(ĐƯỢC DÁN TRONG NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY)
Theo tin của phóng viên.
Whitby.
Một trong những cơn bão hung hãn và bất ngờ nhất mà người ta ghi nhận lại được đã diễn ra ở đây, mà kết quả để lại của nó thật lạ lùng và khó tin. Thời tiết gần đây có vẻ khá oi bức, nhưng cũng không đến nỗi quá đặc biệt trong tiết tháng Tám này. Chiều chủ nhật vẩn đẹp trời như thường lệ, và lượng khách du lịch khổng lồ đổ dồn về hôm qua được dẩn đi thăm Rừng Mulgrave, Vịnh Robin Hood, Đồi Rig, Runswick, Staithes và những địa danh du lịch khác chung quanh Whitby. Những con tàu hơi nước thực hiện những chuyến du hành lên xuống bờ biển, và số lượng khách du lịch đến và đi Whitby tăng lên một cách bất thường. Sự bất thường tuyệt diệu đó kéo dài đến tận trưa, cho đến khi một số tin đồn được lan ra từ Vách đá Phía Đông khu nhà thờ, rằng giáo chủ ra lệnh hãy để quang bờ biển phía bắc và phía tây, để có thể thuận tiện quan sát sự xuất hiện của hiện tượng “đuôi ngựa cái” trên bầu trời phương bắc. Gió nam thổi mơn man, mà nói theo ngôn giọng điệu tượng học là ‘Gió cấp hai, thổi nhẹ.’
Những người lính tuần duyên làm những bản báo cáo theo đúng chức năng của mình, và một người đánh cá già, người đã hơn nữa thế kỷ quan sát những dấu hiệu của thời tiết từ Vách đá Phía Đông, tiên đóan dứt khóat về một cơn bão sắp diễn đến thình *** h. Hòang hôn diễn ra đẹp tuyệt vời, với những đám mây hòa lẫn nhiều sắc màu pha trộn thành một bức tranh hùng vĩ, khiến cho một khối lượng lớn khách đi dạo trên vách đá nằm trên khu nghĩa địa gần nhà thờ đã tập trung lại để thưởng thức cảnh đẹp. Trước khi mặt trời chìm hẳn vào bóng đêm của Kettleness, nó liều lĩnh đi xuyên qua vùng trời phía tây, khiến quá trình lặn dần của nó tạo nên vô số những đám mây sặc sỡ với những màu sắc đặc trưng cho buổi hòang hôn, hồng lửa, tía, hồng cẩm chưởng, xanh lá cây, tím violet và tất cả các cung bậc khác nhau của sắc vàng, pha trộn với những mảng đen đây đó với nhiều hình dạng khác nhau, phác họa lên một hình bóng đêm đen thật ấn tượng. Cảnh đẹp chiều nay chẳng thể nào phai mờ trong tâm hồn những người nghệ sĩ, và không còn nghi ngờ gì nữa, những nét phác thảo về bức tranh “Khúc dạo đầu cho Cơn Bão Lớn” sẽ làm rạng danh cho những bức tường của R.A và R.I vào tháng Năm tới.
Nhiều loại tàu khác nhau đã được thuyền trưởng của mình cho cập vào cảng, với ý định ở lại đây cho đến khi bão tan. Gió đã tắt hẳn trong suốt chiều, và đến nữa đêm thì không khí vô cùng oi bức và ngột ngạt do không còn một chút gió biển nào, và tiếp theo một cách thường lệ là những tiếng sấm vang dội làm run sợ những người yếu bóng vía.
Có vài ánh chớp lóe lên trên biển, chiếu sáng những con tàu chạy hơi nước được neo chắc gần cột chống trên bờ biển, và vài chiếc thuyền đánh cá khác. Chiếc tàu duy nhất ngòai khơi là một chiếc thuyền buồm ngoại quốc với tất cả các cánh buồm được giương lên, hình như định đi về phía tây. Sự liều lĩnh hoặc ngây thơ của những kẻ điều khiển chiếc tàu buồm này làm dội lên những tiếng bình luận không ngớt trong khi nó còn được nhìn thấy, trong lúc mọi người cố gắng ra hiệu cho nó biết sự nguy hiểm đang ập đến với chuyến đi của nó. Trước khi đêm xuống hẳn chiếc thuyền buồm còn được trông thấy bềnh bồng giữa những cơn sóng chập chờn của biển cả một cách bình thản.
“Nó bình thản như một con tàu được vẽ trên một bức tranh về biển.”
Gần đến mười giờ, thời tiết vẩn oi bức, và sự im lặng bao trùm làm nổi bật lên những tiếng kêu của bầy cừu, những tiếng sủa xa xăm của lũ chó bên trong thị trấn, khiến cho giữa hai đầu bờ đê như chìm trong một buổi hòa âm lặng lẽ của thiên nhiên mang đầy đặc trưng của nước Pháp. Sau nữa một chút thì một một tiếng động lạ vọng lại từ bờ biển, và một vang trong không khí là một tiếng nổ lớn vọng về từ xa vắng.
Rồi thình *** h cơn bão ập đến mà chẳng có gì báo trưóc. Với một tốc độ nhanh đến mức không tưởng, mà sau đó người ta không thể hình dung lại được, tòan bộ thiên nhiên như bùng lên một cơn chấn động khôn cùng. Những cơn sóng hung hãn dâng cao, đợt này nối tiếp đợt khác, làm cho biển cả chỉ đang êm ả mới đây nay trở nên hung hăng và cuồng nộ như một con quái vật. Những cơn sóng điên cuồng tràn lên bãi cát và cuốn đi mọi thứ trên vách đá. Những cơn sóng khác công phá vào bến tàu, bọt sóng tung tóe đến tận những ngọn đèn hải đăng treo ở hai đầu Cảng Whitby.
Gió biển gầm vang như cơn sấm sét, và thổi mạnh đến nỗi ngay cả một người khỏe mạnh cũng khó có thể đứng vững trên đôi chân của mình nếu như không được móc chặc vào một cây cột thép. Người ta thấy rõ là cần phải giải tán ngay cái đám đông khổng lồ đang tập trung ở chỗ móng đê, nếu không thì sự thiệt hại do cơn bão gây ra trong đêm nay sẽ càng gia tăng lớn hơn. Thêm vào cho những sự khó khăn và nguy hiểm của tình thế, một bầy lớn những con hải cẩu tràn vào bờ. Cái đám đông trắng và ẩm ướt kia lập tức bị quét đi một cách ma quái bởi bầy thú nhám nhúa, đen đua và lạnh giá này. Có thể tưởng tượng rằng linh hồn của những con hải cẩu đã bị chết ngày xưa trong biển cả đã chạm những bàn tay lạnh giá của cái chết vào những đồng loại của chúng, và nhiều người chợt rùng mình khi màn sương cuồn cuộn của biển cả tan ra.
Ngay khi sương tan ra, trên mặt biển chớp lên một vầng hào quang sáng chói, rực rỡ và mau chóng, tiếp theo là hàng loạt những tiếng gầm của sấm sét khiến cho cả bầu trời cao như run rẩy dưới những bước chân hung hãn của bão tố.
Quang cảnh đang diễn ra có một dáng vẻ hùng vĩ khôn tả và thu hút hết thần trí của con người. Biển cả cuộn lên những cơn sóng cao như những ngọn núi, tung lên trời những đám bọt trắng xóa, giống như thiên nhiên đang muốn vồ lấy mọi thứ và ném chúng vào giữa khoảng không vô tận. Thấp thóang những chiếc thuyền đánh cá, buồm rách tả tơi, đang cuống cuồng tìm kiếm một chỗ ẩn nấp giữa thiên nhiên hung dữ, là những đôi cánh trắng của những con hải âu đang bị dập vùi giữa các đợt sóng khổng lồ. Trên đỉnh của Vách Đá Phía Đông có một cây đèn pha lớn đang vừa được đưa ra thử nghiệm, nhưng chưa được sử dụng lần nào. Bây giờ thì những nhân viên phụ trách của nó đang bắt đầu điều khiển, và ánh sáng của nó xua tan đi bóng tối rọi sáng bề mặt của biển cả. Sự nỗ lực của nó cũng có tác dụng được một hai lần, khi mà chiếc thuyền đánh cá đã bị nước tràn qua mép đã có thể tìm về cảng một cách an tòan dưới sự điều khiển của ánh đèn pha, tránh được mối nguy hiểm va vào các chân đê. Khi mỗi chiếc thuyền đánh cá an toàn về đến cảng thì đám đông đứng bên bờ biển lại kêu lên những tiếng vui mừng, những tiếng kêu như muốn xua tan cơn bão và tống khứ chúng đi.
Chẳng mấy chốc chiếc đèn pha đã phát hiện ra từ phía xa một con thuyền buồm nhỏ với những cánh buồm giương cao, rõ ràng nó chính là chiếc thuyền đã gây nên sự chú ý ban chiều. Gió bây giờ đã thổi ngược về phía Đông, và một cái rùng mình lan đi giữa đám đông khi họ nhận thức rõ mối nguy hiểm mà chiếc thuyền đang phải đương đầu.
Giữa con tàu này và cảng là một dãi đá ngầm lớn đã mà qua nhiều thế hệ đã làm bao con thuyền phải khốn khổ, và với hướng gió hung hãn như thế này, khó mà con thuyền kia có thể về đến cảng.
Thủy triều càng lúc càng dâng cao, các cơn sóng càng lúc càng mạnh, chúng gần như đã nuốt chửng bờ biển, và chiếc tàu buồm kia, với tất cả các cánh buồm vẩn giương cao, vẩn lướt đi băng băng. Người ta nghe thấy tiếng của một thủy thủ lão luyện vang lên “nó chỉ có thể dừng lại ở một nơi gọi là địa ngục mà thôi.” Rồi một màn sương biển khác ập đến, dày đặc hơn lúc nào hết. Cái khối sương ẩm ướt kia đã phủ một tấm vải xám lên mọi vật, và bây giờ người ta chỉ còn nghe thấy những giọng nói, tiếng gầm của thời tiết, tiếng vang của sấm sét, và rồi một tiếng động khủng khiếp truyền đi mơ hồ giữa các cơn sóng, lớn hơn tất cả các tiếng động trước đây. Hướng rọi sáng của đèn pha được giữ từ phía cổng hải cảng xuyên qua Vách Đá Phía Đông, và mọi người đều chờ đợi một cú sốc, tất cả đều nín thở.
Gió biển thình *** h thổi giạt sang hướng bắc, và khối sương còn đọng lại cũng tan đi trong gió. Và, điều kỳ diệu đã xảy ra, giữa những nhịp đê, trườn mình lên những ngọn sóng, xông pha một cách liều lĩnh, con tàu buồm lạ lùng kia vẩn lướt đi cùng gió, tất cả các cánh buồm giương cao, và cập bến an toàn vào cảng. Ánh đèn pha vẩn dõi theo nó, và tất cả mọi người khi trông rõ nó đều rùng mình bởi họ nhìn thấy một thi hài được buộc chặt nơi bánh lái con tàu, đầu gục xuống, lắc lư một cách kinh khiếp theo từng nhịp sóng. Không còn ai khác ở trên tàu.
Một nỗi kinh khiếp lan đi giữa mọi người, khi họ nhận thấy rằng con tàu kia, bằng một phép màu kỳ diệu, đã tìm về được hải cảng dưới bàn tay cầm bánh lái của một người đã chết. Tuy nhiên, mọi việc diễn ra còn nhanh hơn hơn là chúng được ghi lại. Chiếc tàu buồm kia không dừng lại, cứ thế đâm sầm qua cảng, lao vào khối cát và sỏi được tráng lên bởi những cơn sóng thủy triều và những cơn bão thổi về góc phía nam của bến tàu nhô lên dưới Vách Đá Phía Đông, được gọi là Ngọn Đồi Bến Tàu Tate.
Tất nhiên là con tàu chịu một sự chấn động khủng khiếp khi nó lao vào khối cát. Tất cả cột trụ, dây thừng, dây néo đều căng lên, rồi sập xuống như bị một cây búa khổng lồ nện xuống. Nhưng lạ lùng hơn hết thảy là ngay khi con tàu chạm vào bờ biển, một con chó khổng lồ đã phóng vụt xuống, và giống như bị kích thích bởi sự chấn động, đã phóng vội đi, nhảy những bước dài trên các mô cát.
Nó chạy thẳng về phía vách đá cao, nơi có một con đường dẩn từ khu nghĩa địa vào Bến Tàu Phía Đông, nơi có một ngôi mộ hay những bia đá được gọi bằng những thứ tiếng địa phương của Whitby. Người ta đã có kế hoạch trùng tu lại vách đá để nó đừng đổ ập xuống. Con chó biến mất vào bóng tối, điều này càng gây nên ấn tượng mạnh khi mà ánh đèn pha vẩn dõi chặt theo nó.
Khi điều này xảy ra thì chẳng có ai ở Ngọn Đồi Bến Tàu Tate cả, bởi vì tất cả ngôi nhà ở đó đều đóng chặt cửa để đi ngủ hoặc leo lên trên đồi để quan sát. Đoạn người lính tuần duyên đang làm phận sự ở phía tây hải cảng chạy xuống bến tàu nhỏ, anh ta là người đầu tiên leo lên boong. Những người điều khiển đèn pha, sau khi sục xạo lối vào hải cảng mà chẳng thấy gì thêm, bèn chiếu hờ hững ánh đèn lên tàu và giữ nó ở yên đấy. Người lính tuần duyên chạy xuống đuôi tàu, đến bên bánh lái để kiểm tra, và thình *** h giật lùi lại như gặp phải một biến cố gì đó thình *** h. Điều này càng khêu gợi sự tò mò chung, và một lượng lớn người bắt đầu chạy đến.
Có một con đường vòng từ Vách Đá Phía Tây đi qua cây cầu Draw dẩn đến Ngọn Đồi Bến Tàu Tate, và người phóng viên trung thành của bạn là một tay chạy rất tuyệt, anh ta đã dẩn dầu đông. Tuy nhiên, khi tôi đến nơi, tôi thấy một đám đông đã bao quanh bến tàu, nhưng những người lính tuần duyên và cảnh sát không cho phép ai vào cả. Nhưng đội trưởng của những người chèo thuyền thuê đã thật lịch lãm khi cho phép tôi, người phóng viên trung thành của bạn, được phép leo lên boong. Ở đây có một nhóm nhỏ đang quan sát người thủy thủ chết lúc này vẩn còn bị buộc chặt vào bánh lái.
Không có gì lạ khi người lính tuần duyên tỏ ra ngạc nhiên, thậm chí kinh sợ trước những gì được nhìn thấy. Người chết chỉ bị buộc hai tay vòng qua bánh lái để anh ta được giữ chặt với nó. Nắm giữa tay anh và lớp gỗ là một cây thánh giá, một chuỗi tràng hạt được buộc vòng quanh cổ tay anh và bánh lái, và được giữ chặt bằng một những sợi thừng buộc lại. Người đàn ông khốn khổ đã không bị ngồi xuống bởi những cánh buồm đã được đặt xuyên qua bánh lái, giữ anh ta lắc lư quật anh ta lên xuống qua lại, và những sợi thừng trói anh ta đã cắt qua da thịt vào đến tận xương.
Người ta ghi chép cẩn thận lại mọi chuyện, và một bác sĩ, bác sĩ giải phẫu J.M.Caffyn, ở 33, Vùng Đông Elliot, người đến ngay sau tôi, sau khi kiểm tra, đã nói rằng người đàn ông này đã chết được khỏang hai ngày.
Trong túi anh ta là một cái chai, mà sau khi mở nút, người ta cẩn thận lấy ra một cuộn giấy, những thứ sau này được biết là phần thêm vào của nhật ký hàng hải.
Người lính tuần duyên nói rằng người đàn ông này đã tự trói mình, và buộc gút bằng răng. Sự kiện người lính tuần duyên là người đầu tiên lên tàu đã gây ra những sự rắc rối sau này, vì theo luật hải quân, người lính tuần duyên không có quyền đòi hỏi quyền lợi mà một thường dân sẽ được hưởng nếu anh ta đi vào một con tàu bỏ hoang. Tuy nhiên, việc tranh cãi về tính hợp pháp để sỡ hữu những tài sản này sẽ còn được tranh cãi, một sinh viên luật trẻ đã lớn tiếng chứng minh rằng dù người chủ nhân có tòan quyền dâng hiến tài sản của mình, tuy nhiên việc chiếm hữu tòan bộ những tài sản là không hợp pháp, bởi vì bánh lái vẩn còn được giữ trong tay người chết như là một sự tượng trưng cho sự sở hữu.
Chẳng cần phải nói thêm là người thủy thủ xấu số đã được mang đi chôn cất một cách trang trọng từ cái nơi mà anh ta đã dũng cảm gìn giữ danh dự của mình cho đến chết, với một tinh thần kiên định đầy quả cảm như chàng Casabianca trẻ tuổi, và đám tang của anh ta sẽ được cử hành sau cuộc điều tra.
Lúc này bão đã tạnh, thiên nhiên không còn hung dữ nữa. Đám đông đang giải tán rải rác, và bầu trời lại ửng hồng trên khắp miền Yorkshire.
Trong những kỳ phát hành sắp tới tôi sẽ tiếp tục gửi đến quý vị những chi tiết về con tàu hoang đã vượt qua cơn bão một cách kỳ diệu để về đến bến cảng.
Ngày 9 tháng 8. – Những khám phá về con tàu hoang kỳ lạ đã đến trong cơn bão tối hôm qua càng khiến mọi người thêm ngạc nhiên về nó. Chiếc tàu buồm này được làm rõ là đi từ Nga đến Varna, có tên là Demeter. Nó gần như chỉ lót đầy những cát mịn, với một số lượng nhỏ hàng hóa, là những cái thùng gỗ đầy đất.
Những hàng hóa này được gửi cho một cố vấn pháp luật ở Whitby, ngài S.F.Billington ở số 7, Cresten. Ngay sáng hôm đó ông này đã lên boong và tiến hành những thủ tục cần thiết để nhận nó.
Lãnh sự Nga cũng đến, và chiếu theo hợp đồng thuê tàu, lấy lại quyền sở hữu đối với con tàu, cũng như trả cho cảng những khỏan thuế cần thiết v.v…
Không có gì đặc biệt được đề cập đến trong ngày hôm nay, ngoại trừ một sự trùng hợp kỳ lạ. Các nhân viên của Ủy ban Thương mại đã xác nhận hoàn toàn mọi sự việc đã được làm đúng theo luật lệ. ‘Cái điều không thể tin được’đã xảy ra, ủy ban này đã cho thấy một cách rõ ràng là họ sẽ không đưa ra sự phàn nàn nào.
Sự chú ý bây giờ đổ dồn về phía con chó đã nhảy xuống khi chiếc tàu đâm vào bờ, và một vài thành viên của S.P.C.A vốn rất có thế lực trên Whitby đã nhận nuôi chú chó này. Nhưng ai nấy đều thất vọng vì không thể tìm ra chú chó. Cả thị trấn hình như đều thất vọng về điều này.Có lẽ do quá hỏang sợ, con chó đã trốn ra những cánh đồng hoang, nơi mà vẩn là những vùng bí ẩn trên lãnh thổ.
Một số người đã sợ hãi điều này, vì rằng con vật kia có thể trở nên rất nguy hiểm, bởi vì rõ ràng nó đã là một sinh vật hung tợn. Sáng sớm nay người ta thấy một con chó lớn, thuộc một giống chó lớn tai cụp lai của một thương gia buôn bán than đang nằm chết trên con đường đối diện với vùng đất của chủ nó. Đã có một trận chiến diễn ra, và rõ ràng là con chó đã có một đối thủ hung bạo, vì cổ họng nó bị xé toạc, và bụng nó thì bị rạch tung bởi những móng vuốt dã man.
Đêm khuya. – Do sự tử tế của ngài thanh tra của Ủy ban Thương mại, tôi được phép nhìn vào cuốn nhật trình hàng hải của Demeter, vẩn còn được ghi chép lại cho đến ba ngày trước, nhưng chẳng có gì đặc biệt ngoại trừ sự kiện một số người mất tích. Tuy nhiên, điều thú vị nhất nằm trong cuộn giấy được tìm thấy trong cái chai, ngày hôm nay được đưa ra để điều tra. Khi trải chúng ra, người ta tìm thấy một câu chuyện lạ lùng được tường thuật lại, tôi chưa từng gặp phải chuyện gì lạ lùng như thế.
Do không có điều gì phải che giấu, tôi được phép sử dụng tài liệu này, và được chấp thuận để gửi cho các bạn một bản sao của nó, chỉ đơn giản loại bỏ bớt những phần chi tiết kỹ thuật về công việc của những người thủy thủ và chuyên chở hàng hóa. Có lẽ là người thuyền trưởng đã bị một cơn điên xâm chiếm khiến ông ta buộc phải nhảy xuống làn nước xanh, căn bệnh đã tồn tại và lan rộng suốt cuộc hành trình. Tất nhiên lời kể lại của tôi vẩn chưa phải hoàn toàn chính xác, vì tôi được một thư ký của lãnh sự Nga đã tốt bụng dịch lại bản tài liệu này và đọc lại cho tôi chép.
NHẬT KÝ HẢI TRÌNH CỦA “DEMETER” VARNA ĐI WHITBY
Được viết vào ngày 18 tháng 7, đã có nhiều chuyện lạ xảy ra, và tôi sẽ ghi chép lại thật chính xác cho đến khi chúng tôi cập bến.
Vào ngày 6 tháng 7 chúng tôi chất hàng lên tàu, cát mịn và những cái thùng đất. Đến trưa thì giương buồm. Gió đông, vừa mới nổi. Thủy thủ đoàn, năm… hai thuyền phó, đầu bếp, và tôi (thuyền trưởng).
Đến bình minh 11 tháng 7, cập bến Bosphorus. Đón thêm những viên chức Thuế quan Thổ Nhĩ Kỳ lên boong. Lại chuẩn bị lên đường. Tất cả đều ổn. Tiếp tục chuyến đi lúc 4 giờ chiều.
Đến 12 tháng 7 thì đi ngang Daradnelles. Thêm một số viên chức Thuế quan và nhân viên cứu hộ lên tàu. Lại tiếp tục lên đường. Công việc của các viên chức diễn ra tỉ mỉ nhưng nhanh chóng. Họ muốn chúng tôi đi sớm. Đến tối thì vào Archipelago.
Đến 13 tháng 7 thì đi ngang Mũi Matapan. Thủy thủ đòan hình như không hài lòng về một chuyện gì đó. Một số sợ hãi, nhưng không nói ra.
Đến 14 tháng 7 thì thủy thủ đòan trở nên rất lo lắng. Bọn họ đều là những người đàn ông vững vàng đã từng đi biển với tôi. Thuyền phó không thể hiểu được đang xảy ra chuyện gì. Họ chỉ nói với ông ta là có một CÁI GÌ ĐÓ, và làm dấu thánh. Người thuyền phó mất bình tĩnh với một người trong bọn họ và đánh anh ta. Một cuộc ẩu đả hẳn sẽ nổ ra, nhưng tất cả vẩn im lặng.
Đến ngày 16 tháng 7 thì thuyền phó trong buổi sáng hôm đó đã phát hiện một trong số thủy thủ đòan, Petrofsky, đã mất tích. Không thể tìm thấy anh ta. Vào tám giờ tối hôm truớc anh ta đi lên mạn trái của tàu, cùng với Amramoff, nhưng không trở về giường ngủ. Mọi người càng xuống tinh thần hơn lúc nào hết. Tất cả bọn họ đều nói rằng họ chờ đợi những việc như vậy diễn ra, nhưng không nói gì hơn là có một CÁI GÌ ĐÓ ở trên boong. Thuyền phó đã mất hết kiên nhẫn với bọn họ. Tôi sợ rằng những điều rắc rối sẽ vẩn còn tiếp tục.
Vào ngày 17 tháng 7, hôm qua, một người trong bọn họ, Olgaren đã đi vào cabin của tôi với dáng điệu run sợ, anh ta kể với tôi rằng anh ta nghĩ là có một người đàn ông lạ ở trên tàu. Anh nói rằng khi anh ra trú một cơn mưa bão ở căn phòng dưới boong tàu, thì anh ta thấy một người đàn ông cao, gầy, chẳng giống một ai trong số thủy thủ đòan, đi theo lối đi dẩn lên, đi một mình lên boong và biến mất. Anh ta cẩn thận bám theo, nhưng đến mũi tàu thì chẳng thấy một ai, còn những cánh cửa sập vẩn được đóng chặt. Anh ta hoảng lạn trong một nỗi sợ hãi mê tín, và tôi sợ rằng cơn hỏang lạn này sẽ còn lan rộng. Để trấn an anh ta, tôi sẽ tổ chức một cuộc kiểm tra vào thứ hai trên tòan bộ con tàu từ đầu đến cuối.
Đến khuya tôi tập hợp tòan bộ thủy thủ đòan, nói rằng do họ tin chắc là có ai lạ trên tàu, chúng tôi sẽ kiểm tra tòan bộ con tàu. Thuyền phó thứ nhất phản đối, nói rằng điều đó là ngớ ngẩn, việc ngã theo một ý kiến nhảm nhí như vậy sẽ chỉ làm mọi người mất tinh thần, ông ta hứa sẽ giúp mọi người giũ bỏ mọi rắc rối bằng một cây đòn. Tôi ra lệnh cho ông ta đi lái tàu, mọi tất cả mọi người còn lại bắt đầu một cuộc kiểm tra, đi cùng với nhau, với những ngọn đèn lồng trong tay. Chúng tôi không bỏ qua một ngóc ngách nào. Và ngòai những cái thùng gỗ kia, thì không còn một ngóc ngách khốn kiếp nào mà một con người có thể trốn được. Mọi người phục hồi tinh thần khi cuộc tìm kiếm chấm dứt, và trở lại làm việc vui vẻ. Người thuyền phó thứ nhất tỏ ra cáu kỉnh, nhưng ông không nói gì.
Ngày 22 tháng 7. – Thời tiết xấu trong ba ngày vừa qua, và tất cả mối bận tâm đều dồn về những cánh buồm, không ai có thời gian để mà sợ hãi nữa. Mọi người hình như đã quên phứt đi mối sợ hãi kinh khiếp của mình. Thuyền phó vui vẻ trở lại, và thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Tuyên dương mọi người đã tích cực làm việc trong thời tiết xấu.Vượt qua Gibraltar và qua khỏi eo biển. Tất cả đều tốt đẹp.
Ngày 24 tháng 7. – Những điều tồi tệ lại xảy ra trên tàu. Sau một chặng đường ngắn, chúng tôi đi vào Vịnh Biscay. Gió biển thổi lồng lộng, và tối hôm qua lại một người khác mất tích. Giống như người đầu tiên, anh ta thực hiện phiên gác của mình, và không ai thấy lại anh nữa. Tất cả mọi người đều hỏang loạn trong sợ hãi, và đưa ra một bản kiến nghị đề nghị mỗi phiên gác sẽ có hai người, do họ sợ ở một mình. Thuyền phó nổi giận. Sợ sẽ có thêm rắc rối nếu người thuyền phó hoặc thủy thủ đòan dùng đến bạo lực.
Ngày 28 tháng 7. – Bốn ngày trong địa ngục, mọi người luôn bị căng thẳng và thời tiết luôn cuồng nộ. Không ai có thể ngủ được. Mọi người đều mệt lử. Không sắp gác được vì mọi người đều không còn sức lực nữa. Thuyền phó thứ hai tình nguyện lái tàu và canh gác để mọi người có được vài giờ nghỉ ngơi. Gió dịu đi, nhưng biển cả xem ra vẩn còn ghê rợn, và con tàu vẩn là nơi mọi người tin tưởng hơn.
Ngày 29 tháng 7. – Lại một bi kịch khác.Tối qua người thuyền phó thứ hai gác một mình, do thủy thủ đòan đã quá mệt để có thêm ai gác đôi với anh ta. Đến sáng thì người gác thay lên boong và chẳng thấy ai ngoại trừ người lái tàu. Cất cao giọng kêu lên, và mọi người đều chạy lên boong. Tìm kiếm kỷ lưỡng, nhưng không ai tìm thấy. Bây giờ thì chúng ta mất người thuyền phó thứ hai, và thủy thủ đòan hỏang loạn. Thuyền phó và tôi đồng ý là phải vũ trang từ lúc này và chờ đợi bất kỳ dấu hiệu lạ nào xảy đến.
Ngày 30 tháng 7. – Đêm cuối cùng. Vui mừng vì chúng tôi đã gần đến nước Anh. Thời tiết tốt, các cánh buồm được giương cao. Sự mệt mỏi căng thẳng bị đẩy lui, ngủ say, và người thuyền phó đánh thức để nói rằng cả người gác và người lái đã biến mất. Chỉ còn tôi và thuyền phó và hai người nữa trên con tàu.
Tháng 1 tháng 8. – Hai ngày chìm đắm trong sương mù và không thấy một cánh buồm nào khác. Đã hy vọng rằng khi đến được Kênh đào Anh thì có thể yêu cầu giúp đỡ hoặc cập vào đâu đó. Không còn sức lực để điều khiển các cánh buồm nữa, đành để mặc con tàu cho gió cuốn đi. Lòng can đảm không suy giảm, nhưng không thể nâng cao nó lên được. Chúng tôi hình như đang bị cuốn trôi vào một địa ngục kinh khiếp. Thuyền phó bây giờ còn hỏang loạn hơn cả những thủy thủ. Bản năng bên trong của ông ta bây giờ quay sang chống lại ông ta. Thủy thủ đã vượt qua nỗi sợ hãi, kiên trì và bền bĩ làm việc, sẳn sàng chờ đợi điều xấu nhất xảy đến. Họ là người Nga, còn ông ấy là người Rumani.
Ngày 2 tháng 8. – Nữa đêm. Thức dậy sau khi ngủ vài phút vì nghe thấy tiếng thét hình như bên ngòai phòng của tôi. Không thể thấy gì trong sương mù cả. Chạy lên boong, và thuyền phó chạy đến. Nói với tôi rằng ông ta nghe thấy tiếng kêu và chạy lại, nhưng không thấy bóng dáng ai cả. Lại một người nữa ra đi. Chúa ơi, giúp chúng con! Thuyền phó nói rằng chúng tôi đã đi qua eo Dover, vì ngay khi sương mù tản ra lúc ông ta nghe thấy tiếng kêu thét, ông ta đã nhìn thấy Dãi Đất Phía Bắc. Nếu chúng tôi bây giờ đã trôi dạt đến vùng Biển Bắc, thì chỉ có Chúa mới có thể chỉ dẩn cho tôi trong màn sương mù đang bao quanh chúng tôi, và Chúa dường như đã bỏ rơi tôi rồi.
Ngày 3 tháng 8. – Lúc nữa đêm tôi đi thay ca cho người lái tàu và khi đến nơi tôi không thấy ai cả. Gió vẩn thổi mạnh, và nương theo cơn gió này thì chúng ta không thể đi chệch hướng. Tôi không dám rời tay lái, nên gọi thuyền phó. Vài giây sau, ông ta lao lên boong trong bộ đồ flannel. Mắt ông điên dại và và trông ông hốc hác, và tôi càng sợ hãi hơn về cái lý do khiến ông như vậy. Ông ta đến gần tôi, kề miệng vào tai tôi, thì thầm bằng một giọng khàn khàn, như sợ rằng có thể có ai đó nghe thấy trong không khí. “Nó ở đây, tôi biết Nó ở đây. Đêm qua trong phiên gác tôi đã thấy Nó, giống như con người, cao và gầy, trắng bệch như xác chết. Nó đứng ở mũi tàu và nhìn ra ngòai. Tôi bò đến sau lưng Nó, và đâm nó bằng con dao của tôi, nhưng dao đâm xuyên qua Nó như đâm xuyên qua không khí vậy.” Và khi ông nói, ông vung mạnh dao găm trong không trung một cách hung hãn. Đoạn ông tiếp tục, “Nhưng Nó đang ở đây, và tôi sẽ tìm ra Nó. Nó có thể là sẽ nằm đâu đó trong những cái hộp kia. Tôi sẽ mở tung chúng từng cái một. Ngài giữ tay lái.” Rồi với cái nhìn cảnh giác và đặt ngón tay lên môi, ông ta đi xuống. Tôi thấy ông ta xuất hiện trên boong trở lại với hộp dụng cụ và cây đèn lồng, rồi đi xuống cửa sập. Ông ấy thật sự là điên cuồng, hòan tòan điên cuồng, và tôi không thể cản ông lại được. Ông ta không thể đụng đến những cái hộp, chúng là hàng chuyển giao, và không thể làm như ông ta định làm. Tôi ngồi lại giữ tay lái, và viết những dòng này. Tôi chỉ có thể tin vào Chúa và đợi cho sương tan đi. Rồi lúc đó, nếu tôi không thể cập vào một hải cảng nào khi gió vẩn thổi như thế này, tôi sẽ cắt buồm, ngã chúng xuống, và ra dấu hiệu cầu cứu…
Bây giờ hình như là mọi chuyện đã qua. Ngay lúc tôi bắt đầu hy vọng rằng thuyền phó sẽ bình tĩnh hơn và đi ra, thì tôi nghe thấy ông ta nện liên tục vào một cái gì đó trong khoang, công việc của ông ta có vẻ tiến triển, rồi thình *** h từ cửa sập vang lên một tiếng thét đột ngột làm máu trong người tôi như đông cứng lại, rồi ông ta vọt lên boong tàu nhanh như tên bắn, hỏang loạn tột cùng, mắt ông trợn tròn và mặt ông ta co giật trong kinh hãi. “Cứu tôi với! Cứu tôi với!” ông ta gào lên, và rồi nhìn màn sương chung quanh. Sự hỏang loạn của ông chuyển thành sự tuyệt vọng, rồi với một giọng bình thản ông ta nói, “Ngài tốt hơn nên làm như tôi, thuyền trưởng, trước khi quá muộn. Hắn ở đây! Tôi đã biết điều bí mật rồi. Đại dương sẽ bảo vệ tôi trước Hắn, và đấy là tất cả những gì còn lại!” Trước khi tôi kịp nói lời nào hay làm bất cứ điều gì để giữ ông ta lại, ông ta nhảy qua hàng rào chắn và bình thản buông mình xuống biển. Lúc này thì tôi nghĩ rằng tôi cũng đã biết được điều bí mật. Đấy là một người điên đã lần lượt ném từng người trong thủy thủ đòan xuống biển, và bây giờ chính ông ta làm theo họ. Chúa cứu tôi! Làm sao tôi có thể chịu đựng được tất cả những chuyện kinh dị này khi tôi đến được cảng? Khi tôi đến được cảng! Bao giờ thì điều đó xảy ra?
Ngày 4 tháng 8. Sương mù dày đặc, và bình minh không thể chọc thủng được. Tôi biết bình minh đã đến vì tôi là một thủy thủ, tôi biết phân biệt những thứ này. Tôi không dám đi xuống, tôi không dám rời tay lái, và tôi đã ở đây suốt đêm, và trong bóng tối lờ mờ tôi đã thấy nó. Hắn! Chúa ơi, xin hãy tha thứ cho con, nhưng người thuyền phó đã làm đúng khi nhảy khỏi boong tàu. Đó là cách tốt hơn để chết như một con người. Để chết như một thủy thủ giữa làn nước xanh, không ai có thể làm gì được. Nhưng tôi là thuyền trưởng, tôi không thể bỏ con tàu của mình. Nhưng tôi sẽ chống lại tên ác ma hay quái vật này, tôi sẽ trói tay tôi vào bánh lái khi sức lực của tôi bắt đầu cạn kiệt, và tôi sẽ buộc vào thêm một thứ mà Hắn, Nó, sẽ không dám chạm đến. Và với cơn gió thuận hoặc nghịch, tôi sẽ bảo vệ được linh hồn của mình, và bảo vệ được danh dự thuyền trưởng của mình. Tôi đang trở nên yếu hơn, và bóng đêm đang xuống dần. Nếu Hắn lại xuất hiện trước mặt tôi một lần nữa, tôi sẽ không còn thời gian để hành động… Nếu chúng tôi bị đắm, có thể cái chai này sẽ được tìm thấy, và người nào đọc nó sẽ hiểu. Nếu không… được thôi, mọi người sẽ biết là tôi đã là trung thành với bổn phận của mình. Chúa, Đức Mẹ Đồng Trinh và Các Thánh sẽ giúp cho một linh hồn tội nghiệp ngu dại đang cố thực hiện nhiệm vụ của mình…
Tất nhiên lời phán quyết được đưa ra công khai. Không có bằng chứng nào được đưa ra, không có người nào đưa ra lời buộc tội giết người. Mọi người đều thống nhất rằng người thuyền trưởng hoàn toàn là một anh hùng, và anh ta xứng đáng có một lễ tang bởi quần chúng. Theo sự sắp xếp, thi hài của anh sẽ được chuyển bằng thuyền lên dòng Esk và đưa lên Ngọn Đồi Bến Tàu Tate, rồi đưa qua những bậc thang tu viện và chôn cất tại nghĩa trang trên vách đá. Chủ nhân của hơn một trăm chiếc thuyền đã yêu cầu được cử đại diện đi theo đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Chẳng thấy dấu vết gì về con chó khổng lồ, và đấy sẽ là một đám tang lớn, vì theo ý kiến chung được ghi nhận, tôi tin rằng anh ta sẽ được đưa tiễn bởi cả thị trấn. Ngày mai tang lễ sẽ cử hành, và nó sẽ là sự chấm hết cho thêm một “bí ẩn của biển cả.”
NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY
Ngày 8 tháng 8. – Lucy hầu như mất ngủ suốt đêm qua, và tôi cũng không sao ngủ được. Bão táp thật là kinh hãi, và tiếng gầm của nó vang dội qua ống khói lò sưỡi, làm tôi rùng mình. Tiếng gió thổi mạnh vang đến như là tiếng súng nổ ở phía xa xa. Lạ lùng thay, Lucy chẳng hề tỉnh giấc. Hai lần trong cơn mộng du bạn ấy thức dậy và tự thay quần áo. May mắn là mỗi lần ấy tôi đều thức dậy và cố gắng thay quần áo lại cho bạn ấy mà không làm bạn ấy kinh động, đưa bạn ấy trở lại giường. Điều lạ lùng nhất là, dù trong trạng thái mộng du, nhưng mỗi lần sắp vướng phải một chướng ngại nào trên đường đi, bạn ấy đều tự động ngừng lại và đổi hướng, giống như bạn ấy đang thức vậy.
Sáng sớm cả hai chúng tôi đều thức dậy và đi ra cảng để xem đêm qua có xảy ra thêm chuyện gì hay không. Vẩn còn rất đông người trên cảng, và dù mặt trời sáng rực, không khí thóang đảng và trong lành, những cơn sóng lớn vẩn trong đầy u ám, và chúng càng tự làm mình thêm tối tăm bởi những bọt sóng trắng xóa trên đỉnh, chúng cuồn cuộn đập vào cảng, giống như một kẻ hung hãn đang lao vào đám đông. Ở một chừng mực nào thấy tôi cảm thấy vui mừng vì Jonathan không ở trên biển tối hôm qua, mà là ở trên bờ. Nhưng, than ôi, anh ấy đang ở trên biển hay ở trên đất liền? Anh ấy đang ở đâu, và như thế nào? Em vô cùng lo lắng cho anh. Nếu như em chỉ cần biết điều gì đó để làm, và có thể làm điều gì đó cho anh!
Ngày 10 tháng 8. – Đám tang của người thuyền trưởng tội nghiệp kia đã gần xong. Mọi chiếc thuyền trên bến cảng đều có ở đây, và chiếc quan tài được khiêng bởi các thuyền trưởng trên khắp con đường từ Ngọn Đồi Bến Cảng Tate đến khu nghĩa trang. Lucy đi với tôi, và chúng tôi đi trước đến chỗ ngồi quen thuộc của mình, trong khi quan tài được chở đi trên thuyền đi lên tận Viaduct và sau đó quay xuống trở lại. Chúng tôi có một vị trí nhìn rất tốt, và luôn nhìn thấy tòan cảnh đám rước gần như ở mọi vị trí. Người đàn ông đáng thương đã an nghỉ gần chỗ chúng tôi thường ngồi, và chúng tôi đứng đấy theo dõi mọi việc diễn ra.
Lucy tội nghiệp trông có vẻ rất phiền muộn. Bạn ấy luôn lo lắng và bồn chồn không yên, và tôi buộc phải nghĩ rằng cơn mơ đêm qua đang quay lại quấy rầy bạn ấy. Bạn ấy có một cái gì đó rất lạ. Bạn ấy không thể thổ lộ với tôi và đó chính là nguyên nhân cho mọi sự bất an của bạn ấy, hoặc chính là vì bạn ấy cũng không thể tự hiểu thực sự điều đó là gì.
Thêm vào đó, người ta thấy ông Swales tội nghiệp đã chết vào sáng nay tại chỗ mà chúng tôi thường ngồi, cổ ông ấy bị gãy. Bác sĩ nói rằng ông ấy rõ ràng đã rất sợ hãi một cái gì đó, rồi té xuống từ chỗ ngồi của mình, do sự sợ hãi và kinh dị còn hiện rõ trên mặt ông ấy khiến mọi người trông thấy đều rùng mình. Người đàn ông già tội nghiệp thân yêu!
Lucy thật dễ thương và nhạy cảm đến nỗi bạn ấy dễ bị tác động hơn bất cứ ai. Bây giờ bạn ấy đang rất phiền muộn vì một điều gì đó mà tôi chưa thể xác định được, dù bản thân tôi rất dễ thông cảm với mọi người.
Có một người đàn ông thường hay đến đây ngắm tàu thuyền cùng với một chú chó đi theo. Cả hai đều tỏ ra trầm tính, tôi chưa bao giờ thấy người đàn ông nổi giận hay nghe con chó sủa. Nhưng lần này, khi người đàn ông ngồi với chúng tôi, thì con chó không lại gần, nó đứng cách chúng tôi vài yard, sủa và tru lên. Chủ nó dịu dàng kêu nó im đi, rồi lên tiếng gay gắt hơn, và cuối cùng là giận dữ. Nhưng ông không sao làm cho con chó im tiếng. Nó trông rất giận dữ, mắt trông thật man rợ, lông dựng lên tua tủa giống như cái đuôi mèo khi nó chuẩn bị giao tranh.
Cuối cùng người đàn ông nổi giận, ông ta nhảy xuống và đá con chó một cú, rồi tóm gáy nó và nữa kéo nữa ném nó lên tấm bia đá tại chỗ ngồi. Ngay khi chạm vào tảng đá, con vật tội nghiệp run lên bần bật. Nó không tìm cách chạy đi, nhưng nằm mọp xuống, run rẩy và khúm núm, trông một trạng thái run sợ đến tội nghiệp đến nỗi tôi tự nhiên phải đến khuyên giải nó.
Lucy trông cũng vô cùng đáng thương, nhưng bạn ấy không cố để chạm vào con chó, nhưng nhìn với dáng vẻ tuyệt vọng vô cùng. Tôi rất sợ là bạn ấy cũng có một bản năng siêu nhiên để run sợ mà không nói nên lời như thế. Tôi tin chắc là bạn ấy sẽ nằm mơ thấy nó tối nay. Tất cả những điều đang được tích tụ lại, con tàu được lái đến cảng bởi một người chết, những điều anh ta kể lại, được buộc vào bánh lái với cây thánh giá và tràng hạt, việc cử hành tang lễ, con chó lúc giận dữ và lúc thì khiếp sợ, tất cả đủ tạo nên một giấc mơ kinh khiếp cho bạn ấy.
Tôi nghĩ là tốt nhất nên làm cho bạn ấy mệt lử trước khi lên giường, vậy tôi sẽ cùng bạn ấy đi bộ trên những vách đá của vịnh Robin Hood rồi trở về. Bạn ấy sẽ chẳng còn đủ sức cho những cơn mộng du nữa.Ngày 9 tháng 8. – Những khám phá về con tàu hoang kỳ lạ đã đến trong cơn bão tối hôm qua càng khiến mọi người thêm ngạc nhiên về nó. Chiếc tàu buồm này được làm rõ là đi từ Nga đến Varna, có tên là Demeter. Nó gần như chỉ lót đầy những cát mịn, với một số lượng nhỏ hàng hóa, là những cái thùng gỗ đầy đất.
Những hàng hóa này được gửi cho một cố vấn pháp luật ở Whitby, ngài S.F.Billington ở số 7, Cresten. Ngay sáng hôm đó ông này đã lên boong và tiến hành những thủ tục cần thiết để nhận nó.
Lãnh sự Nga cũng đến, và chiếu theo hợp đồng thuê tàu, lấy lại quyền sở hữu đối với con tàu, cũng như trả cho cảng những khỏan thuế cần thiết v.v…
Không có gì đặc biệt được đề cập đến trong ngày hôm nay, ngoại trừ một sự trùng hợp kỳ lạ. Các nhân viên của Ủy ban Thương mại đã xác nhận hoàn toàn mọi sự việc đã được làm đúng theo luật lệ. ‘Cái điều không thể tin được’đã xảy ra, ủy ban này đã cho thấy một cách rõ ràng là họ sẽ không đưa ra sự phàn nàn nào.
Sự chú ý bây giờ đổ dồn về phía con chó đã nhảy xuống khi chiếc tàu đâm vào bờ, và một vài thành viên của S.P.C.A vốn rất có thế lực trên Whitby đã nhận nuôi chú chó này. Nhưng ai nấy đều thất vọng vì không thể tìm ra chú chó. Cả thị trấn hình như đều thất vọng về điều này.Có lẽ do quá hỏang sợ, con chó đã trốn ra những cánh đồng hoang, nơi mà vẩn là những vùng bí ẩn trên lãnh thổ.
Một số người đã sợ hãi điều này, vì rằng con vật kia có thể trở nên rất nguy hiểm, bởi vì rõ ràng nó đã là một sinh vật hung tợn. Sáng sớm nay người ta thấy một con chó lớn, thuộc một giống chó lớn tai cụp lai của một thương gia buôn bán than đang nằm chết trên con đường đối diện với vùng đất của chủ nó. Đã có một trận chiến diễn ra, và rõ ràng là con chó đã có một đối thủ hung bạo, vì cổ họng nó bị xé toạc, và bụng nó thì bị rạch tung bởi những móng vuốt dã man.
Đêm khuya. – Do sự tử tế của ngài thanh tra của Ủy ban Thương mại, tôi được phép nhìn vào cuốn nhật trình hàng hải của Demeter, vẩn còn được ghi chép lại cho đến ba ngày trước, nhưng chẳng có gì đặc biệt ngoại trừ sự kiện một số người mất tích. Tuy nhiên, điều thú vị nhất nằm trong cuộn giấy được tìm thấy trong cái chai, ngày hôm nay được đưa ra để điều tra. Khi trải chúng ra, người ta tìm thấy một câu chuyện lạ lùng được tường thuật lại, tôi chưa từng gặp phải chuyện gì lạ lùng như thế.
Do không có điều gì phải che giấu, tôi được phép sử dụng tài liệu này, và được chấp thuận để gửi cho các bạn một bản sao của nó, chỉ đơn giản loại bỏ bớt những phần chi tiết kỹ thuật về công việc của những người thủy thủ và chuyên chở hàng hóa. Có lẽ là người thuyền trưởng đã bị một cơn điên xâm chiếm khiến ông ta buộc phải nhảy xuống làn nước xanh, căn bệnh đã tồn tại và lan rộng suốt cuộc hành trình. Tất nhiên lời kể lại của tôi vẩn chưa phải hoàn toàn chính xác, vì tôi được một thư ký của lãnh sự Nga đã tốt bụng dịch lại bản tài liệu này và đọc lại cho tôi chép.
NHẬT KÝ HẢI TRÌNH CỦA “DEMETER” VARNA ĐI WHITBY
Được viết vào ngày 18 tháng 7, đã có nhiều chuyện lạ xảy ra, và tôi sẽ ghi chép lại thật chính xác cho đến khi chúng tôi cập bến.
Vào ngày 6 tháng 7 chúng tôi chất hàng lên tàu, cát mịn và những cái thùng đất. Đến trưa thì giương buồm. Gió đông, vừa mới nổi. Thủy thủ đoàn, năm… hai thuyền phó, đầu bếp, và tôi (thuyền trưởng).
Đến bình minh 11 tháng 7, cập bến Bosphorus. Đón thêm những viên chức Thuế quan Thổ Nhĩ Kỳ lên boong. Lại chuẩn bị lên đường. Tất cả đều ổn. Tiếp tục chuyến đi lúc 4 giờ chiều.
Đến 12 tháng 7 thì đi ngang Daradnelles. Thêm một số viên chức Thuế quan và nhân viên cứu hộ lên tàu. Lại tiếp tục lên đường. Công việc của các viên chức diễn ra tỉ mỉ nhưng nhanh chóng. Họ muốn chúng tôi đi sớm. Đến tối thì vào Archipelago.
Đến 13 tháng 7 thì đi ngang Mũi Matapan. Thủy thủ đòan hình như không hài lòng về một chuyện gì đó. Một số sợ hãi, nhưng không nói ra.
Đến 14 tháng 7 thì thủy thủ đòan trở nên rất lo lắng. Bọn họ đều là những người đàn ông vững vàng đã từng đi biển với tôi. Thuyền phó không thể hiểu được đang xảy ra chuyện gì. Họ chỉ nói với ông ta là có một CÁI GÌ ĐÓ, và làm dấu thánh. Người thuyền phó mất bình tĩnh với một người trong bọn họ và đánh anh ta. Một cuộc ẩu đả hẳn sẽ nổ ra, nhưng tất cả vẩn im lặng.
Đến ngày 16 tháng 7 thì thuyền phó trong buổi sáng hôm đó đã phát hiện một trong số thủy thủ đòan, Petrofsky, đã mất tích. Không thể tìm thấy anh ta. Vào tám giờ tối hôm truớc anh ta đi lên mạn trái của tàu, cùng với Amramoff, nhưng không trở về giường ngủ. Mọi người càng xuống tinh thần hơn lúc nào hết. Tất cả bọn họ đều nói rằng họ chờ đợi những việc như vậy diễn ra, nhưng không nói gì hơn là có một CÁI GÌ ĐÓ ở trên boong. Thuyền phó đã mất hết kiên nhẫn với bọn họ. Tôi sợ rằng những điều rắc rối sẽ vẩn còn tiếp tục.
Vào ngày 17 tháng 7, hôm qua, một người trong bọn họ, Olgaren đã đi vào cabin của tôi với dáng điệu run sợ, anh ta kể với tôi rằng anh ta nghĩ là có một người đàn ông lạ ở trên tàu. Anh nói rằng khi anh ra trú một cơn mưa bão ở căn phòng dưới boong tàu, thì anh ta thấy một người đàn ông cao, gầy, chẳng giống một ai trong số thủy thủ đòan, đi theo lối đi dẩn lên, đi một mình lên boong và biến mất. Anh ta cẩn thận bám theo, nhưng đến mũi tàu thì chẳng thấy một ai, còn những cánh cửa sập vẩn được đóng chặt. Anh ta hoảng lạn trong một nỗi sợ hãi mê tín, và tôi sợ rằng cơn hỏang lạn này sẽ còn lan rộng. Để trấn an anh ta, tôi sẽ tổ chức một cuộc kiểm tra vào thứ hai trên tòan bộ con tàu từ đầu đến cuối.
Đến khuya tôi tập hợp tòan bộ thủy thủ đòan, nói rằng do họ tin chắc là có ai lạ trên tàu, chúng tôi sẽ kiểm tra tòan bộ con tàu. Thuyền phó thứ nhất phản đối, nói rằng điều đó là ngớ ngẩn, việc ngã theo một ý kiến nhảm nhí như vậy sẽ chỉ làm mọi người mất tinh thần, ông ta hứa sẽ giúp mọi người giũ bỏ mọi rắc rối bằng một cây đòn. Tôi ra lệnh cho ông ta đi lái tàu, mọi tất cả mọi người còn lại bắt đầu một cuộc kiểm tra, đi cùng với nhau, với những ngọn đèn lồng trong tay. Chúng tôi không bỏ qua một ngóc ngách nào. Và ngòai những cái thùng gỗ kia, thì không còn một ngóc ngách khốn kiếp nào mà một con người có thể trốn được. Mọi người phục hồi tinh thần khi cuộc tìm kiếm chấm dứt, và trở lại làm việc vui vẻ. Người thuyền phó thứ nhất tỏ ra cáu kỉnh, nhưng ông không nói gì.
Ngày 22 tháng 7. – Thời tiết xấu trong ba ngày vừa qua, và tất cả mối bận tâm đều dồn về những cánh buồm, không ai có thời gian để mà sợ hãi nữa. Mọi người hình như đã quên phứt đi mối sợ hãi kinh khiếp của mình. Thuyền phó vui vẻ trở lại, và thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Tuyên dương mọi người đã tích cực làm việc trong thời tiết xấu.Vượt qua Gibraltar và qua khỏi eo biển. Tất cả đều tốt đẹp.
Ngày 24 tháng 7. – Những điều tồi tệ lại xảy ra trên tàu. Sau một chặng đường ngắn, chúng tôi đi vào Vịnh Biscay. Gió biển thổi lồng lộng, và tối hôm qua lại một người khác mất tích. Giống như người đầu tiên, anh ta thực hiện phiên gác của mình, và không ai thấy lại anh nữa. Tất cả mọi người đều hỏang loạn trong sợ hãi, và đưa ra một bản kiến nghị đề nghị mỗi phiên gác sẽ có hai người, do họ sợ ở một mình. Thuyền phó nổi giận. Sợ sẽ có thêm rắc rối nếu người thuyền phó hoặc thủy thủ đòan dùng đến bạo lực.
Ngày 28 tháng 7. – Bốn ngày trong địa ngục, mọi người luôn bị căng thẳng và thời tiết luôn cuồng nộ. Không ai có thể ngủ được. Mọi người đều mệt lử. Không sắp gác được vì mọi người đều không còn sức lực nữa. Thuyền phó thứ hai tình nguyện lái tàu và canh gác để mọi người có được vài giờ nghỉ ngơi. Gió dịu đi, nhưng biển cả xem ra vẩn còn ghê rợn, và con tàu vẩn là nơi mọi người tin tưởng hơn.
Ngày 29 tháng 7. – Lại một bi kịch khác.Tối qua người thuyền phó thứ hai gác một mình, do thủy thủ đòan đã quá mệt để có thêm ai gác đôi với anh ta. Đến sáng thì người gác thay lên boong và chẳng thấy ai ngoại trừ người lái tàu. Cất cao giọng kêu lên, và mọi người đều chạy lên boong. Tìm kiếm kỷ lưỡng, nhưng không ai tìm thấy. Bây giờ thì chúng ta mất người thuyền phó thứ hai, và thủy thủ đòan hỏang loạn. Thuyền phó và tôi đồng ý là phải vũ trang từ lúc này và chờ đợi bất kỳ dấu hiệu lạ nào xảy đến.
Ngày 30 tháng 7. – Đêm cuối cùng. Vui mừng vì chúng tôi đã gần đến nước Anh. Thời tiết tốt, các cánh buồm được giương cao. Sự mệt mỏi căng thẳng bị đẩy lui, ngủ say, và người thuyền phó đánh thức để nói rằng cả người gác và người lái đã biến mất. Chỉ còn tôi và thuyền phó và hai người nữa trên con tàu.
Tháng 1 tháng 8. – Hai ngày chìm đắm trong sương mù và không thấy một cánh buồm nào khác. Đã hy vọng rằng khi đến được Kênh đào Anh thì có thể yêu cầu giúp đỡ hoặc cập vào đâu đó. Không còn sức lực để điều khiển các cánh buồm nữa, đành để mặc con tàu cho gió cuốn đi. Lòng can đảm không suy giảm, nhưng không thể nâng cao nó lên được. Chúng tôi hình như đang bị cuốn trôi vào một địa ngục kinh khiếp. Thuyền phó bây giờ còn hỏang loạn hơn cả những thủy thủ. Bản năng bên trong của ông ta bây giờ quay sang chống lại ông ta. Thủy thủ đã vượt qua nỗi sợ hãi, kiên trì và bền bĩ làm việc, sẳn sàng chờ đợi điều xấu nhất xảy đến. Họ là người Nga, còn ông ấy là người Rumani.
Ngày 2 tháng 8. – Nữa đêm. Thức dậy sau khi ngủ vài phút vì nghe thấy tiếng thét hình như bên ngòai phòng của tôi. Không thể thấy gì trong sương mù cả. Chạy lên boong, và thuyền phó chạy đến. Nói với tôi rằng ông ta nghe thấy tiếng kêu và chạy lại, nhưng không thấy bóng dáng ai cả. Lại một người nữa ra đi. Chúa ơi, giúp chúng con! Thuyền phó nói rằng chúng tôi đã đi qua eo Dover, vì ngay khi sương mù tản ra lúc ông ta nghe thấy tiếng kêu thét, ông ta đã nhìn thấy Dãi Đất Phía Bắc. Nếu chúng tôi bây giờ đã trôi dạt đến vùng Biển Bắc, thì chỉ có Chúa mới có thể chỉ dẩn cho tôi trong màn sương mù đang bao quanh chúng tôi, và Chúa dường như đã bỏ rơi tôi rồi.
Ngày 3 tháng 8. – Lúc nữa đêm tôi đi thay ca cho người lái tàu và khi đến nơi tôi không thấy ai cả. Gió vẩn thổi mạnh, và nương theo cơn gió này thì chúng ta không thể đi chệch hướng. Tôi không dám rời tay lái, nên gọi thuyền phó. Vài giây sau, ông ta lao lên boong trong bộ đồ flannel. Mắt ông điên dại và và trông ông hốc hác, và tôi càng sợ hãi hơn về cái lý do khiến ông như vậy. Ông ta đến gần tôi, kề miệng vào tai tôi, thì thầm bằng một giọng khàn khàn, như sợ rằng có thể có ai đó nghe thấy trong không khí. “Nó ở đây, tôi biết Nó ở đây. Đêm qua trong phiên gác tôi đã thấy Nó, giống như con người, cao và gầy, trắng bệch như xác chết. Nó đứng ở mũi tàu và nhìn ra ngòai. Tôi bò đến sau lưng Nó, và đâm nó bằng con dao của tôi, nhưng dao đâm xuyên qua Nó như đâm xuyên qua không khí vậy.” Và khi ông nói, ông vung mạnh dao găm trong không trung một cách hung hãn. Đoạn ông tiếp tục, “Nhưng Nó đang ở đây, và tôi sẽ tìm ra Nó. Nó có thể là sẽ nằm đâu đó trong những cái hộp kia. Tôi sẽ mở tung chúng từng cái một. Ngài giữ tay lái.” Rồi với cái nhìn cảnh giác và đặt ngón tay lên môi, ông ta đi xuống. Tôi thấy ông ta xuất hiện trên boong trở lại với hộp dụng cụ và cây đèn lồng, rồi đi xuống cửa sập. Ông ấy thật sự là điên cuồng, hòan tòan điên cuồng, và tôi không thể cản ông lại được. Ông ta không thể đụng đến những cái hộp, chúng là hàng chuyển giao, và không thể làm như ông ta định làm. Tôi ngồi lại giữ tay lái, và viết những dòng này. Tôi chỉ có thể tin vào Chúa và đợi cho sương tan đi. Rồi lúc đó, nếu tôi không thể cập vào một hải cảng nào khi gió vẩn thổi như thế này, tôi sẽ cắt buồm, ngã chúng xuống, và ra dấu hiệu cầu cứu…
Bây giờ hình như là mọi chuyện đã qua. Ngay lúc tôi bắt đầu hy vọng rằng thuyền phó sẽ bình tĩnh hơn và đi ra, thì tôi nghe thấy ông ta nện liên tục vào một cái gì đó trong khoang, công việc của ông ta có vẻ tiến triển, rồi thình *** h từ cửa sập vang lên một tiếng thét đột ngột làm máu trong người tôi như đông cứng lại, rồi ông ta vọt lên boong tàu nhanh như tên bắn, hỏang loạn tột cùng, mắt ông trợn tròn và mặt ông ta co giật trong kinh hãi. “Cứu tôi với! Cứu tôi với!” ông ta gào lên, và rồi nhìn màn sương chung quanh. Sự hỏang loạn của ông chuyển thành sự tuyệt vọng, rồi với một giọng bình thản ông ta nói, “Ngài tốt hơn nên làm như tôi, thuyền trưởng, trước khi quá muộn. Hắn ở đây! Tôi đã biết điều bí mật rồi. Đại dương sẽ bảo vệ tôi trước Hắn, và đấy là tất cả những gì còn lại!” Trước khi tôi kịp nói lời nào hay làm bất cứ điều gì để giữ ông ta lại, ông ta nhảy qua hàng rào chắn và bình thản buông mình xuống biển. Lúc này thì tôi nghĩ rằng tôi cũng đã biết được điều bí mật. Đấy là một người điên đã lần lượt ném từng người trong thủy thủ đòan xuống biển, và bây giờ chính ông ta làm theo họ. Chúa cứu tôi! Làm sao tôi có thể chịu đựng được tất cả những chuyện kinh dị này khi tôi đến được cảng? Khi tôi đến được cảng! Bao giờ thì điều đó xảy ra?
Ngày 4 tháng 8. Sương mù dày đặc, và bình minh không thể chọc thủng được. Tôi biết bình minh đã đến vì tôi là một thủy thủ, tôi biết phân biệt những thứ này. Tôi không dám đi xuống, tôi không dám rời tay lái, và tôi đã ở đây suốt đêm, và trong bóng tối lờ mờ tôi đã thấy nó. Hắn! Chúa ơi, xin hãy tha thứ cho con, nhưng người thuyền phó đã làm đúng khi nhảy khỏi boong tàu. Đó là cách tốt hơn để chết như một con người. Để chết như một thủy thủ giữa làn nước xanh, không ai có thể làm gì được. Nhưng tôi là thuyền trưởng, tôi không thể bỏ con tàu của mình. Nhưng tôi sẽ chống lại tên ác ma hay quái vật này, tôi sẽ trói tay tôi vào bánh lái khi sức lực của tôi bắt đầu cạn kiệt, và tôi sẽ buộc vào thêm một thứ mà Hắn, Nó, sẽ không dám chạm đến. Và với cơn gió thuận hoặc nghịch, tôi sẽ bảo vệ được linh hồn của mình, và bảo vệ được danh dự thuyền trưởng của mình. Tôi đang trở nên yếu hơn, và bóng đêm đang xuống dần. Nếu Hắn lại xuất hiện trước mặt tôi một lần nữa, tôi sẽ không còn thời gian để hành động… Nếu chúng tôi bị đắm, có thể cái chai này sẽ được tìm thấy, và người nào đọc nó sẽ hiểu. Nếu không… được thôi, mọi người sẽ biết là tôi đã là trung thành với bổn phận của mình. Chúa, Đức Mẹ Đồng Trinh và Các Thánh sẽ giúp cho một linh hồn tội nghiệp ngu dại đang cố thực hiện nhiệm vụ của mình…
Tất nhiên lời phán quyết được đưa ra công khai. Không có bằng chứng nào được đưa ra, không có người nào đưa ra lời buộc tội giết người. Mọi người đều thống nhất rằng người thuyền trưởng hoàn toàn là một anh hùng, và anh ta xứng đáng có một lễ tang bởi quần chúng. Theo sự sắp xếp, thi hài của anh sẽ được chuyển bằng thuyền lên dòng Esk và đưa lên Ngọn Đồi Bến Tàu Tate, rồi đưa qua những bậc thang tu viện và chôn cất tại nghĩa trang trên vách đá. Chủ nhân của hơn một trăm chiếc thuyền đã yêu cầu được cử đại diện đi theo đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Chẳng thấy dấu vết gì về con chó khổng lồ, và đấy sẽ là một đám tang lớn, vì theo ý kiến chung được ghi nhận, tôi tin rằng anh ta sẽ được đưa tiễn bởi cả thị trấn. Ngày mai tang lễ sẽ cử hành, và nó sẽ là sự chấm hết cho thêm một “bí ẩn của biển cả.”
NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY
Ngày 8 tháng 8. – Lucy hầu như mất ngủ suốt đêm qua, và tôi cũng không sao ngủ được. Bão táp thật là kinh hãi, và tiếng gầm của nó vang dội qua ống khói lò sưỡi, làm tôi rùng mình. Tiếng gió thổi mạnh vang đến như là tiếng súng nổ ở phía xa xa. Lạ lùng thay, Lucy chẳng hề tỉnh giấc. Hai lần trong cơn mộng du bạn ấy thức dậy và tự thay quần áo. May mắn là mỗi lần ấy tôi đều thức dậy và cố gắng thay quần áo lại cho bạn ấy mà không làm bạn ấy kinh động, đưa bạn ấy trở lại giường. Điều lạ lùng nhất là, dù trong trạng thái mộng du, nhưng mỗi lần sắp vướng phải một chướng ngại nào trên đường đi, bạn ấy đều tự động ngừng lại và đổi hướng, giống như bạn ấy đang thức vậy.
Sáng sớm cả hai chúng tôi đều thức dậy và đi ra cảng để xem đêm qua có xảy ra thêm chuyện gì hay không. Vẩn còn rất đông người trên cảng, và dù mặt trời sáng rực, không khí thóang đảng và trong lành, những cơn sóng lớn vẩn trong đầy u ám, và chúng càng tự làm mình thêm tối tăm bởi những bọt sóng trắng xóa trên đỉnh, chúng cuồn cuộn đập vào cảng, giống như một kẻ hung hãn đang lao vào đám đông. Ở một chừng mực nào thấy tôi cảm thấy vui mừng vì Jonathan không ở trên biển tối hôm qua, mà là ở trên bờ. Nhưng, than ôi, anh ấy đang ở trên biển hay ở trên đất liền? Anh ấy đang ở đâu, và như thế nào? Em vô cùng lo lắng cho anh. Nếu như em chỉ cần biết điều gì đó để làm, và có thể làm điều gì đó cho anh!
Ngày 10 tháng 8. – Đám tang của người thuyền trưởng tội nghiệp kia đã gần xong. Mọi chiếc thuyền trên bến cảng đều có ở đây, và chiếc quan tài được khiêng bởi các thuyền trưởng trên khắp con đường từ Ngọn Đồi Bến Cảng Tate đến khu nghĩa trang. Lucy đi với tôi, và chúng tôi đi trước đến chỗ ngồi quen thuộc của mình, trong khi quan tài được chở đi trên thuyền đi lên tận Viaduct và sau đó quay xuống trở lại. Chúng tôi có một vị trí nhìn rất tốt, và luôn nhìn thấy tòan cảnh đám rước gần như ở mọi vị trí. Người đàn ông đáng thương đã an nghỉ gần chỗ chúng tôi thường ngồi, và chúng tôi đứng đấy theo dõi mọi việc diễn ra.
Lucy tội nghiệp trông có vẻ rất phiền muộn. Bạn ấy luôn lo lắng và bồn chồn không yên, và tôi buộc phải nghĩ rằng cơn mơ đêm qua đang quay lại quấy rầy bạn ấy. Bạn ấy có một cái gì đó rất lạ. Bạn ấy không thể thổ lộ với tôi và đó chính là nguyên nhân cho mọi sự bất an của bạn ấy, hoặc chính là vì bạn ấy cũng không thể tự hiểu thực sự điều đó là gì.
Thêm vào đó, người ta thấy ông Swales tội nghiệp đã chết vào sáng nay tại chỗ mà chúng tôi thường ngồi, cổ ông ấy bị gãy. Bác sĩ nói rằng ông ấy rõ ràng đã rất sợ hãi một cái gì đó, rồi té xuống từ chỗ ngồi của mình, do sự sợ hãi và kinh dị còn hiện rõ trên mặt ông ấy khiến mọi người trông thấy đều rùng mình. Người đàn ông già tội nghiệp thân yêu!
Lucy thật dễ thương và nhạy cảm đến nỗi bạn ấy dễ bị tác động hơn bất cứ ai. Bây giờ bạn ấy đang rất phiền muộn vì một điều gì đó mà tôi chưa thể xác định được, dù bản thân tôi rất dễ thông cảm với mọi người.
Có một người đàn ông thường hay đến đây ngắm tàu thuyền cùng với một chú chó đi theo. Cả hai đều tỏ ra trầm tính, tôi chưa bao giờ thấy người đàn ông nổi giận hay nghe con chó sủa. Nhưng lần này, khi người đàn ông ngồi với chúng tôi, thì con chó không lại gần, nó đứng cách chúng tôi vài yard, sủa và tru lên. Chủ nó dịu dàng kêu nó im đi, rồi lên tiếng gay gắt hơn, và cuối cùng là giận dữ. Nhưng ông không sao làm cho con chó im tiếng. Nó trông rất giận dữ, mắt trông thật man rợ, lông dựng lên tua tủa giống như cái đuôi mèo khi nó chuẩn bị giao tranh.
Cuối cùng người đàn ông nổi giận, ông ta nhảy xuống và đá con chó một cú, rồi tóm gáy nó và nữa kéo nữa ném nó lên tấm bia đá tại chỗ ngồi. Ngay khi chạm vào tảng đá, con vật tội nghiệp run lên bần bật. Nó không tìm cách chạy đi, nhưng nằm mọp xuống, run rẩy và khúm núm, trông một trạng thái run sợ đến tội nghiệp đến nỗi tôi tự nhiên phải đến khuyên giải nó.
Lucy trông cũng vô cùng đáng thương, nhưng bạn ấy không cố để chạm vào con chó, nhưng nhìn với dáng vẻ tuyệt vọng vô cùng. Tôi rất sợ là bạn ấy cũng có một bản năng siêu nhiên để run sợ mà không nói nên lời như thế. Tôi tin chắc là bạn ấy sẽ nằm mơ thấy nó tối nay. Tất cả những điều đang được tích tụ lại, con tàu được lái đến cảng bởi một người chết, những điều anh ta kể lại, được buộc vào bánh lái với cây thánh giá và tràng hạt, việc cử hành tang lễ, con chó lúc giận dữ và lúc thì khiếp sợ, tất cả đủ tạo nên một giấc mơ kinh khiếp cho bạn ấy.
Tôi nghĩ là tốt nhất nên làm cho bạn ấy mệt lử trước khi lên giường, vậy tôi sẽ cùng bạn ấy đi bộ trên những vách đá của vịnh Robin Hood rồi trở về. Bạn ấy sẽ chẳng còn đủ sức cho những cơn mộng du nữa.