Bức Họa Chết Người

Chương 11: Tommy gặp một người bạn cũ



Từ phía đối diện của đường phố, Tommy ngắm nhìn cơ ngơi của nhà Messrs. Partingdale, Harris, Lockeridge và Partingdale.

Trông chúng nổi bật vẻ đáng kính và cổ điển. Tấm bảng đồng cũ rích nhưng còn bóng láng dễ thương. Anh băng qua đường và được những âm thanh máy đánh chữ gõ nhanh câm lặng xuyên qua những cánh cửa mở đu đưa chào đón.

Anh hướng sự chú ý của mình lên cửa sổ bằng gỗ dái ngựa bên tay phải mang những chữ ghi trên đồng xu Điều Tra –

Bên trong là một phòng nhỏ nơi ba người phụ nữ đang đánh máy và hai thư kí nữ đang cúi mình trên những bàn giấy chép lại những tài liệu.

Một bầu không khí thoang thoảng mùi ẩm mốc với một tính cách hợp pháp triệt để.

Một phụ nữ ba mươi lăm tuổi, mái tóc vàng nhạt, một cái kính kẹp mũi ngước lên từ bàn máy đánh chữ đến cửa sổ với vẻ nghiêm khắc.

– Tôi có thể giúp gì được cho ông?

– Tôi muốn gặp ông Eccles.

Vẻ nghiêm khắc của người đàn bà tăng gấp đôi.

– Ông có hẹn không?

– Tôi e là không. Tôi vừa mới đến London hôm nay.

– Tôi e là ông Eccles sáng hôm nay hơi bận. Có lẽ một người khác của hãng –

– Tôi đặc biệt muốn gặp ông Eccles. Tôi đã có trao đổi thư từ với ông rồi.

– Tôi hiểu. Có lẽ ông sẽ cho biết tên ông.

Tommy cho tên và địa chỉ và người phụ nữ tóc vàng rút lui để dùng điện thoại xin ý kiến. Sau cuộc nói chuyện nhỏ cô trở lại.

– Thư kí của chúng tôi sẽ đưa ông vào phòng đợi. Ông Eccles sẽ có thể tiếp ông trong mười phút.

Tommy được dẫn vào một phòng đợi có một kệ sách hơi cổ và những chồng sách luật trông buồn tẻ và một bàn tròn phủ đầy giấy tờ thuộc tài chính khác nhau. Tommy ngồi đó và điểm lại trong đầu những phương pháp tiếp cận theo dự tính. Anh tự hỏi ông Eccles sẽ như thế nào. Cuối cùng anh được dẫn vào và ông Eccles từ bàn giấy đứng lên đón, anh quả quyết nói rõ ra là ông không thích ông Eccles không vì lí do đặc biệt nào cả. Ông cũng tự hỏi mình vì sao ông không ưa ông Eccles. Dường như không có lí do căn bản của sự thù ghét. Ông Eccles là một người giữa bốn mươi và năm mươi tuổi với mái tóc màu xám tro hơi mỏng ở đỉnh đầu. Khuôn mặt ông ta dài hơi buồn với nét mặt đặc biệt như tạc bằng gỗ, đôi mắt sắc, một nụ cười khá vui đôi khi cắt bớt một cách bất ngờ nét buồn tẻ của hình dáng.

– Ông Beresfold?

– Vâng. Thật ra là một việc hơi tầm thường, nhưng vợ tôi đã lo âu. Cô viết thư cho ông, tôi tin thế, hay có khả năng cô đã gọi điện, để tìm hiểu xem ông có thể cho cô ấy địa chỉ của một bà Lancaster nào đó không.

– Bà Lancaster à, ông Eccles nói, giữ nguyên một khuôn mặt hoàn toàn vô cảm. Thậm chí đó không phải là một câu hỏi. Ông chỉ để lại cái tên lơ lửng trong không khí.

– “Một người đàn ông thận trọng,” Tommy nghĩ,” nhưng đó là bản chất thứ hai của những luật gia thận trọng. Thật ra, nếu họ là luật sư riêng của ai người ta cũng thích họ thận trọng.”

Ông tiếp tục:

– Cho đến lúc sau này sống ở một chỗ gọi là Sunny Ridge, một cơ sở công cọng – và một chỗ rất tốt – cho những bà già. Thật sự, một bà dì của chúng tôi ở đó là cực kì hạnh phúc và dễ chịu.

– Ô vâng, dĩ nhiên rồi, dĩ nhiên. Bây giờ tôi nhớ rồi. Bà Lancaster. Tôi nghĩ, bà không còn sống ở đó nữa? Điều đó hợp lí, phải không?

– Phải, Tommy đáp.

– Có lúc tôi không nhớ lại chính xác – ông ta đưa tay vói máy điện thoại – tôi vừa mới hồi phục kí ức –

– Tôi có thể kể lại cho ông hoàn toàn đơn giản, Tommy nói. Vợ tôi cần địa chỉ của bà Lancaster bởi vì cô tình cờ sở hữu một mảnh tài sản nguyên thủy thụôc về bà Lancaster. Một bức tranh, thật thế. Bà Lancaster đã tặng nó cho dì tôi, cô Fanshawe như một món quà. Dì tôi vừa mới chết, và một ít của nả của dì lọt vào quyền sở hữu của chúng tôi. Trong đó gồm có bức tranh được bà Lancaster tặng. Vợ tôi rất thích nó nhưng cô lại có cảm giác tội lỗi về cái ấy. Cô nghĩ rằng có thể là một bức tranh bà Lancaster đánh giá cao và trong trường hợp này cô cảm thấy mình phải tự nguyện trả lại cho bà ấy.

– Tôi hiểu, ông Eccles nói. Bà nhà thật là giàu lương tâm đ*o đức, tôi bảo đảm.

– Người ta không bao giờ hiểu, Tommy cười vui vẻ, người già có thể cảm giác gì về tài sản của họ. Có lẽ bà ấy cảm thấy vui từ khi dì tôi say mê bức tranh ấy và có nó, nhưng khi dì tôi chết ngay sau khi nhận bức tranh này, dường như hơi không đẹp nếu bức tranh thuộc quyền sở hữu của người khác. Trên tranh không có đề mục đặc biệt. Nó trình bày một ngôi nhà nào đó trong xứ. Vì tất cả điều tôi biết có thể là một vài nhà thân cận liên can đến bà Lancaster.

– Hoàn toàn, chính xác, ông Eccles nói, nhưng tôi không nghĩ –

Có tiếng gõ, cửa mở ra một người thư kí đi vào đưa ra một tờ giấy đặt xuống bàn trước mặt ông Eccles, ông Ecceles nhìn xuống.

– Vâng, à vâng, bây giờ tôi nhớ. Vâng, tôi tin bà – ông liếc nhìn tấm cạc Tommy đặt trên bàn giấy – Berefold gọi điện nói vài lời với tôi. Tôi khuyên bà nên tiếp xúc với ngân hàng các quận phía bắc, chi nhánh Hammer. Đó là địa chỉ duy nhất chúng tôi biết, nhờ bà Richard Johnson chuyển tiếp. Tôi tin bà Johnson là một người cháu hay em họ xa của bà Lancaster và bà ấy thu xếp mọi chuyện với tôi cho bà Lancaster được nhận vào ở Sunny Ridge. Từ khi bà ngẫu nhiên nghe được qua một người bạn, bà yêu cầu tôi điều tra đầy đủ về cơ sở công cọng, Người ta nói đó là một cơ sở tuyệt vời và tôi tin người bà con của bà Johnson, bà Lancacster, sống nhiều năm hoàn toàn hạnh phúc.

– Mặc dầu thế, bà ấy rời khỏi nơi đó quá bất ngờ. Tommy gợi ý.

– Phải, phải, tôi tin rằng bà ấy đã làm thế. Bà Johnson dường như từ Đông Phi Châu trở về hơi bất ngờ – quá nhiều người làm thế! Bà và chồng bà ấy, đã cư trú tại Kenya trong nhiều năm. Họ đang tổ chức nhiều cuộc dàn xếp và cảm thấy có thể tin tưởng vào sự chăm sóc cá nhân dành cho người bà con của họ. Tôi e rằng tôi không biết bà Johnson hiện tại ở đâu. Tôi có lá thư của bà cám ơn tôi và thanh toán những khoản tín phiếu bà còn nợ tôi, và nói thẳng nếu cần liên hệ với bà tôi nên đề địa chỉ nhờ ngân hàng chuyển khi bà và chồng cũng chưa quyết định họ sẽ thật sự cư trú ở đâu. Tôi e, ông Beresfold, đó tất cả những gì tôi biết.

Cử chỉ của ông ta dịu dàng nhưng quả quyết. Nó không phô bày sự bối rối, không lo phiền. Nhưng tính chất dứt khoát của giọng nói rất xác định. Rồi ông thẳng người lên và phong thái mềm lại một chút.

– Thật sự tôi không lo, ông Beresfold, ông biết mà, ông nói giọng khích lệ. Ô, tôi không để cho bà nhà phải lo. Bà Lancaster, là một bà già và có khuynh hướng hay quên, tôi tin thế. Có lẽ bà đã quên tuốt tất cả về bức tranh mà bà ấy tặng rồi. Bà ấy bảy mươi lăm hay bảy mươi sáu rồi chứ. Ở tuổi đó, người ta quên dễ dàng lắm, khỏi phải nói.

– Ông có biết tính cách cá nhân của bà ấy không?

– Không, thật sự tôi chưa bao giờ gặp bà ta.

– Nhưng ông biết bà Johnson?

– Tôi gặp bà ấy khi bà thỉnh thoảng đến đây để tư vấn tôi về những cuộc sắp xếp. Bà ấy hình như là một người vui vẻ, nghiêm túc. Trong những cuộc sắp xếp bà ấy làm bà tỏ ra khá có năng lực. Ông đứng dậy nói, rất tiếc tôi không thể giúp ông nữa, ông Beresfold.

Đó là một lối đuổi khách dịu dàng nhưng cương quyết.

Tommy bước ra ngoài đường Bloomsybury và nhìn quanh tìm một chiếc tắc xi. Cái gói anh đang mang, dù không có sức nặng, là một kích thước đáng kể. Trong một chốc anh nhìn lên toà nhà anh vừa rời khỏi. Toà nhà được xây dựng từ lâu, tiếng tăm đáng kính. Ở đó không có gì có thể lầm lẫn, rõ ràng không có gì có thể sai lầm với nhà Messrs. Partingdale, Harris, Lockeridge và Partingdale, không có gì sai lầm với ông Eccles, không có dấu hiệu kinh hoảng hay chán nản, không có sự mập mờ hay bất ổn. Trong sách vở, Tommy buồn bã nghĩ, nhắc đến bà Lancaster hay bà Johnson chắc phải nói đến một khởi đầu tội lỗi hay cái liếc nhìn gian xảo. Một cái gì đó trình bày những cái tên được đăng kí, tất cả không tốt. Trong đời sống thực tế những sự việc không xảy ra như vậy. Tất cả cái ông Eccles có trông giống như một người đàn ông quá lịch lãm không thể để cho thì giờ của mình bị phí phạm bởi một cuộc điều tra như Tommy vừa mới làm.

Tommy suy nghĩ, nhưng cũng vậy thôi, Ta Không Ưa Eccles. Anh nhớ lại những kí ức lờ mờ về quá khứ, những người khác mà anh vì một lí do nào đó không thích. Những linh cảm thông thường này – vì tất cả đều là những linh cảm – có lí. Có lẽ nó giản dị hơn. Trong đời bạn nếu bạn có khá nhiều giao dịch buôn bán với những người nổi tiếng, bạn có một cảm giác về họ, cũng như một chuyên gia đồ cổ – lập tức biết ngay sở thích và vẻ ngoài và linh cảm sự làm giả trước khi bắt tay thử nghiệm và khảo sát mang tính chuyên nghiệp. Sự kiện đúng là Sai Lầm. Bức tranh cũng Sai lầm. Tin chắc như thế với một thủ quỹ trong một ngân hàng họ cung cấp một tờ giấy bạc giả mạo hạng nhất.

“Hắn nói nghe có lí; Tommy nghĩ. Hắn trông có lí, nghe hắn nói có vẻ có lí, nhưng có khác gì – ”. Anh điên cuồng vẫy một chiếc tắc xi chiếc xe tặng anh một cái nhìn trực diện lạnh lẽo, tăng tốc và đi mất. ‘đồ con lợn,’ Tommy nghĩ.

Mắt anh láo liên nhìn ngược xuôi đường phố, tìm một chiếc xe sắn lòng giúp đỡ. Một số lớn người đang đi bộ trên hè đường. Một vài người vội vã, một vài người rảo bước, một người đàn ông vừa tách khỏi anh băng qua đường đang nhìn chăm chăm một tấm bảng đồng. Sau một cuộc kiểm tra kĩ lưỡng, anh nhìn quanh và đôi mắt Tommy mở to một chút. Anh biết khuôn mặt đó. Anh nhìn người đàn ông đi bộ xuống cuối con đường, ngừng lại, quay lại và đi bộ trở lại. Một người ra khỏi toà nhà phía sau Tommy; ngay lúc đó người đàn ông phía đối diện tăng tốc một chút, vẫn tiếp tục đi bộ phía bên kia đường nhưng vẫn giữ cước bộ với người đàn ông đã ra khỏi cửa. Người đàn ông đã ra khỏi cửa nhà Messrs. Partingdale, Harris, Lockeridge và cánh cửa của Partingdale là, Tommy nghĩ, trông phía sau hình người thụt lùi của ông ta, hầu như đoan chắc là ông Eccles. Cùng lúc đó một chiếc tắc xi rề qua mời mọc vui vẻ, lái dọc theo. Tommy đưa tay lên, chiếc tắc xi trờ đến, anh mở cửa leo vào.

– Đi đâu?

Tommy lưỡng lự một chút, nhìn cái gói. Định cho một địa chỉ anh đổi ý và nói,’ 14 Lyon’.

Mười lăm phút sau anh đến nơi. Sau khi trả tiền tắc xi anh rung chuông và hỏi ông Ivor Smith. Khi anh đi vào một căn phòng ở tầng hai, một người đàn ông đang ngồi ở cái bàn nhỏ đối diện cửa sổ, quay ngoắt lại và nói với sự ngạc nhiên mơ hồ.

– Chào, Tommy, không tưởng được chuyện gặp anh. Lâu lắm rồi. Anh đang làm gì ở đây thế? Chỉ lái xe một cách thoải mái để tìm bạn sao?

– Không hoàn toàn tốt như thế đâu, Ivor.

– Vậy tôi tưởng anh đang về nhà sau hội nghị?

– Vâng.

– Và nhiều chuyện thông thường để hội đàm, tôi tưởng thế? Không có kết luận và không có gì ích lợi để nói cả.

– Đúng. Và tuyệt đối phí phạm thời gian –

– Đa số lắng nghe lão già Bogie Waddock khoác lác, tôi nghĩ vậy. Một người rất tẻ nhạt. Càng năm càng tệ.

– Ồ! –

Tommy ngồi xuống cái ghế được đẩy về phía anh, nhận một điếu xì gà, và nói.

– Tôi chỉ tự hỏi – đó là một điều đoán thử để cầu may – ông có biết điều gì về một người tên Eccles bản tính hay lăng mạ, luật sư cố vấn, hãng Messrs. Partingdale, Harris, Lockeridge và Partingdale.

– Tốt, tốt, tốt, người đàn ông tên Ivor Smith nói. Ông nhướng đôi lông mày lên. Đó là cặp chân mày rất tiện lợi khi nhướng lên. Phần cuối lông mày gần sóng mũi dựng lên còn phía đối diện với gò má thì rủ xuống trong một sự ngạc nhiên tột độ. Chúng tạo cho ông vẻ hơi khiêu khích một chút trông giống người bị một cú sốc mạnh, nhưng thực tế chỉ là một cử chỉ khá thông thường thôi. “Anh lại đương đầu với Eccles một nơi nào đó à, phải không?”

– Caí phiền là, Tommy nói, tôi không biết gì về hắn ta cả.

– Vậy anh muốn biết gì đó về hắn?

– Phải.

– Hừm. Cái gì khiến anh đến gặp tôi thế?

– Tôi thấy Anderson bên ngoài. Tôi đã gặp hắn từ lâu, nhưng tôi nhận ra hắn ngay. Hắn đang theo dõi một ai đó. Người đó là ai, đó là một kẻ trong toà nhà tôi vừa mới ra khỏi. Hai hãng luật sư làm việc ở đó và một hãng thuộc nhân viên kế toán có năng lực hành nghề. Tất nhiên có thể là một trong hai hãng hay một phần tử nào đó của hãng. Nhưng có một gã đi dọc xuống đường tôi trông giống Eccles. Và tôi chỉ tự hỏi bởi dịp may nào mà Anderson lại chú ý đến Eccles của tôi?

– Hừm, Ivor Smith. Tommy, anh luôn là một người suy đoán cực giỏi.

– Eccles là ai?

– Anh không biết à? Anh không có ý kiến gì sao?

– Tôi không có ý kiến, Tommy đáp. Không đi sâu vào một câu chuyện lịch sử dài, tôi đến tìm ông ta vì thông tin về một bà già vừa mới rời khỏi nhà điều dưỡng dành cho qúy bà. Vị cố vấn pháp luật được thuê để sắp xếp cho bà già ấy là luật sư Eccles. Y có vẻ thôi hẳn vụ đó với thái độ cư xử lịch thiệp và có hiệu quả. Tôi cần địa chỉ hiện tại của bà ấy. Hắn nói hắn không có. Có thể hắn không có…nhưng tôi vẫn thắc mắc. Hắn là đầu mối duy nhất gần bà ấy mà tôi có.

– Và anh cần tìm bà ta?

– Phải.

– Tôi không nghĩ điều nói ra như có vẻ tôi sẽ yêu cầu quá sức chịu đựng đối với anh. Eccles là một người rất đáng kính trọng, một luật sư nổi tiếng làm ra được lợi tức lớn, có khá nhiều khách hàng cao cấp đáng nể, làm việc cho những điền chủ, những tầng lớp chuyên nghiệp, lính tráng và thủy thủ nghỉ hưu, các vị đại tướng và đô đốc và tất cả những cái không thể giải thích được. Hắn ta ở giai đoạn phát triển cao nhất của sự tôn kính. Từ những điều anh vừa nói tôi có thể tưởng tượng ra, rằng những hoạt động của hắn tuyệt đối đúng luật.

– Nhưng anh – anh chú ý đến hắn, Tommy gợi ý.

– Phải, chúng tôi rất chú ý đến ông James Eccles. Ông ta thở dài. Chúng tôi chú ý đến ông ta ít ra cũng sáu năm. Chúng tôi chưa tiến xa lắm.

– Rất đáng chú ý, Tommy nói. Tôi sẽ hỏi ông lần nữa. Chính xác ông Eccles là ai?

– Anh muốn nói chúng tôi nghi ngờ Eccles về chuyện gì? Tốt, nói tắt một câu, chúng tôi nghi hắn là một trong những đầu não tổ chức giỏi nhất trong những hoạt động tội ác của xứ này.

– Hoạt động tội ác? Tommy có vẻ kinh ngạc.

– Ồ, vâng, vâng. Không áo choàng hay dao găm. Không có gián điệp, hoạt động chống gián điệp. Không, hoạt động tội ác đơn giản. Hắn là một người đàn ông theo chỗ chúng tôi biết có thể khám phá được là không bao giờ thực hiện một tội ác nào trong cuộc đời. Hắn không bao giờ ăn cắp, hắn không bao giờ làm giả giấy tờ, không bao giờ rửa tiền, chúng tôi không bao giờ có chứng cớ nào chống lại hắn cả. Nhưng cũng thế bất cứ khi nào có một tổ chức đánh cướp lớn có dự mưu, ở đó chúng tôi thấy, ông Eccles đang dẫn đầu một cuộc sống lương thiện.

– Sáu năm, Tommy nói giọng suy tưởng.

– Thậm chí còn lâu hơn thế. Nó chiếm một thời gian ngắn, để nắm bắt những mẫu sự kiện. Những vụ cướp ngân hàng, những vụ trộm tư trang, tất cả các loại sự kiện đem lại món tiền lớn. Tất cả các việc đều theo một mẫu nhất định. Anh không thể ngừng suy nghĩ rằng cùng một cái đầu đã tổ chức chúng. Người trực tiếp điều khiển và mang đi không bao giờ phải làm bất cứ dự án nào. Chúng đi nơi chúng được báo, chúng làm những gì chúng được ra lịnh, chúng không bao giờ phải suy nghĩ. Một kẻ nào khác đang suy nghĩ.

– Và cái gì làm ông tình cờ nghĩ ra được sáng kiến Eccles?

Ivor Smth lắc đầu suy nghĩ. Phải dài dòng để kể cho anh nghe. Hắn là một người có nhiều mối quan hệ, nhiều bạn. Có những người hắn chơi gôn, có những người phục vụ cho xe hơi của hắn, có những hãng môi giới cổ phần hoạt động cho hắn. Có những công ty làm những việc không có chi đáng chê trách mà trong việc đó hắn bị chú ý. Dự án càng rõ ràng nhưng vai trò của hắn trong dự án thì không rõ ràng, trừ việc hắn vắng mặt rất dễ nhận biết vào những dịp nào đó. Một vụ đánh cướp ngân hàng lớn được tổ chức thông minh( và không có chi phí chia phần, nhắc anh đấy), củng cố chuyện dời khỏi một nơi và tất cả phần còn lại, còn ông Eccles khi xảy ra chuyện ở đâu? Monte Carlo hay Thụy sĩ hay thậm chí câu cá hồi tại Na uy. Có thể bảo đảm ông Eccles không bao giờ ở trong một trăm dặm nơi những hoạt động tội ác xảy ra.

– Tuy vậy ông vẫn nghi ngờ hắn?

– Vâng. Tôi hoàn toàn chắc trong trí óc tôi. Nhưng khi nào chúng tôi bắt hắn tôi không biết. Người đàn ông đào đường hầm dưới nền nhà một ngân hàng, người đàn ông đánh ngã người gác đêm, người thủ quỹ từ khởi đầu ở trong chuyện, người quản lí ngân hàng cung cấp tin tức, không ai trong bọn họ biết Eccles, có lẽ họ không bao giờ thấy lão nữa. Cả một chuỗi xích dài dẫn đi xa – và hình như không một người nào biết gì hơn ngoài chuyện tự mình liên kết lại với nhau.

– Kế họach cũ hay của băng nhóm?

– Nhiều hay it, phải, nhưng có một số suy nghĩ khởi thủy. Một ngày nào đó chúng tôi sẽ có một cơ hội. Một kẻ nào đó không biết Cái gì , sẽ biết Một điều gì đó. Một điều gì đó trẻ con và tầm thường,có lẽ thế, nhưng một cái gì đó khá kì lạ có thể là chứng cớ sau cùng.

– Hắn cưới vợ – có gia đình chưa?

– Không, hắn không bao giờ dám liều như vậy. Hắn sống một mình với quản gia và một người làm vườn và một hầu phòng nam. Ơ một chừng mức nào đó hắn tiếp đãi dịu dàng vui vẻ, và tôi dám thề rằng mỗi một người độc thân bước vào nhà như khách của hắn đều vượt quá sự nghi ngờ.

– Và không ai trở nên giàu có à?

– Đó là một điểm hay mà anh vừa điểm mặt chỉ tên ra, Thomas. Một kẻ nào đó Phải đang trở nên giàu. Một kẻ nào đó phải được Thấy đang giàu lên. Nhưng phần này được xếp đặt quá thông minh. Tiền đầu tư vào những cổ phần và vốn kinh doanh, tất cả những sự việc đều tự nhiên, chỉ đủ tạo những số tiền lớn, và rõ ràng tất cả đều là những công việc làm ăn trung thực. Có nhiều số tiền chất thành đống ở ngoại quốc trong những xứ và những chỗ khác nhau. Đó là một số tiền lớn, khổng lồ, cơ hội kiếm tiền đáng ngại – và tiền thì luôn luôn chuyển dịch – đi từ chỗ này đến chỗ khác.

– Tốt, Tommy nói, may cho ông. Tôi hi vọng ông bắt được gã đó.

– Bắt hắn bằng cách nào?

– Sự nguy hiểm, Ivor nói. Làm cho hắn cảm thấy hắn đang bị nguy hiểm. Làm cho hắn cảm thấy một ai đó hiểu được hắn. Làm cho hắn bất ổn, hắn có thể làm điều gì đó ngu ngốc. Hắn có thể phạm sai lầm. Đó là cách anh bắt bọn tội phạm, anh biết rõ mà. Nắm lấy gã đàn ông thông minh nhất, hắn có thể vạch một kế hoạch sáng chói và không bao giờ phạm sai lầm. Để cho một số sự kiện làm hắn lo lắng hồi hộp và hắn sẽ phạm sai lầm. Tôi đang hi vọng thế. Nào bây giờ hãy nghe câu chuyện của anh. Anh có thể biết cái gì đó hữu ích chăng.

– Không có chi dính dáng tới tội phạm cả, tôi e là thế – không mấy quan trọng.

– Được, cứ nghe đã.

Tommy kể lại câu chuyện của mình không xin lỗi về tính cách quá tầm thường của nó. Ivor mà anh biết, không phải là loại người khinh miệt sự tầm thường. Ivor, thật sự đi thẳng vào cái mũi nhọn đã mang Tommy đến chỗ sai lầm.

– Và vợ anh biến mất, anh nói?

– Điều đó không giống cô ấy.

– Nghiêm trọng đấy.

– Nghiêm trọng khá đủ với tôi.

– Tôi có thể tưởng thế. Tôi chỉ gặp cô ấy có một lần. Cô thông minh.

– Nếu cô đuổi theo ai cô giống như một con hổ dữ theo mồi, Tommy nói.

– Anh vẫn chưa đến cảnh sát sao?

– Không.

– Tại sao không?

– Đầu tiên bởi vì tôi tin rằng cô ổn thôi hoàn toàn không gặp chuyện gì. Tuppence luôn luôn có lí. Cô chỉ đuổi theo bất cứ con thỏ rừng nào tự phơi mình ra. Cô không thể có thời gian để liên hệ.

– Mmm. Tôi không thích cái ấy lắm. Cô đang tìm kiếm một ngôi nhà, anh nói? Chỉ có cái đó là Có Thể đáng chú ý vì giữa những thứ đầu cua đuôi nheo chúng ta đang theo đuổi, ngẫu nhiên không dẫn đến đâu, là một dấu chỉ của đại diện nhà đất.

– Đại lí nhà đất? Tommy có vẻ ngạc nhiên.

– Phải. Những đại lí nhà đất đẹp, bình thường, hơi tầm thường trong những thị trấn miền núi tại những xứ khác nhau của Anh quốc. Hãng của Eccles giải quyết nhiều việc cho và với những đại diện nhà đất. Đôi khi lão làm cố vấn cho người mua và đôi khi cho người bán, và hắn thuê nhiều đại diện nhà đất khác nhau, vì quyền lợi của khách hàng. Đôi khi chúng tôi tự hỏi tại sao. Không có gì thích đáng cả, anh thấy đấy –

– Nhưng ông nghĩ cái ấy có thể nghĩa là một cái gì hay dẫn tới cái gì chăng?

– Phải, nếu anh nhớ lại vụ cướp ngân hàng lớn phía Bắc London cách đây nhiều năm, có một ngôi nhà trong xứ – một ngôi nhà vắng vẻ. Đó là nơi hẹn của bọn cướp. Ơ đó chúng không bị chú ý lắm, nhưng là nơi hàng hoá được mang đến và cất dấu của cải. Người trong miền phụ cận bắt đầu có một vài câu chuyện về họ, và tự hỏi những kẻ đến và đi vào những giờ bất thường này là ai. Nhiều loại xe hơi khác nhau đến vào lúc nửa đêm và lại đi. Người ta tò mò về những người láng giềng trong xứ. Chắc chắn, cảnh sát đã kiểm tra đột xuất chỗ đó, họ bắt được ba người đàn ông, gồm một người được nhận ra và xác minh.

– Cái ấy có đưa ông đến nơi nào không?

– Thật ra thì không. Bọn đàn ông sẽ không khai, chúng được bảo vệ và được giới thiệu tốt, chúng bị kết án tống giam dài hạn và trong vòng một năm rưỡi tất cả bọn chúng lại ra tù lần nữa. Những sự giải cứu rất thông minh.

– Dường như tôi nhớ có đọc về cái đó. Một người đàn ông biến mất khỏi toà án tội ác nơi hắn vừa được mang đến bởi hai người cai ngục.

– Đúng. Tất cả được xếp đặt rất thông minh và một số tiền khổng lồ chi cho việc trốn thoát.

Nhưng chúng tôi nghĩ rằng bất cứ kẻ nào chịu trách nhiệm trong băng nhóm sẽ nhận ra hắn ta đã làm một việc sai lầm khi xử dụng một căn nhà quá lâu, để cho người dân địa phương chú ý. Có lẽ, một kẻ nào đó nghĩ rằng sẽ tốt hơn nếu kiếm những chi nhánh công ty kinh doanh vào ở, như nhiều ngôi nhà số 30 trong những Địa Điểm khác nhau. Người ta đến và thuê một ngôi nhà, mẹ và con gái, một quả phụ, hay một người lính nghỉ hưu và vợ. Những người thầm lặng dễ thương. Họ sữa chữa căn nhà một vài chỗ, kiếm một thợ xây dựng địa phương vào và cải thiện ống nước, có lẽ một vài hãng từ London xuống trang hoàng lại, rồi sau một năm hay một năm rưỡi điều kiện tài chánh khá giả, những người ở bán căn nhà và đi ra ngoại quốc sinh sống. Có một chuyện như thế. Tất cả rất tự nhiên và vui vẻ. Trong suốt thời gian thuê nhà ngôi nhà đó đã được xử dụng có lẽ cho những âm mưu bất bình thường! Nhưng không ai nghi ngờ một việc như vậy cả. Những bạn bè đến thăm, không thường xuyên lắm. Chỉ thỉnh thoảng thôi. Một đêm, có lẽ, một buổi tiệc sinh nhật dành cho tuổi trung niên, hay đôi vợ chồng già; hay buổi họp mặt dành cho người đã đến tuổi trưởng thành. Nhiều xe hơi đến và đi. Người ta nói có năm vụ cướp trong vòng sáu tháng nhưng mỗi lần hàng hoá đều trót lọt, hoặc được cất giấu, không chỉ một trong những ngôi nhà này, mà đến năm nhà khác nhau trong năm chỗ khác nhau ở miền quê. Ây chỉ là một giả thuyết cho đến bây giờ, nhưng chúng tôi bắt buộc phải làm việc. Hãy nói bà già của anh để lại một bức tranh một ngôi nhà nào đó từ tài sản của bà, giả sử đó là một ngôi nhà Có ý Nghĩa. Giả sử đó là ngôi nhà mà Cô ấy đã nhận ra nơi nào đó, và chạy bổ ra ngoài điều tra. Giả sử một kẻ nào đó không muốn ngôi nhà bị điều tra – có thể cột chặt với nhau nhiều sự kiện, anh biết đấy.

– Sự so sánh ấy thật khiên cưỡng.

– Ô vâng – tôi đồng ý. Nhưng vào những thời đại này chúng ta sống trong những giai đoạn khiên cưỡng – trong thế giới đặc biệt này những chuyện không thể tin được vẫn xảy ra.

Tommy hơi mệt mỏi xuống chiếc tắc xi thứ tư trong ngày và nhìn những gì vây quanh anh, đánh giá. Chiếc tắc xi đã thả ông xuống một ngõ cụt ẩn náu khiêm tốn dưới một trong những chỗ nhô lên của Hampstead Heath. Ngõ cụt hình như có một số ‘mở mang’ nghệ thuật. Mỗi ngôi nhà khác biệt ngôi nhà kế bên một cách hoang dại. Ngôi nhà đặc biệt này chừng như có một xưởng vẽ với ánh sáng mặt trời chiếu vào trong, và sát cạnh( trông giống như một lợi răng bị sưng), một phía là một cụm nhỏ ba phòng. Một cầu thang được sơn màu xanh lục tươi chạy thẳng bên ngoài toà nhà. Tommy mở cánh cổng chính nhỏ, đi lên một lối đi hẹp và không thấy cái chuông nào khiến anh đành chuyên tâm vào chuyện gõ cửa. Không nghe lời đáp, anh im lặng vài phút rồi lại khởi sự gõ, lần này hơi lớn hơn.

Bất ngờ cánh cửa mở ra khiến anh gần té về phía sau. Một phụ nữ đứng trong lề cửa. Ơ cái nhìn đầu tiên cảm tưởng đầu tiên của Tommy đây một trong những người phụ nữ chất phác nhất mà anh gặp. Bà có một khuôn mặt bằng phẳng, mặt giống cái bánh ngọt tròn, hai hố mắt rộng hình như có những màu khác nhau không thể có, một con màu xanh và một con nâu, một cái trán cao với một mớ tóc dày xoã xuống hoang dại. Bà mặc một áo choàng ngoài màu tím với những mảng lớn đất sét dính trên áo, và Tommy để ý đến bàn tay giữ cánh cửa mở là một kiến trúc tuyệt đẹp.

– Ô, bà nói. Giọng bà trầm và khá quyến rũ. Chuyện gì thế? Tôi bận.

– Bà Boscowan?

– Phải, ông muốn gì?

– Tên tôi là Beresfold. Tôi tự hỏi xem có thể nói chuyện với bà vài phút được không.

– Tôi không biết. Thật sao, ông phải nói chuyện à? Cái gì kia – có vẻ là một bức tranh? Mắt bà nhìn cái gói anh kẹp dưới cánh tay.

– Phải. Đó là cái có dính líu tới tranh của chồng bà.

– Ông muốn bán nó sao? Tôi còn nhiều tranh. Tôi không muốn mua nữa. Xin mang tới những gallerie. Bây giờ họ bắt đầu mua lại tranh của ông ấy. Có vẻ như ông không cần bán tranh mà.

– Ồ không, tôi không muốn bán chi cả.

Tommy cảm thấy khó khăn cực độ khi nói chuyện với người phụ nữ này. Mắt bà, mặc dù không có gì sánh kịp, là cặp mắt rất đẹp bây giờ qua vai anh đang nhìn xuống đường với vẻ chú ý kì dị một cái gì đó từ khoảng xa.

– Xin làm ơn, Tommy nói. Tôi mong bà để tôi vào. Quá khó giải thích.

– Nếu ông là hoạ sĩ tôi không muốn nói chuyện với ông, bà Boscowan nói. Tôi luôn chán ngấy những hoạ sĩ.

– Tôi không phải là một hoạ sĩ.

– Anh không có vẻ là một hoạ sĩ, chắc rồi. Mắt bà quét lên người anh từ trên xuống dưới. Anh có vẻ giống một công chức hơn. Bà nói không phấn khởi gì.

– Tôi có thể vào nhà không, bà Boscowan?

– Tôi không chắc. Hãy đợi đã.

Bà đưa anh đến lối đi từ cửa vào nhà, lên một cầu thang hẹp vào phòng vẽ. Trong một góc có một hình tượng và nhiều dụng cụ khác nhau đứng bên cạnh. Những cái búa cái chàng. Cũng có một đống đất sét. Toàn thể khung cảnh có vẻ như là vừa bị một nhóm côn đồ vào tàn phá.

– Ở đây không bao giờ có chỗ ngồi đâu. Bà Boscowan nói.

Bà ném nhiều món đồ khác nhau từ một cái ghế đẩu có chân cao và đẩy nó về phía anh.

– Đó. Ngồi xuống và nói chuyện với tôi đi.

– Bà thật tử tế đã để tôi vào.

– Một phần nào thôi, nhưng ông có vẻ lo lắng. Ông lo lắng về một điều gì đó, phải không?

– Vâng tôi lo.

– Tôi nghĩ vậy. Ông lo chuyện gì vậy?

– Vợ tôi, Tommy đáp, ngạc nhiên về câu trả lời của mình.

– Ồ, lo cho vợ ông ư? Có cái gì bất thường trong đó thế. Đàn ông luôn luôn lo cho vợ họ. Có chuyện gì thế – có phải cô ấy đi với ai đó hay chỉ quan trọng hoá vấn đề thôi?

– Không, không có chi như thế cả.

– Đang hấp hối? Ung thư?

– Không, Tommy đáp. Chỉ là tôi không biết cô ấy hiện ở đâu.

– Và ông nghĩ tôi có thể biết? Tốt hơn ông nên nói với tôi tên cô và cái gì đó về cô nếu ông nghĩ tôi có thể tìm cô cho ông. Tôi không chắc, ông nhớ cho, bà Boscowan nói, về điều tôi muốn làm. Tôi báo cho ông biết trước.

– Cám ơn, Tommy nói, bà dễ nói chuyện hơn tôi nghĩ về bà trước đây.

– Bức tranh liên hệ với cái gì? đó là một bức tranh, phải không, hình dáng ấy.

Tommy tháo cái gói.

– Đó là một bức tranh chồng bà kí tên, Tommy nói. Tôi muốn bà nói cho tôi cái bà có thể biết về nó.

– Tôi hiểu. Chính xác ông muốn nói về cái gì?

– Khi nào nó được sơn và vẽ ở đâu.

Bà Boscowan nhìn ông và lần đầu tiên trong mắt bà có một nét chú tâm nhẹ nhàng.

– Cái đó không khó, bà nói. Vâng, tôi có thể nói với ông về bức tranh. Nó được vẽ cách đây mười lăm năm – không, nhiều hơn tôi nghĩ ra. Nó là một trong những bức vẽ đầu tiên đẹp nhất của ông ấy. Cách đây hai mươi năm rồi, tôi dám nói thế.

– Bà biết nó ở đâu – tôi muốn nói chỗ vẽ ấy?

– Ồ vâng, tôi có thể nhớ rất rõ. Tranh đẹp. Tôi luôn luôn yêu nó. Đó là chiếc cầu nhỏ với một mái hình vòm cung và ngôi nhà và địa điểm là Sutton Chancellor. Cách chợ Basing chừng tám dặm. Từ Sutton Chancellor nhà cách hai dặm đường. Rất đẹp. Chỗ hẻo lánh.

Bà bước tới bức tranh, cúi xuống nhìn chăm kĩ một lúc. Thật không thể tin được. Bà nói. Phải, rất kì dị. Bây giờ tôi ngạc nhiên.

Tommy không mấy chú ý.

– Tên ngôi nhà là gì?

– Tôi thật sự không thể nhớ. Ông biết mà, nó được đặt lại tên. Nhiều lần. Tôi không biết có cái gì về nó. Có đôi sự việc bi kịch xảy ra ở đó, tôi nghĩ vậy, rồi người khác đến đặt tên lại. Một lần gọi là Ngôi nhà Con kênh, hay Bên kênh. Một lần nó được gọi là Nhà bên cầu rồi Meadowside – hay Bên sông là cái tên khác.

– Ai sống ở đó – hay bây giờ ai sống ở đó? Bà biết không?

– Tôi không biết ai cả. Lần đầu tiên tôi thấy có một ông và cô gái sống ở đó. Thường xuống hàng tuần. Tôi nghĩ họ không lấy nhau. Cô gái là một vũ công. Có lẽ là một nghệ sĩ – không, tôi nghĩ cô ấy là một vũ công. Vũ ba lê. Khá đẹp nhưng hơi ngốc nghếch. Chấc phác, hầu như nghèo. Wiliam hoàn toàn mềm yếu trước cô ấy, tôi nhớ như thế.

– Ông ấy có vẽ cô không?

– Không. Ông không thường vẽ người. Ông thường nói đôi khi ông muốn vẽ một bản phác thảo về người, nhưng không bao giờ ông vẽ nhiều. Ông luôn luôn điên về những cô gái.

– Họ là những người ở đó khi chồng bà vẽ ngôi nhà sao?

– Phải, tôi nghĩ vậy. Dù sao chỉ một phần thời gian thôi. Họ chỉ xuống vào cuối tuần. Rồi cãi nhau. Tôi nghĩ, họ bất hòa, hay là ông ta đi xa bỏ cô lại hoặc cô ấy đi bỏ ông ấy lại. Tự mình tôi không xuống đó. Tại Coventry tôi đang hoạt động rồi lập thành một nhóm. Sau hết tôi nghĩ chỉ có một gia sư và đứa trẻ trong nhà. Tôi không biết đứa trẻ và cô đến từ đâu nhưng tôi cho rằng người gia sư chăm sóc cô ấy. Rồi tôi nghĩ có chuyện gì đó xảy ra với đứa trẻ. Hoặc bà gia sư mang con bé đi nơi nào đó hay đứa trẻ chết. Ông muốn biết cái gì về người sống trong ngôi nhà đó cách đây hai mươi năm sao? Với tôi thì hơi ngớ ngẩn.

– Tôi muốn nghe bất cứ điều gì tôi có thể nghe về căn nhà đó. Cô ấy bảo cô thấy ngôi nhà từ một chuyến tàu.

– Chính xác, bà Boscowan nói, hệ thống đường rầy xe lửa chỉ chạy bên kia chiếc cầu. Từ đó ông có thể nhìn thấy ngôi nhà rất rõ, tôi hi vọng thế. Rồi bà nói, Tại sao cô ấy lại muốn tìm hiểu ngôi nhà?

Tommy giải thích ngắn gọn – bà ta nhìn ông nghi ngờ.

– Ông không từ nhà thương điên ra chứ? Bằng lời hay bằng cái gì khác, bất kể thế nào người ta cũng gọi thế.

– Tôi giả thiết tôi phải vọng âm một chút như thế, nhưng thật sự hoàn toàn đơn giản. Vợ tôi muốn tìm hiểu ngôi nhà vì vậy cô ấy thử dùng nhiều cuộc hành trình khác nhau bằng xe lửa để tìm hiểu coi cô đã thấy ngôi nhà ở đâu. Tôi nghĩ cô ấy đã tìm ra. Tôi nghĩ cô đã đến chỗ này – Sutton Chancellor?

– Sutton Chancellor, vâng. Thường thì một chỗ rất tầm thường. Tất nhiên bây giờ có thể mở rộng hơn thậm chí đã thành một thị trấn rồi.

– Tôi mong có thể vậy. Cô gọi điện nói cô sẽ trở về nhưng cô không về. Tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra với cô. Tôi nghĩ cô ấy đi khởi sự điều tra căn nhà ấy và có lẽ – có lẽ cô đã gặp nguy hiểm.

– Nguy hiểm về cái gì chứ?

– Tôi không biết. Không ai trong chúng tôi biết cả. Tôi thậm chí không nghĩ không thể có bất kì sự nguy hiểm nào trong chuyện đó, nhưng vợ tôi biết.

– Khả năng ngoại cảm à?

– Có thể. Cô ấy hơi thế thật. Cô có những linh tính. Bà không bao giờ nghe hay biết một bà Lancaster nào đó cách đây hai mươi năm à hay cách đây một tháng?

– Bà Lancaster ư? Không, tôi không nghĩ vậy. Loại tên người ta có thể nhớ lại, có thể không. bà Lancaster thế nào?

– Bà là người chủ bức tranh. Bà ấy thân thiện tặng cho bà dì của tôi. Rồi thình lình bà ấy rời nhà điều dưỡng. Bà con của bà đem bà đi xa. Tôi cố gắng theo dấu cô nhưng không dễ dàng gì.

– Ai là người có óc tưởng tượng, ông hay vợ ông? Hình như ông đã nghĩ nhiều chuyện và trong tâm trạng lo lắng, nếu tôi có thể nói như vậy.

– Vâng, bà có thể nói thế. Trong tâm trạng khá lo lắng và tuyệt đối không về cái gì cả. Đó là những gì bà muốn nói, phải không? Tôi thiết tưởng bà cũng có lí.

– Không, bà Boscowan. Giọng cô thay đổi nhẹ nhàng. Tôi không nói về cái không có.

Tommy nhìn bà dò hỏi.

– Có một việc kì dị về bức tranh này. Rất kì dị. Tôi nhớ khá rõ. Tôi nhớ hầu hết tranh của William mặc dù ông vẽ nhiều.

– Bà có nhớ nó được bán cho ai không, nếu được bán?

– Không, tôi không nhớ. Phải, tôi nghĩ nó được bán. Có một đợt triển lãm tranh ông bán sạch. Chúng trở lại ba bốn năm trước bức này và hai năm sau bức này. Khá nhiều tranh được bán. Hầu như bán hết. Nhưng bây giờ tôi không thể nhớ nó bán cho ai. Tranh ông được hỏi quá nhiều.

– Tôi rất cám ơn bà về tất cả điều bà nhớ.

– Ông đã không hỏi tôi tại sao tôi nói có một cái kì dị về bức tranh. Bức tranh ông mang đến đây.

– Bà muốn nói nó không phải của chồng bà – một người nào đó đã vẽ?

– Ô không. Đó là bức tranh William vẽ.” Nhà bên con kênh,” tôi nghĩ đó là tên ông đặt trong danh mục. Nhưng có vẻ không phải như vậy. Ông thấy đó, có một cái gì đó sai lầm.

– Sai lầm gì?

Bà Boscowan đưa một ngón tay còn dính đất sét và thọc mạnh một điểm ngay chính bên dưới chiếc cầu bắt qua con kênh.

– Kìa, bà nói. Ông thấy chứ? Có một chiếc thuyền nhỏ cột bên dưới chiếc cầu, phải không?

– Phải, Tommy bối rối.

– Chiếc thuyền không có đó, lần cuối cùng khi tôi xem tranh không có. William không bao giờ vẽ chiếc thuyền ấy. Khi được triễn lãm KHÔNG BAO GIỜ CÓ CHIẾC CẦU.

– Bà muốn nói một người nào đó không phải chồng bà sau đó đã sơn chiếc thuyền vào đây?

– Vâng. Kì dị, phải không nào? Tôi tự hỏi tại sao? Đầu tiên nhìn thấy chiếc thuyền ở đó tôi ngạc nhiên, một nơi không hề neo thuyền, rồi tôi có thể hiểu khá rõ William không bao giờ vẽ thuyền. Dù bất cứ lúc nào ông cũng không vẽ. Một ai khác đã vẽ. Tôi tự hỏi là ai?

Bà nhìn Tommy.

– Và tôi ngạc nhiên tại sao?

Tommy không đưa ra kết luận. Anh nhìn bà Boscowan. Dì Ada sẽ gọi bà là một phụ nữ hơi điên còn Tommy không nhìn bà dưới ánh sáng đó. Bà ta mơ hồ, với cách nhanh chóng nhảy từ vấn đề nọ sang vấn đề kia. Những việc bà nói hình như rất ít liên can đến sự việc cuối cùng bà mới nói cách đây một phút. Tommy nghĩ, bà là hạng người có thể biết nhiều chuyện hơn cái điều bà tiết lộ. Bà có yêu chồng không hay ganh ghét với chồng hoặc coi thường chồng? Trong cử chỉ hay thật ra những lời nói của bà ta dù bất cứ cách nào cũng không có đầu mối. Nhưng anh có cảm tưởng chiếc thuyền nhỏ vẽ bên dưới chiếc cầu là nguyên do của nỗi bất an đó. Bà không thích chiếc thuyền được cột ở đó. Thình lình anh nghĩ nếu lời phát biểu của bà là sự thật. Những năm về sau bà có thật sự nhớ lại như là Boscowan có vẽ một chiếc thuyền bên dưới chiếc cầu hay không? thật sự dường như đó là một chi tiết không quan trọng. Nếu chỉ cách đây một năm khi lần cuối cùng bà nhìn thấy bức tranh – nhưng rõ ràng đó là một thời gian còn lâu hơn thế. Và điều ấy làm bà Boscowan bất ổn. Anh nhìn bà một lần nữa và thấy bà đang nhìn anh. Đôi mắt tò mò của bà ngừng lại trên anh không có tính đối kháng, mà chỉ trầm tư mặc tưởng. Rất, rất trầm tư.

– Ông sẽ làm gì bây giờ? Bà nói.

Ít ra điều đó cũng dễ dàng. Tommy không khó khăn gì trong việc biết những điều mình sẽ nói.

– Tối nay tôi sẽ về nhà – xem có tin gì của vợ tôi không – vài lời từ cô ấy. Nếu không, ngày mai tôi sẽ lại chỗ này, Sutton Chancellor. Hi vọng tôi có thể tìm thấy vợ tôi ở đó.

– Cái ấy còn tuỳ. Bà Boscowan nói.

– Còn tùy cái gì chứ? Tommy hỏi giọng sắc bén.

Bà Boscowan cau mày. Rồi bà thì thầm, tôi hi vọng cô ấy bình an..

– Tại sao cô không được bình an? Nói cho tôi hay, bà Boscowan, có cái gì lầm lẫn ở chỗ đó sao – với Sutton Chancellor?

– Với Sutton Chancellor? Với cái chỗ ấy? Bà suy nghĩ. Không, tôi không nghĩ vậy. Không phải với CHỖ ĐÓ.

– Tôi thiết nghĩ tôi muốn nói căn nhà, căn nhà bên con kênh. Không phải làng Sutton Chancellor.

– Ô, căn nhà ư, bà Boscowan nói, thật ra đó là một căn nhà đẹp. Có nghĩa dành cho những người yêu nhau, ông biết đấy.

– Những tình nhân sống ở đấy sao?

– Đôi khi. Thật sự không thường xuyên. Nếu một căn nhà được xây cho những người tình, nó phải được những người tình cư ngụ.

– Không dựng lên cho một số người để một ai đó xử dụng ư.

– Ông nhanh cực kì. Ông hiểu điều tôi muốn nói, phải không nào? Ông không được dựng một ngôi nhà để dành cho một việc lại được sử dụng không đúng chỗ. Tôi sẽ không thích nếu ông làm thế.

– Trong những năm sau này bà có biết gì về số người sống ở đó không?

Bà ta lắc đầu. Không, không, tôi không biết chi về ngôi nhà hết. Ông hiểu cho, điều đó không bao giờ quan trọng với tôi cả.

– Nhưng bà đang nghĩ về một cái gì – không, một người nào?

– Phải, bà Boscowan đáp. Tôi cho rằng về điều này ông có lí. Tôi đang nghĩ đến – một người nào đó.

– Bà có thể nói cho tôi biết về người mà bà đang nghĩ?

– Thật sự không có gì để nói cả, đôi khi, ông cũng rõ mà, người ta chỉ tự hỏi một người hiện ở đâu. Có chi xảy đến cho họ hay họ có thể ra sao – suy rộng ra mà. Có một loại linh cảm – bà vẫy tay – ông có cần một con cá trích hun khói không? Bất ngờ bà hỏi.

– Một con cá trích hun khói à? Tommy giật mình.

– Tôi tình cờ có hai ba con cá trích ở đây. Tôi nghĩ có lẽ ông cần ăn một cái gì đó trước khi ông bắt kịp xe lửa. Nhà ga là Waterloo, bà nói. Về Sutton Chancellor, tôi muốn nói nơi ấy. Ông thường phải đổi tàu tại chợ Basing. Tôi hi vọng ông sẽ làm vậy.

Đó là một lời đuổi khách. Anh chấp nhận.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.