôi bước lên sàn với nghị lực của mình. Tôi viết những dòng này trên xe lửa.
Piccadilly, 12:30. Ngay trước khi chúng tôi đến đường Fenchurch, huân tước Godalming nói với tôi, “Quincey và tôi sẽ tìm thợ khóa. Tốt hơn ông đừng đi với chúng phòng khi có gì khó khăn. Dù như thế nào đi nữa sẽ không có gì quá tệ cho chúng tôi khi phải đột nhập vào ngôi nhà trống. Nhưng ông là luật sư và người ta có thể nói rằng ngài nên hiểu biết tốt hơn về Luật Đòan Thể Xã Hội.”
Tôi nghiêm trang nói rằng tôi không sợ chia xẻ nguy hiểm cũng như sự dè bĩu, nhưng ông ấy đã tiếp tục, “Ngòai ra, ít người thì sẽ ít gây chú ý hơn. Chức danh của tôi sẽ khiến mọi việc diễn ra ổn thỏa với người thợ khóa, và với bất kỳ người cảnh sát nào có thể chợt đến. Tốt hơn ngài nên đi với Jack và giáo sư để đợi ở Công Viên Xanh. Đâu đó trong phạm vi có thể theo dõi ngôi nhà, và khi ngài thấy cửa mở và người thợ khóa đi rồi, thì mọi người hãy đi vào. Chúng tôi sẽ để ngỏ cửa cho các bạn, và đợi các bạn vào.”
“Lời khuyên tốt!” Van Helsing nói, và chúng tôi không bàn thêm nữa. Godalming và Morris nhanh chóng lao đi bằng xe, và chúng tôi đi theo lối khác. Tại góc đường Arlington chúng tôi làm như tình cờ tản bộ vào Công Viên Xanh. Tim tôi đập mạnh khi tôi thấy ngôi nhà đang chứa đựng rất nhiều hy vọng của chúng tôi, lờ mờ và im lìm trong cái địa thế hoang vắng của nó giữa ngôi nhà hàng xóm trông sinh động và sạch sẽ hơn hẳn. Chúng tôi ngồi trên băng đá giữa một tầm nhìn thuận lợi, và bắt đầu hút xì gà, làm sao cho ít gây sự chú ý càng tốt. Những phút trôi qua nhưng những bước chân đeo chì khi chúng tôi chờ đợi những người còn lại đến.
Cuối cùng chúng tôi thấy một xe bốn bánh đến. Ở bên ngòai, với dáng vẻ thong thả là Huân tước Godalming và Morris. Và đi xuống từ thân xe là một người đàn ông chắc nịch với chiếc túi dệt đựng đồ nghề. Morris trả tiền cho người đánh xe, anh ta đưa tay lên nón chào và đánh xe đi. Cả hai cùng bước xuống cầu thang và huân tước Godalming giải thích việc ông ta muốn làm. Người thợ khóa thong thả cởi áo khoác và treo nó lên một cái đinh trên lan can, nói điều gì đó với một người cảnh sát vừa tản bộ đến. Viên cảnh sát gầu ưng thuận, và người đàn ông cúi xuông đặt cái túi ra phía sau. Sau khi lục lọi, ông ta lựa chọn một số dụng cụ và đặt ra ngòai theo một thứ tự kiểu cách.
Rồi ông đứng dậy, khi cái lỗ khóa, và thổi vào nó và quay sang người thuê ông ta, phác một ký hiệu. Huân tước Godalming mỉm cười, và người đàn ông lấy lên một chùm lớn những chìa khóa. Lựa chọn một trong số chúng, ông ta bắt đầu thăm dò cái khóa, và thử tìm cách xử lý nó. Sau khi dò dẫm một lúc ông thử sang cái thứ hai rồi đến cái thứ ba. Ngay tức khắc cánh cửa mở toang dưới cái đẩy nhẹ của ông ta, rồi ông cùng với hai người kia bước vào sảnh đường. Chúng tôi vẩn ngồi. Điếu xì gà của tôi được rít dữ dội, nhưng Van Helsinh vẩn lạnh như tiền. Chúng tôi kiên nhẫn ngồi đợi cho đến khi chúng tôi thấy người đàn ông kia đi ra và mang theo cái túi. Rồi ông ta giữ cánh cửa mở rộng, kềm chặt nó bằng đầu gối trong khi ông đặt khóa vào ổ. Cuối cùng ông đưa cho huân tước Godalming, ông này lấy ví ra và đưa cho ông ta cái gì đó. Người đàn ông đưa tay lên mũ, xách lấy túi bỏ vào trong áo khoác và bước đi. Chẳng có gì gây nên sự chú ý của tất cả chung quanh.
Khi người đàn ông đã đi hẳn, cả ba chúng tôi băng qua đường và gõ cửa. Nó được mở ngay bởi Quincey Morris, đứng cạnh anh là huân tước Godalming đang đốt xì gà.
“Nơi này trông có vẻ ghê tởm quá,” huân tước nói khi chúng tôi bước vào. Thật sự trông nơi đây thật ghê tởm. Giống như cái nhà thờ cổ ở Carfax. Với kinh nghiệm trước đây chúng tôi dễ dàng nhận ra rằng bá tước tự do sử dụng chỗ này. Chúng tôi thám hiểm khắp ngôi nhà, và luôn giữ mình đề phòng mọi cuộc tấn công, vì chúng tôi biết mình đang đương đầu với một kẻ thù khỏe mạnh và hoang dại như thế nào, và chúng tôi không biết là bá tước đang có trong nhà hay không.
Trong phòng ăn, nằm ở phía sau sảnh đường, chúng tôi thấy tám cái hộp đất. Chỉ có tám cái trong chín cái mà chúng tôi đang tìm kiếm. Công việc của chúng tôi chưa chấm dứt, và sẽ không bao giờ chấm dứt cho đến khi chúng tôi tìm thấy cái hộp bị mất.
Trước tiên chúng tôi mở cửa chớp trên cửa sổ để nhìn xuyên qua khỏang đá hẹp ngay trước bề mặt trống trơn của trại ngựa, hướng đến một cái gì giống như phía trước của một ngôi nhà thu nhỏ. Không có cửa sổ trên nó và chúng tôi không sợ bị nhìn lén. Chúng tôi không để mất thời gian mà tìm kiếm lời giải cho câu đố ngay. Chúng tôi thấy rõ là bá tước không có trong nhà, và chúng tôi bắt đầu tìm kiếm mọi dấu vết của hắn.
Sau khi liếc nhanh qua phần còn lại của căn phòng, từ nền móng đến gác mái, chúng tôi tiến đến kết luận rằng phòng ăn có thể chứa những dấu vết nào đó của bá tước. Và chúng tôi lập tức lục sóat nó. Chúng nằm trên chiếc bàn lớn trong phòng ăn theo một thứ tự lộn xộn.
Ở đấy có các tiêu đề chứng thư về ngôi nhà ở Piccadilly xếp thành một đống lớn, chứng thư về việc mua bán các ngôi nhà ở Mile End và Bermondsey, các giấy tờ ghi chú, phong bì, bút và mực. Phủ trên tất cả chúng làm một tờ giấy bao giữ chúng khỏi bụi. Ở đây còn có bàn chải quần áo, bàn chải và lược, cái bình và cái chậu. Cái vật sau này chứa một vũng nước bẩn có màu thẩm đỏ như có pha máu. Cuối cùng của tất cả những thứ này là một đống nhỏ chìa khóa đủ loại, đủ kích cỡ, có thể thuộc về nhiều ngôi nhà khác nhau.
Khi chúng tôi tìm thấy thứ sau cùng này, huân tước Godalming và Quincey Morris lấy những bản ghi chú chính xác về các địa chỉ của những ngôi nhà ở phía Đông và phía Nam, lấy những chìa khóa của chúng khỏi đống chìa khóa lớn, và bắt đầu đi triệt phá những cái hộp ở những nơi này. Những người còn lại trong chúng tôi ngồi lại, với tất cả sự kiên nhẫn mà chúng tôi có thể có, đợi họ quay về hoặc là sự xuất hiện của bá tước.