Bảy Lần Canh Cửa

Chương 10: Những cánh cửa cấm



Cha – Peter thì thào khi họ bước vào sảnh đón khách. Bất chấp mặt trời chói chang bên ngoài, chỉ có một chút ánh sáng lọt được qua những khuôn cửa sổ nhỏ xíu, hắt vào trong và biến căn sảnh thành một không gian tối mờ, rờn rợn. Với thứ ánh sáng này, những bức tượng đá trông sống động hơn bao giờ hết – Hay thật đấy, giống hệt một hầm ma. Mình chả muốn sống ở đây chút nào.

– Tạ ơn Chúa – một trong những bức tượng đá phía trên hành lang nói bằng một giọng khàn khàn và nhô ra từ bóng tối.

Không phải tượng đá. Đó là ông Carter. Ông ta bước đến bên tay vịn và nhìn xuống nhóm ba người đứng dưới.

– Ô – Peter kêu khẽ. Cậu không biết cần phải nói điều gì khác.

– Ông Carter – Justus gắng sức cứu vãn tình huống. Cho phép tôi được giới thiệu các bạn đồng nghiệp của tôi nhé? Đây là Peter Shaw và…

– Bob Andrew, tôi biết rồi – Carter sỗ sàng ngắt lời cậu. Cậu đã đưa danh thiếp cho tôi từ tối hôm qua, quên rồi sao?

Ông ta ném một vật nhỏ xuống, Justus khéo léo bắt lấy. Đó là chiếc chìa khóa dẫn xuống tầng hầm.

– Cửa luôn phải khóa, để không một ai có thể từ bãi cát đi qua cửa và đột nhập vào trong nhà. Các cậu cứ xem xét đi, nếu cho thế là cần thiết. Nhưng đừng có bạo gan sờ mó vào những cánh cửa khóa kín ở dưới đó, hiểu chưa?

– Dĩ nhiên, thưa ông.

– Và đừng có làm ầm ĩ! – Carter gửi xuống dưới một ánh mắt lạnh như băng rồi biến vào một trong khoảng hành lang.

– Một con người mới hấp dẫn làm sao – Bob nói thầm. Ông này mà có bạn gái hả? Thật khó tin.

– Ông ấy đang bối rối vì không biết mình đã biết bao nhiêu về ông ấy rồi – Justus khẳng định. Ông ấy sợ mình.

– Chắc thế – Peter nói bằng vẻ coi thường. Chắc là ông ấy sợ cậu. Chắc chắn thế, Justus. Đi thôi, ta xuống xem tầng hầm.

Cánh cửa tầng hầm được làm bằng một thứ gỗ thẫm màu, dày nặng. Trên khuôn cửa là một thằng gù bằng đá tròn trĩnh, đang giơ tay gãi đầu. Bức tượng trông ngộ nghĩnh hơn là đe dọa, nhưng trong khung cảnh này thì đó là một nét hài hước hết sức u tối. Justus mở cửa ra, cánh cửa xoay vào trong không một tiếng động. Ngay sau đó là khoảng cầu thang dẫn thẳng xuống dưới, chìm sâu trong bóng tối.

– Rùng rợn – Peter nhận xét – ở đây không có đèn sao?

– Không – một giọng nói cất lên phía sau lưng họ. Bộ ba xoay về. Albert đang đứng trong phòng, nhìn họ từ đầu xuống chân.

– Ông có vài ngọn nến không? – Justus hỏi, gắng lịch sự tối đa.

– Không – ông ta cứ đứng đó và chăm chú nhìn họ.

– Thế ông Carter làm sao xuống được dưới đó mà không bị ngã gãy cổ?

– Ông ấy quen đi trong bóng tối – câu trả lời vang lên.

Justus thở dài.

– Vậy thì tôi đi lấy đèn pin của tôi. Các cậu chờ ở đây! – Thám Tử Trưởng chạy tới cầu thang và bước lên trên.

Bob và Peter đứng bên cửa tầng hầm. Họ nhìn dọc theo khoảng cầu thang u tối xuống dưới rồi lại nhìn sang phía Albert. Gã quản gia vẫn cứ đứng ra đó, rõ ràng đang gắng sức đâm chết họ bằng ánh mắt. Không ai nói một lời. Có vẻ như cả một vĩnh hằng đã trôi qua rồi Justus mới quay trở lại, tay cầm đèn pin.

– Đi thôi!

Justus bật đèn lên, chầm chậm theo những bậc cầu thang gần như thẳng đứng bước xuống dưới sâu. Phía sau cậu là Peter và Bob. Họ mới đi được một nửa khúc cầu thang thì cánh cửa sập lại với một tiếng nổ lớn. Cả ba giật nảy người.

– Có phải Albert? – Peter thì thào.

– Mình nghĩ dám là gã ta lắm – Justus nói.

– Gã điên rồi chắc, sao lại dọa bọn mình như thế?

– Nhưng cũng có thể là gió thổi thôi. Các cậu có thấy gió lùa không? Gió này đến từ cửa mở ra đường biển. Chờ chút! – Justus chen qua hai người bạn mình, leo ngược lên phía cửa, rút chìa khóa ra và khóa trái từ bên trong.

– Này! – Peter phản đối – Sao cậu lại khóa bọn mình ở trong này?

– Mình đâu có khóa bọn mình lại, chỉ khóa Albert ở ngoài thôi. Làm như thế thì ông ta không có cơ hội đột ngột tới đứng sát ngay sau lưng bọn mình như bóng ma từ dưới đất chui lên – Justus nói khẽ và cười khúc khích. Nghe tiếng mình khóa cửa, chắc là gã bực muốn chết. Đi thôi!

Họ bước tiếp. Đoạn cầu thang dẫn xuống một khúc hành lang dài, hai bên có hai cánh cửa. Ở cuối đoạn hành lang chỉ le lói một chút ánh sáng rất mờ. Có tiếng rì rào xa xôi vẳng đến bên tai họ.

Justus tạm thời bỏ qua hai cánh cửa và đi dọc theo hành lang, cho tới khi gặp một khoảng cầu thang nữa dẫn xuống dưới. Giờ thì cậu nhận ra thứ ánh sáng mờ mờ nọ là ánh nắng ban ngày, đang hắt vào mấy bậc thang thấp nhất.

– Ở dưới kia là đường ra – Justus nhận xét. Ta xem xét nó chút!

Những bậc thang ban đầu còn hết sức bình thường, nhưng họ càng xuống sâu bao nhiêu thì những mặt đá càng ngả sang màu xanh lục. Với mỗi bước chân, mặt đá càng trở nên trơn trượt. Những bậc cầu thang cuối cùng trơn đến mức Justus phải chú ý hết sức để không bị ngã. Khúc cầu thang này đâm thẳng xuống mặt nước biển.

– Các cậu nhìn mà xem! – Peter kêu lên và chen qua mặt Justus, ngó ra biển. Khi nước thủy triều dâng lên, người ta hoàn toàn không sử dụng được cửa ra này, còn nếu trời nổi bão thì có lẽ đến một nửa cầu thang bị ngập nước.

– Chắc là chuyện thường xuyên xảy ra, cứ nhìn theo những vệt tảo mọc ở khắp nơi thì biết – Bob nói. Mình hoàn toàn không tưởng tượng được rằng khi nước thủy triều rút ở đây lại có một bãi cát.

– Sáu tiếng đồng hồ nữa, mực nước sẽ rút xuống đủ thấp – Justus giải thích. Cho tới thời điểm đó, ở đây chẳng có gì để mà xem xét thêm đâu.

– Một chuyến đi ngắn ngủi – Peter nói.

– Đúng, nếu ta quay lên nhà ngay bây giờ.

– Cậu còn định làm việc gì nữa sao? – Peter hỏi.

– Không làm việc gì cả, chừng nào phía trên kia còn hai cánh cửa được khóa kín.

– Chẳng lẽ cậu định vào trong! Ông Carter có nói…

– Hiện thời mình chẳng quan tâm đến chuyện ông Carter nói gì. Hy vọng là cậu có mang túi móc khóa theo, Peter?

– Đáng tiếc là có thật – Thám Tử Phó rên lên.

– Thế thì vào việc đi! Bọn mình không nên ở dưới này quá lâu, nếu không, Albert sẽ đâm nghi. Nhưng ít nhất thì mình cũng muốn xem qua mấy căn phòng đó!

Sau đó một chút, họ đã đứng trước một trong hai cánh cửa gỗ đóng kín và Peter loay hoay bên ổ khóa của nó.

– Chuyện trẻ con.

Cậu nói và trong vài tích tắc đã mở được cánh cửa đầu tiên. Nó kêu cọt kẹt khi xoay vào trong. Justus chĩa đèn vào.

– Ôi trời ơi! Không biết ở đây đã xảy ra chuyện gì?

Peter cười ngắn.

– Giờ thì mình đã rõ tại sao ông Carter lại không muốn bọn mình xem tới chỗ này. Đúng là một cái chuồng lợn.

Trong căn phòng là sự hỗn độn tuyệt đối. Nó được chất đầy tới trần toàn đồ gỗ, hộp gỗ và hộp carton.. Tất cả ngăn kéo trong các cánh tủ đều bị kéo hết cỡ ra ngoài, giấy tờ vung vãi khắp nơi; dưới nền phòng ngổn ngang từng đống từng đống những tập hồ sơ đã mở toang. Bộ ba quan sát đống hỗn độn đó một thoáng, thế rồi Peter mở tiếp cánh cửa còn lại. Trong căn phòng thứ hai cũng là một bức tranh tương tự: những bao tải đựng đầy quần áo đứng trong các góc phòng, lại thêm vô vàn đồ gỗ và hòm gỗ để lộn xộn lung tung. Những bao tải đựng quần áo đều bị mở ra; quần, áo sơ mi và áo khoác ngồn ngộn ló ra ngoài, ngóc ngách nào cũng có những chiếc khăn màu sặc sỡ nằm la liệt dưới đất hay treo vạ vật trên các đồ vật khác.

– Theo mình thì bây giờ ta đã được biết đồ đạc trong nhà ông Carter ở đâu – Justus nói.

– Ý cậu muốn nói đây là đồ của Carter? – Bob hỏi.

– Dĩ nhiên. Nếu không thì biết đưa chúng đi đâu? Ông Carter đã cho đưa xuống tầng hầm này tất cả những gì mà ông ấy không nhất thiết cần tới trong cuộc sống hằng ngày, dồn tất cả vào đây rồi khóa cửa lại, để không bao giờ còn phải nhìn thấy chúng nữa. Đây chính là nơi chứa cuộc đời cũ của Casper Carter. Ta thật không thể có một địa điểm tốt hơn để tìm xem ông Carter thật sự là ai – hay đã là ai.

– Ít nhất thì ông ấy cũng không phải là người mà mình tưởng tượng ra theo những lời kể của cậu – Bob nói và chỉ vào một núi đồ gỗ. Các cậu thử nhìn đống này mà xem! Những cái tủ, những cái bàn và những cái ghế này trông rõ là đồ Ấn Độ, đúng không?

– Mình lại nghĩ là đồ của Châu Phi – Peter nói.

– Nhưng chắc chắn cái này có nguồn gốc từ Châu Á – Justus nhận định và chỉ vào một cái tủ chạm trổ rất cầu kỳ bằng gỗ thẫm màu. Những đồ này không hề thích hợp với bộ ghế bành bọc da đồ sộ đang đứng trong phòng làm việc của Carter. Người ta dễ đoán đây là đồ của một cửa hàng dành cho những người ưa chuyện siêu nhiên. Cửa hàng của ông Feng Shui hay một cái tên tương tự. Không biết bao nhiêu là dãi khăn lụa sặc sỡ… và nhìn này, cái hòm gỗ gì mà đầy chân nến!

– Cha, nhìn bên ngoài rất dễ nhận lầm người – Peter nói.

– Hay là nhận lầm bản thân mình – Justus thêm vào và chầm chậm đi đi lại lại trong căn phòng, xem xét kỹ lưỡng từng chút một. Vì theo lời anh Montgomery thì bản thân ông Carter cũng hoàn toàn bất ngờ trong lần đầu về lại nhà mình sau một thời gian dài nằm bệnh viện. Ông ấy không hề nhận ra những gì đang tồn tại trong nhà. Toàn bộ phần trang trí nội thất là hoàn toàn xa lạ với chủ nhân của chúng. Vì thế mà ông ấy đẩy tất cả xuống tầng hầm này, chắc là ông Carter đã trang bị lại toàn bộ ngôi nhà trước khi gặp tai nạn ô tô.

– Đúng, đúng, được rồi – Peter nóng nảy nói và nhịp nhịp bàn chân. Nhưng bây giờ tốt hơn là ta nên đi thôi, đúng không? Bọn mình ở dưới này lâu rồi đấy.

– Thì đã sao?

– Ông Albert sẽ biết đấy!

– Ông ta không biết bọn mình làm gì ở đây.

– Ông ấy sẽ nghĩ ra.

– Nhưng ông ấy không thể chứng minh được. Thôi đi, ít nhất thì mình cũng muốn mở vài cái hòm gỗ này! Nào, hai bạn đồng nghiệp, giúp mình đi! Sau đó ta lại đưa mọi vật lại về chỗ cũ. Mình sẽ không ngạc nhiên nếu ông Carter coi cái đống hỗn độn này là một thứ trật tự chỉ riêng ông ấy hiểu.

Miễn cưỡng, Bob và Peter làm cùng. Họ không thoải mái chút nào, nhưng cãi lời Justus sẽ chẳng mấy tác dụng. Thám Tử Trưởng là kẻ cứng đầu cứng cổ, bao giờ cũng đòi làm cho bằng được những gì cậu muốn. Và khi hai người xắn tay áo phụ giúp, ít nhất họ cũng sẽ xong việc nhanh hơn.

Vì chỉ có duy nhất một ngọn đèn pin, nên Bộ Ba??? phải xem xét lần lượt hai căn phòng. Trong khi Peter vội vàng nhòm ngó vào các khuôn tủ, các khuôn kệ và các ngăn kéo, thì Bob lật xem qua các cuốn sách và các chồng hồ sơ. Justus quan tâm đến số lượng vô kể các hộp carton, đựng đầy những hộp đồ chơi nho nhỏ, những tấm gương viền hoa, những bó hương, những đồ vật treo tường kỳ quái và những đồ linh tinh khác.

– Này! – Bob đột ngột kêu lên. Thám Tử Thứ Ba đã tìm thấy một chiếc hộp nhỏ óng ánh màu bạc, được dát những viên pha lê sặc sỡ, vốn nằm ẩn bên dưới một núi hồ sơ. Trong đó là rất nhiều giấy tờ, Mình tin rằng, trong tất cả những của báu đang nằm nơi đây, mình vừa mới tìm thấy đồ quý nhất.

– Cái gì thế?

– Thứ thiêng liêng nhất. Ít ra mình cũng tin vậy. Ở đây là vài tấm ảnh và những bài báo được cắt ra từ mấy thập kỷ vừa qua. Có vẻ như cái hộp nhỏ này chứa đựng những thứ mà Carter đã gom góp và được ông ta coi là thật sự có ý nghĩa.

– Xem nào!

– Không phải ở đây? – Peter đòi hỏi – Thật đấy, Justus, ta phải rút lui thôi! Bọn mình đã ở dưới này quá mười lăm phút rồi.

– Chỉ là một giờ nghỉ trưa nhỏ, đủ hút một điếu thuốc lá – Justus nói.

– Sao hả?

– Thôi, không sao hết. Nhưng cậu có lý. Ta phải đi thôi. Bọn mình mang chỗ giấy tờ này theo.

– Cái gì?

– Sao, cậu tưởng mình để vuột nó khỏi tay hả? Đưa sang đây? – Justus giật lấy cái hộp nhỏ và đút ngay nó vào cạp quần mình. Thế rồi cậu phủ lần áo thun ra ngoài. Chẳng ai nhìn thấy!

Peter tròn mắt.

– Ai cha. Đúng là không ai nhìn ra! Justus! Ai lại biết được cái bụng tròn của cậu lại có lúc hữu ích thế! Mình phục thật đấy!

– Cậu đã thấy chưa, que củi chết đói! Bây giờ quay trở lên!


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.