MỘT CHÍN BỐN LĂM, MỘT NĂM TRO TÀN. Cuộc nội chiến chỉ mới kết thúc sáu năm thôi, và dù những vết thâm bầm của nó vẫn có thể cảm thấy theo từng bước chân, song gần như không ai nói công khai về nó nữa. Giờ người ta nói về cuộc chiến khác, chiến tranh thế giới, cuộc chiến đã làm nhiễm bẩn khắp địa cầu với cái mùi hôi thối của xác người không bao giờ tan biến. Đó là những năm thiếu thốn và đau thương, được ban phước một cách kỳ lạ bởi thứ yên bình mà những kẻ câm điếc và những kẻ tàn phế gây nên cho chúng ta – nửa phần thương xót nửa phần khinh thị. Cuối cùng, sau nhiều năm vô vọng tìm kiếm công việc làm dịch giả, tôi tìm được một chân biên tập ở một nhà xuất bản, của một doanh nhân thuộc một chủng loại mới, tên là Pedro Sanmartí. Sanmartí đã xây dựng công ty của mình với gia sản vốn của ông bố vợ mà lúc bấy giờ đã bị người ta hộc tốc tống vào nhà dưỡng lão bên Hồ Bañolas trong khi Sanmartí chờ bức thư kèm giấy chứng tử xác nhận ông ta đã chết. Lão doanh nhân này thích ve vãn những phụ nữ tầm nửa tuổi hắn bằng cách tự phong mình là người tự gây dựng nên cơ nghiệp, một hình tượng đang thịnh hành lúc ấy. Hắn nói thứ tiếng Anh bập bõm với chất giọng lè nhè, tin rằng đó là ngôn ngữ của tương lai, và câu nào hắn cũng kết thúc với chữ “Okay”.
Công ty của Sanmartí (hắn đặt tên là Endymion vì hắn nghĩ nó nghe ấn tượng hơn và có thể bán được sách) xuất bản các sách giáo lý, hướng dẫn nghi thức xã giao, và các thiên tiểu thuyết răn dạy đạo đức mà nhân vật chính là mấy bà xơ trẻ dại dột đến nực cười, nhân viên Chữ Thập đỏ, và các công chức hạnh phúc và đạo mạo. Chúng tôi cũng xuất bản một loạt truyện tranh về những người lính, Biệt Kích Dũng Cảm – một thành công vang dội trong số độc giả là những chú bé đang cần các anh hùng. Tôi quen một người bạn tốt ở công ty ấy, thư ký của Sanmartí, một góa phụ tên là Mercedes Pietro, người mà tôi nhanh chóng tìm thấy một mối đồng cảm lớn. Mercedes và tôi có nhiều điểm chung: chúng tôi là hai phụ nữ, bị bao quanh bởi những người đàn ông hoặc đã chết hoặc đang lẩn trốn thế giới. Mercedes có một cậu con trai bảy tuổi bị bệnh rối loạn cơ, cô ấy chăm sóc nó hết mức có thể. Cô mới ba hai tuổi, song những nếp nhăn trên mặt cho thấy cô có một cuộc đời vất vả. Những năm ấy, Mercedes là người duy nhất tôi cảm thấy muốn chia sẻ mọi điều.
Chính cô ấy đã bảo tôi rằng Sanmartí là bạn thân của một kẻ danh tiếng đang phất, lắm huy chương nhiều phần thưởng, Thanh tra Javier Fumero. Họ đều thuộc bè lũ những kẻ đã vươn lên từ đống tro tàn của chiến tranh để vươn vòi bạch tuộc ra toàn khắp thành phố, một thế lực tinh hoa mới.
Một ngày nọ Fumero xuất hiện ở nhà xuất bản. Hắn đến thăm ông bạn Sanmartí, người hắn hẹn đi ăn trưa. Lấy lý do này nọ, tôi trốn trong phòng lưu trữ cho đến khi cả hai người đã đi. Khi tôi quay lại bàn, Mercedes ném cho tôi một ánh nhìn; không cần phải nói. Từ lúc ấy, mỗi lần Fumero xuất hiện trong văn phòng nhà xuất bản, cô ấy sẽ báo trước để tôi có thể trốn đi.
Không một ngày nào Sanmartí không cố dụ tôi ra ngoài ăn tối, đến rạp hát hoặc chiếu phim, dùng bất cứ lý lẽ nào. Tôi luôn đáp rằng chồng tôi đang đợi tôi ở nhà và chắc chắn vợ hắn ta hẳn rất lo lắng, vì đã muộn rồi. Bà Sanmartí nằm rất xa dưới con xe Bugatti trong danh mục những món ưa thích của ông chồng. Thực ra, chị ta gần như đã đánh mất vai trò của mình trong trò chơi hôn nhân, bấy giờ gia sản của ông bố đã chuyển sang tay Sanmartí. Mercedes đã cảnh báo tôi: Sanmartí với khả năng tập trung hạn chế, luôn ham mê những da thịt tươi trẻ, mới lạ và tập trung cách tán tỉnh vô bổ của mình vào bất kỳ người mới đến nào – mà lúc ấy có nghĩa là tôi. Hắn ta sẽ dùng đến đủ loại mưu m
“Người ta bảo tôi rằng chồng của em, cái ông Moliner, là nhà văn… Có lẽ anh ta sẽ quan tâm đến việc viết một cuốn sách về anh bạn Fumero của tôi. Tôi đã có nhan đề rồi: Fumero, Kẻ trừng phạt Tội ác. Em nghĩ sao Nurieta?”
“Tôi rất cảm kích, thưa ông Sanmartí, nhưng Miquel đang bận với cuốn tiểu thuyết anh ấy đang viết, nên tôi e anh ấy không thể làm việc đó lúc này…”
Sanmartí sẽ cười phá lên.
“Một cuốn tiểu thuyết ư? Nurieta… tiểu thuyết đã chết và bị chôn vùi rồi. Mới hôm trước một người bạn từ New York đến bảo tôi như vậy. Người Mỹ đang phát minh ra cái gọi là truyền hình, nó sẽ giống như điện ảnh, sẽ ngay tại nhà mình. Sẽ không cần đến sách nữa, hay nhà thờ hay bất cứ thứ gì. Bảo chồng em quên tiểu thuyết đi. Nếu ít nhất anh ta nổi tiếng, nếu anh ta là cầu thủ bóng đá hay võ sĩ đấu bò… Này, sao chúng ta không lên chiếc Bugatti đi ăn cơm thập cẩm ở Castelldefels để bàn chuyện này nhỉ? Thôi nào, cô em, em phải nai lưng ra làm lâu nay rồi… Em biết tôi muốn giúp em mà. Cả anh chồng tốt bụng của em nữa. Em biết rõ là ở đất nước này nếu không có bạn tốt, thì không làm được gì hết.”
Tôi bắt đầu ăn mặc như một góa phụ đoan trang, hay những phụ nữ dường như nhầm lẫn ánh mặt trời với tội lỗi chết người. Tôi đến chỗ làm với mái tóc bới ra sau, và không trang điểm. Bất chấp thủ đoạn của tôi, Sanmartí vẫn tiếp tục tưới tắm lên tôi những lời dâm tục kèm theo nụ cười đồi bại nhầy nhụa. Đó là nụ cười khinh thị, điển hình của kẻ tự đắc nghênh nghênh treo lủng lẳng như cục xúc xích nhồi trên bậc thang cao nhất trong mọi doanh nghiệp. Tôi có vài ba cuộc phỏng vấn xin việc ở nơi khác, những sớm hay muộn tôi cũng bắt gặp một phiên bản khác của Sanmartí. Chúng mọc nhanh như dịch nấm, vương lên từ đống cứt mà trên đó các công ty được gây dựng. Một trong số bọn họ còn cất công gọi điện báo cho Sanmartí rằng Nuria Monfort đang lén lút tìm việc khác. Sanmartí triệu hồi tôi vào phòng hắn, tỏ vẻ đau đớn trước thái độ vô ơn của tôi. Hắn đưa tay ra định vuốt má tôi. Những ngón tay sặc mùi thuốc lá và hôi hám. Tôi tím tái thẫn thờ.
“Thôi nào, nếu em không vui, em chỉ cần nói với tôi. Tôi có thể làm gì để cải thiện điều kiện làm việc của em đây? Em biết tôi trân trọng em thế nào mà, và em làm tôi tổn thương khi nghe người khác bảo em muốn bỏ chỗ này. Sao chúng ta không đi ăn tối để gi quyết chuyện này nhỉ?”
Tôi gạt tay hắn khỏi mặt tôi, không thể tiếp tục che giấu mối ghê tởm với hắn được nữa.
“Em làm tôi thất vọng quá, Nuria ạ. Tôi phải thừa nhận là không thấy tinh thần hợp tác gì ở em cả, dường như em không tin tưởng vào mục tiêu kinh doanh của công ty này nữa.”
Mercedes đã cảnh báo tôi sớm muộn chuyện thế này cũng xảy ra. Vài ngày sau, Sanmartí, kẻ mà ngữ pháp không khá hơn một con khỉ, bắt đầu trả toàn bộ bản thảo tôi đã sửa, trách cứ rằng chúng đầy những lỗi. Thực sự hằng ngày tôi ở lại văn phòng đến tận mười, mười một giờ đêm, không ngớt sửa lại những trang đầy gạch chéo và nhận xét của Sanmartí.
“Quá nhiều động từ ở thì quá khứ. Nghe như là chết rồi, vô hồn… Động từ nguyên thể không nên dùng sau dấu chấm phẩy. Ai cũng biết là…”
Một số đêm Sanmartí sẽ ở lại muộn, nhốt mình trong phòng. Mercedes cố gắng ở đó, nhưng không dưới một lần hắn bắt cô ấy về nhà. Rồi khi chỉ có hai chúng tôi, hắn sẽ ra khỏi phòng hắn và lảng vảng lại bàn tôi.
“Em làm việc vất vả quá, Nuria ạ. Công việc không phải là tất cả. Ta cũng phải giải trí nữa. Em lại còn trẻ nữa. Nhưng tuổi trẻ sẽ qua đi, em biết đấy, và không bao giờ chúng ta cũng biết tận dụng nó.”
Hắn sẽ ngồi lên cạnh bàn và nhìn chằm vào tôi. Đôi khi hắn đứng sau lưng tôi và đứng yên đó vài ba phút. Tôi có thể cảm thấy hơi thở hôi hám của hắn lên tóc tôi. Lần khác, hắn đặt tay lên vai tôi.
“Em căng thẳng quá. Thả lỏng đi nào.”
Tôi run rẩy, tôi muốn gào lên bỏ chạy và không bao giờ quay lại văn phòng đó nữa, nhưng tôi cần công việc và đồng tiền còm cõi nhờ nó. Một đêm, Sanmartí bắt đầu công việc mát xa quen thuộc và rồi hắn bắt đầu mơn trớn tôi.
“Gần đây em khiến tôi phát điên…” hắn rên rỉ.
Tôi bật dậy, vùng khỏi cái siết tay của hắn, vơ vội áo khoác và túi xách rồi chạy ra cửa. Sau lSanmartí phá lên cười. Dưới chân cầu thang, tôi lao thẳng vào một bóng đen.
“Thật ngạc nhiên thú vị, cô Moliner…”
Thanh tra Fumero ban cho tôi một trong những điệu cười rắn rết của hắn. “Đừng bảo là cô đang làm việc cho anh bạn tốt Sanmartí của tôi đấy! Cô gái may mắn. Cũng giống như tôi, anh ta biết cách chơi lắm đấy. Mà chồng cô thế nào rồi nhỉ?”
Tôi biết thế là hết. Ngày hôm sau, tin đồn lan trong văn phòng là Nuria Monfort đồng tính – vì cô ta miễn dịch trước vẻ quyến rũ và hơi thở đầy mùi tỏi của Don Pedro Snamartí – và cô ta đang dan díu với Mercedes Pietro. Không dưới một nam nhân viên trẻ triển vọng trong công ty thề rằng nhiều lần bắt gặp “hai con điếm kia” hôn nhau trong phòng lưu trữ. Chiều hôm ấy, lúc ra về, Mercedes bảo muốn nói vài lời với tôi. Cô ấy không dám nhìn thẳng vào tôi. Chúng tôi ra quán cà phê nơi góc phố, không nói một lời trên đường đi. Ở đó Mercedes bảo rằng Sanmartí đã bảo cô ấy: rằng hắn không chấp nhận tình bạn của chúng tôi, rằng cảnh sát đã cho hắn một bản báo cáo về tôi, nêu chi tiết quá khứ cộng sản đáng ngờ của tôi.
“Em không thể mất công việc này, chị Nuria ơi. Em cần phải chăm lo con trai…”
Cô ấy bật khóc, giày vò xấu hổ và nhục nhã.
“Đừng lo, Mercedes, chị hiểu rồi,” Tôi nói
“Người đàn ông này, Fumero, hắn đang theo dõi chị đấy, chị Nuria ạ. Em không biết sao hắn thù hằn chị, nhưng điều đó hiện trên khuôn mặt hắn…”
“Chị biết.”
***
THỨ HAI TUẦN SAU, khi đến chỗ làm, tôi thấy một người đàn ông gầy còm với mái tóc đen nhờn đang ngồi ở bàn tôi. Hắn ta tự giới thiệu là Sanvador Benades, nhân viên biên tập mới.
“Còn cô là ai?”
Không một ai trong văn phòng dám nói chuyện hay nhìn tôi khi tôi thu dọn đồ đạc. Khi tôi trên đường xuống cầu thang, Mercedes chạy theo đưa tôi một với ít tiền giấy và chút tiền xu.
“Gần như tất cả mọi người đã đóng góp những gì có thể. Chị nhận đi. Không phải vì chị, mà vì bọn em.”
Tối hôm ấy, tôi về căn hộ trên phố San Antonio. Julián đang đợi tôi như mọi lần, đang ngồi trong bóng đêm. Anh viết một bài thơ cho tôi, anh nói. Đó là thứ đầu tiên anh viết trong chín năm qua. Tôi muốn đọc nó, nhưng tôi bật khóc trong vòng tay anh. Tôi kẻ anh nghe tất cả, vì tôi không kìm nén được nữa. Julián lắng nghe, không nói gì, anh chỉ ôm tôi và vuốt tóc tôi. Lần đầu tiên trong chín năm tôi cảm thấy có thể dựa vào anh. Tôi muốn hôn anh vì tôi chán ghét sự cô đơn, nhưng Julián không còn đôi môi hay làn da để trao cho tôi. Tôi ngủ thiếp đi trong vòng tay anh, nằm cuộn tròn trên giường trong phòng anh, chiếc giường ngủ cho trẻ con. Khi tôi tỉnh giấc, Julián không ở đó nữa. Lúc gần sáng, tôi nghe tiếng bước chân trên mái nhà và tôi vờ như đang ngủ. Sáng hôm ấy, tôi nghe tin trên đài mà không nhận ra ý nghĩa của nó. Người ta tìm thấy một xác người đang ngồi trên ghế dài ở phố Borne. Người chết xếp tay ngang bụng và đang nhìn về nhà thờ Santa María del Mar. Một bầy chim bồ câu đang mổ vào mắt y, khiến cho một người dân tò mò, người này liền báo cảnh sát. Xác bị gãy cổ. Bà Sanmartí xác nhận đó là chồng bà Pedro Sanmartí Monegal. Khi bố vợ người chết nghe tin từ nhà dưỡng lão Bañolas, ông đã tạ ơn trời và tự nhủ giờ ông có thể chết thanh thản.