Bức Họa Chết Người

Chương 4



BỨC TRANH VỀ MỘT NGÔI NHÀ

Tuppence hít một hơi thở sâu.

– Cũng vậy thôi.

Cô và Tommy đang đứng trước bậc cửa nhà Sunny Ridge.

– Tại sao lại không?

– Em không biết. Đó chỉ là một cảm giác em có – một cái gì đó liên quan đến thời gian. Thời gian trôi một tốc độ khác nhau trong những chỗ khác nhau. Anh trở về một số nơi nào đó và anh cảm thấy thời gian đã nổ tung nhanh kinh khủng và tất cả cũng gần giống như những chuyện sẽ xảy ra – và thay đổi. Nhưng đây – Tommy, anh còn nhớ Ostend không?

– Ostend? Chúng ta đã đến đó trong tuần trăng mật. Dĩ nhiên anh nhớ.

– Và anh có nhớ bảng hiệu đã viết? TRAMSTILLSTAND – nó làm chúng ta cười. Bảng hiệu kì dị thật.

– Anh nghĩ đó là Knocle – không phải Ostend.

– Đừng lo – anh đã nhớ lại rồi. Chỗ này giống như cái từ đó – Tramstillstand – một từ được tạo ra bằng cách ghép âm và nghĩa của hai từ khác. Thời gian đứng yên – không có gì xảy ra ở đây cả. Thời gian chỉ đứng bất động. Ơ đây mọi việc đang xảy ra cũng như vậy. Chỉ có những chuyện khác xoay tròn.

– Anh không hiểu em đang nói về chuyện gì. Em có định đứng đây suốt ngày nói về thời gian thậm chí không rung chuông không? – Dì Ada không còn ở đây nữa, đó là một việc. Chuyện ấy là khác. Anh bấm chuông.

– Chỉ có một chuyện duy nhất là khác. Bà già của tôi sẽ uống sữa và nói về những lò sửơi, và bà Một – kẻ – nào đó – hay – kẻ khác sẽ nuốt một cái đê hay một cái muỗng hay một phụ nữ nhỏ nhắn không thể tin được sẽ lao ra khỏi phòng và kêu lên the thé đòi hỏi coca của bà, cô Packard sẽ xuống lầu và – Cánh cửa bật mở. Một phụ nữ trẻ trong tấm áo choàng nylon nói: ” ông và bà Beresford? Cô Packard đang đợi ông bà.”

Người phụ nữ trẻ vừa mới chỉ cho họ vào cùng căn phòng khách như trước thì cô Packard xuống lầu và chào họ. Phong thái của cô rất thích hợp không quá nhanh nhẹn như thường lệ. Nó trang nghiêm, và có phần buồn cho cái chết của dì Ada nữa – không nhiều quá – có lẽ đang bối rối. Cô là chuyên gia về tổng số chính xác lời chia buồn có thể chấp nhận được.

Ba năm ghi dấu và mười năm là khoảng thời gian của đời người mà Thánh kinh có thể chấp nhận được, và những cái chết trong tòa nhà công cọng của cô ít khi xảy ra dưới con số đó. Chúng được mong đợi và chúng đã xảy ra.

– Quý hoá quá ông bà đã đến. Tôi đã sắp đặt gọn gàng để ông xem xét hết. Tôi vui mừng việc ông bà có thể đến ngay bởi thực ra tôi đã có ba hay bốn người đang chờ một chỗ trống đã đến đây rồi. Ông sẽ hiểu thôi, tôi chắc là vậy, xin đừng nghĩ rằng ở một khía cạnh nào đó tôi cố dục ông.

– Không đâu, tất nhiên chúng tôi hoàn toàn hiểu.

– Tất cả vẫn còn trong phòng cô Fanshawe ở, cô Packard giải thích.

Cô Packard mở cánh cửa phòng nơi họ đã gặp dì Ada. Nó mang dáng vẻ một căn phòng trơ trụi khi chiếc giường phủ một chiếc khăn trải giường bụi bặm bày ra bên dưới hình thù những tấm chăn gấp lại cùng những chiếc gối được xếp ngay ngắn.

Những cánh cửa tủ đứng đựng quần áo còn mở và những áo quần còn giữ lại được xếp ngay ngắn đầu giường.

Cô thường làm gì – tôi muốn nói, nói chung người ta thường làm gì với quần áo, đố đạc như thế này? Tuppence hỏi.

Cô Packard, lõi đời và được việc không thay đổi.

– Tôi có thể cho bà tên của một hay ba tổ chức họ rất vui có những thứ đồ như vậy. Bà ấy cũng có một khăn quàng vai bằng lông thú với một áo choàng chất lượng tốt nhưng tôi nghĩ cô sẽ không cần dùng? Có lẽ bà có những hội từ thiện riêng nơi bà cần tống khứ một số đồ đạc.

Tuppence lắc đầu.

– Bà ấy có một số nữ trang. Tôi chuyển vào chỗ an toàn rồi. Bà sẽ tìm thấy bên ngăn kéo bàn phấn bên tay phải. Tôi cất nó vào đó trước khi bà đến.

– Cám ơn cô rất nhiều. Tommy nói, về những phiền phức cô gánh lấy.

Tuppence đang nhìn chăm chăm bức tranh treo trên giá trên lò sưởi. Đó là một bức sơn dầu trình bày một ngôi nhà màu hồng lạt đứng kề bên một con kênh với chiếc cầu nhỏ có một nhịp hình vòm cung bắc ngang. Bên dưới chiếc cầu nhỏ có vẽ một chiếc thuyền dựa vào bờ kênh. Đằng xa là hai cây dương liễu. Đó là một khung cảnh nhỏ rất dễ chịu nhưng dù sao Tommy tự hỏi vì lẽ gì Tuppence lại đứng nhìn với vẻ nghiêm trọng đến vậy.

– Thật mơ hồ. Tuppence thì thầm.

Tommy nhìn cô thắc mắc. Những sự việc mà Tuppence gọi là mơ hồ, theo kinh nghiệm lâu năm của Tommy, không thực sự được diễn tả bằng một tính từ như thế.

– Em muốn nói gì, Tuppence?

– Không thể tin được. Trước kia khi ở đây không bao giờ em chú ý tới bức tranh. Nhưng chuyện kì dị là em đã nhìn thấy ngôi nhà ở đâu đó. Hoặc có lẽ đó là một ngôi nhà giống hệt ngôi nhà mà em đã thấy. Em nhớ khá rõ. Điều mơ hồ là em không thể nhớ khi nào và ở đâu.

– Anh nghĩ em chú ý mà không thật sự chú ý rằng mình đang chú ý. Tommy nói, cảm thấy sự chọn lựa những từ vụng về gần như tẻ nhạt và cùng một mức độ đau đớn như cái từ” mơ hồ” của Tuppence được lập lại nhiều lần để nhấn mạnh.

– Anh có để ý đến bức tranh không, Tommy, khi chúng ta đến đây lần trước?

– Không, nhưng nhất là anh không để ý lắm.

– Bức tranh kia, cô Packard nói. Không, ông sẽ không nhìn thấy nó lần trước khi ông đến đây bởi vì tôi chắc hầu như nó không treo trên cái giá đó. Thật ra đó là một bức tranh thuộc tài sản của một trong những người khách của chúng tôi , bà ấy tặng lại cho dì của ông. Cô Fanshawe một hai lần bày tỏ lòng hâm mộ của mình đối với bức tranh ấy và bà già kia đã biến nó thành một món quà rồi yêu cầu dì ông nhận. Thế thôi.

– Tôi hiểu. Dĩ nhiên trước kia tôi không nhìn thấy nó tại đây. Nhưng tôi vẫn có cảm tưởng mình hiểu rất rõ ngôi nhà. Anh có biết không, Tommy?

– Không. Tommy đáp.

– Bây giờ tôi xin kiếu. Cô Packard nhanh miệng. Lúc nào ông bà cần tôi sẽ có mặt.

Với một nụ cười cô Packard gật đầu rời khỏi phòng, khép cửa lại sau lưng.

– Em nghĩ em không thích miệng lưỡi của người đàn bà đó.

– Có chi sai lầm chăng?

– Quá nhiều. Hoặc quá lớn – ” tốt hơn hết là ăn thịt cháu.” Như bà ngoại của Cô bé quàng khăn đỏ.

– Hôm nay hình như em mang một tâm trạng khác thường, Tuppence.

– Có thế. Em luôn nghĩ cô Packard rất dễ thương. Nhưng bữa nay đối với em, hình như cô ấy hơi xúi quẩy. Anh có khi nào nghĩ thế không?

Không, anh không nghĩ. Tiếp tục đi, nên tiếp tục công việc chúng ta đến đây để làm – nhìn qua ” số tư trang cá nhân” của dì Ada nào, như những luật sư đã gọi. Kia là bàn giấy của chú William mà anh đã nói với em. Em thích nó chứ?

– Tuyệt vời. Chức vụ quan Nhiếp chính đây, em sẽ nghĩ vậy đó. Thật tốt đối với những người già đến đây có thể mang theo mình một số đồ vật riêng tư. Em không muốn những cái ghế dựa bằng lông ngựa, nhưng em thích cái bàn nhỏ dành cho công việc phụ nữ. Nó đúng là cái ta cần trong cái góc bên cửa sổ nơi chúng ta để những thứ linh tinh ghê tởm.

– Được rồi, anh sẽ viết cái giấy nhỏ ghi rõ hai thứ.

– Và chúng mình sẽ có bức tranh treo trên giá trên lò sưởi. Nó là một bức tranh cực kì quyến rũ và em hoàn toàn chắc em đã thấy một nơi nào đó rồi. Bây giờ, hãy nhìn các món nữ trang nào.

Họ mở ngăn kéo bàn phấn. Có một bộ những món nữ trang nhỏ một vòng Florentine và những bông tai một chiếc nhẫn nạm đá nhiều màu.

– Trước đây em đã thấy những món này. Thường chúng mang một tên gọi. Đôi khi rất thân thiết. Kim cương, ngọc lục bảo, thạch anh tím, không, nó không thân thiết. Em nghĩ thật sự không phải vậy. Em không thể tưởng tượng có ai đó tặng dì Ada một chiếc nhẫn quyến rũ đắt tiền. Hồng ngọc, ngọc lục bảo – cái khó là không biết bắt đầu từ đâu. Em sẽ thử lại lần nữa. Hồng ngọc, ngọc lục bảo, viên hồng ngọc khác, không, em nghĩ đó là một viên hồng lựu ngọc với một viên thạch anh tím và đá khác có màu hồng, lần này phải là một viên hồng ngọc và một viên kim cương nhỏ nằm ở giữa. Ô, dĩ nhiên, Đáng chú ý lắm. Thật sự khá tốt. Vậy là tính đa cảm và kiểu cổ.

Cô trợt nó trên ngón tay.

– Em nghĩ Deborah có thể thích món này. Bộ Florentine. Nó say mê đồ thời Vicorian dễ sợ. Ngày nay nhiều người như nó lắm. Bây giờ, em nghĩ mình nên coi áo quần. Điều này luôn khá khủng khiếp. Đây là cái khăn lông thú. Hoàn toàn giá trị. Em nghĩ vậy. Em không cần nó. Em tự hỏi có ai đó ở đây – bất cứ người nào đặc biệt tốt với dì Ada – hay có lẽ một người bạn đặc biệt giữa những người bạn khác – em muốn nói, những người đến thăm. Người ta gọi họ là khách tham quan hay khách đến thăm, em có để ý mà. Nếu thế tốt hơn nên tặng cô ta cái khăn lông. Nó làm bằng da lông chồn bắc cực thật. Chúng ta sẽ hỏi cô Packard vậy. Những thứ còn lại có thể đem đến hội từ thiện. Vậy là tất cả đã giải quyết xong, phải vậy không? Nào bây giờ mình sẽ đi tìm cô Packard. Tạm biệt, dì Ada. Cô nói lớn, đôi mắt quay về hướng giường ngủ. ‘cháu vui mừng đã đến thăm dì lần cuối. Cháu tiếc dì đã không ưa cháu, nhưng để lấy làm vui dì Không ưa cháu và còn nói những lời thô lỗ, cháu không tị nạnh với dì đâu. Hẳn dì có Một số óc hài hước nào đó. Chúng cháu không quên dì. Chúng cháu sẽ nhớ đến dì khi nhìn cái bàn của chú William.’

Họ đi vào tìm cô Packard. Tommy giải thích họ sẽ sắp xếp để cái bàn giấy và cái bàn gia công nhỏ buộc phải gởi đến địa chỉ của họ và ông sẽ thu xếp với những nhà bán đấu giá địa phương loại bỏ phần đồ đạc còn lại. Nếu cô Packard không phiền ông sẽ để cho bất cứ đoàn thể nào sẵn sàng nhận quần áo nơi cô.

– Tôi không biết ở đây có ai thích cái khăn lông chồn này không, Tuppence nói. Đây là cái khăn đẹp. Có lẽ, một trong những người bạn đặc biệt của dì? hay có lẽ một trong những y tá đang chờ một ân huệ đặc biệt nơi dì Ada?

– Đó là một ý tưởng rất hay, thưa bà Beresford. Tôi e cô Fanshawe không có một người bạn đặc biệt nào giữa những người khách đến tham quan, nhưng cô O’Keefe, một y tá đã làm nhiều việc dọn dẹp cho bà có lòng tốt đặc biệt và khéo ở tôi nghĩ cô ấy sẽ rất vui lòng và vinh dự nhận cái khăn ấy.

– Còn bức tranh treo trên lò sưởi, tôi thích có nó – mà có lẽ thuộc về tài sản của ai đã tặng nó cho bà ấy, sẽ muốn lấy lại bức tranh đó. Tôi nghĩ chúng ta phải hỏi cô — ?

Cô Packard ngắt lời. “Tôi rất tiếc, bà Beresford, tôi e chúng tôi không thể làm điều ấy. Bức tranh ấy của bà Lancaster tặng cô Fanshawe bà này không còn ở với chúng tôi nữa.”

– Không còn ở với cô nữa sao? Tuppence kinh ngạc. Một bà Lancaster nào đó? Cái người tôi thấy lần sau cùng tôi ở đây – với mái tóc trắng chải ngược ra sau. Bà ấy đang uống sữa trong phòng khách dưới lầu. Cô nói bà ấy đi xa rồi?

– Phải. Tất cả hơi bất ngờ. Một người bà con của bà ta, một bà Johnson nào đó, đã đem bà ấy đi xa cách đây một tuần. Bà Johnson từ Phi Châu nơi bà ấy hiện đang sống trong bốn hay năm năm sau cùng trở về – hoàn toàn bất ngờ. Từ khi vợ chồng bà ấy thuê một căn nhà tại nước Anh, thì bây giờ bà có thể chăm sóc bà Lancaster tại nhà riêng của bà. Tôi nghĩ bà Lancaster thật sự không muốn từ bỏ chúng tôi. Bà ấy trở nên quá – bảo thủ, bà sống rất tốt với mọi người và hạnh phúc. Bà ta rất phiền muộn, buồn phát khóc về chuyện ra đi – nhưng ai có thể làm gì được? Thế mới hay là thật ra bà ấy không biết gì, dĩ nhiên bởi vì nhà Johnson trả tiền cho việc bà ấy ở đây. Tôi đã gợi ý rằng khi bà sống ở đây quá lâu và đã làm cho bà ấy an tâm nhiều rồi, cách hợp lí nhất là nên để bà ta ở lại

– Bà Lancaster đã ở đây với cô bao lâu? Tuppence hỏi.

– Gần sáu năm, tôi nghĩ thế. Phải, độ chừng đó. Điều đó giải thích tại sao, bà ấy thật sự cảm thấy đây là mái nhà của bà.

– Vâng, tôi có thể hiểu điều đó. Cô cau mày căng thẳng liếc Tommy rồi vênh cái cằm bướng bỉnh vào không khí.

– Tôi tiếc bà ấy đã đi. Lần trước khi đang nói chuyện với bà ấy ở đây tôi có cảm tưởng – khuôn mặt bà hình như rất quen thuộc đối với tôi. Rồi thì sau này điều đó trở lại trong trí nhớ rằng tôi đã gặp bà với bà bạn cũ của tôi, một bà Blenkinsop nào đó. Tôi nghĩ thế khi tôi trở lại thăm dì Ada lần nữa, tôi sẽ tìm hiểu xem có đúng thế không. Nhưng tất nhiên bà đã trở lại với người của bà ấy thì điều đó lại khác.

– Tôi hoàn toàn hiểu, bà Beresford. Nếu trong một thời gian ngắn bất cứ người khách nào đến thăm ở lại tiếp xúc với một số bạn già cũ hay ai đó biết những ngừơi bà con của mình, điều này tạo ra sự khác biệt lớn. Tôi không thể nhớ bà ấy có từng nhắc đến một bà Blenkinsop nào đó chưa, tôi cũng không thể cho rằng trong trường hợp này điều này có thể xảy ra.

– Cô có thể nói cho tôi thêm một ít về bà ấy không, bà con của bà ấy là ai, bà ấy bắt đầu tới đây như thế nào?

– Thật sự có rất ít điều để nói. Như tôi nói, cách đây chừng sáu năm tôi nhận được thư của bà Johnson nhờ điều tra về Nhà dưỡng lão, rồi bà Johnson tự mình đến đây kiểm tra lại. Bà nói bà đã lưu ý đến Sunny Ridge từ một người bạn và bà đòi hỏi những điều kiện và những thứ tương tự – rồi bà ấy đi. Cách đây một tuần hay nửa tháng sau đó chúng tôi nhận được một lá thư từ một hãng luật sư ở London đặt những câu hỏi rộng hơn, cuối cùng họ viết thư nói rằng họ rất muốn chúng tôi chấp nhận bà Lancaster phần bà Johnson sẽ đưa bà ấy đến đây khoảng chừng một tuần nữa nếu chúng tôi còn một chỗ trống. Tình cờ chúng tôi lại có, bà Johnson đưa bà Lancaster lại đây ngay còn bà kia thì thích ngay cái chỗ và căn phòng chúng tôi dành cho bà. Bà Johnson bảo bà Lancaster thích mang theo mình một số đồ đạc riêng, tôi hoàn toàn đồng ý, bởi vì người ta thường tìm thấy hạnh phúc khi làm điều đó.Vậy là mọi sự được thu xếp rất thoả đáng. Bà Johnson giải thích bà Lancaster là một người bà con của chồng bà, không gần lắm, nhưng họ cảm thấy lo lắng vì cả hai sắp đi Châu phi – tôi nghĩ là Nigeria, chồng bà ấy đang đám nhận một chức vụ ở đó và có lẽ họ sẽ ở đó vài năm trước khi trở về nước Anh, do đó họ không có nhà cho bà Lancaster ở, họ muốn được bảo đảm bà ấy được nhận vào một chỗ nơi bà ấy cảm thấy hạnh phúc. Thật ra tất cả được thu xếp rất mỹ mãn còn bà Lancaster thì rất an tâm ở đây.

– Tôi hiểu rồi.

– Mọi người ở đây rất thích bà Lancaster. Bà ấy hơi – bà biết những gì tôi muốn nói, bà ấy quên mọi việc, lẫn lộn đồ đạc và đôi khi không thể nhớ tên tuổi cùng đia chỉ.

– Bà ấy nhận được nhiều thư không? Tuppence nói. Tôi muốn nói thư và quà tặng từ nước ngoài?

– Tôi cho rằng bà Johnson – có một hai lần viết thư từ Châu phi nhưng không phải sau năm đầu tiên. Bà biết không, tôi sợ là, người ta quên. Đặc biệt khi người ta đến một xứ sở mới, một đời sống khác, tôi nghĩ họ không giao thiệp thân mật với bà ấy bất cứ lúc nào họ thích. Chính xác thì tôi cho rằng bà này chỉ là một người bà con xa, thuộc một danh gia vọng tộc, tất cả đối với họ có nghĩa thế mà thôi. Mọi xếp đặt thuộc phạm vi tài chính đều thông qua luật sư, ông Eccles, một hãng rất tốt, có danh tiếng. Thật sự trước đó chúng tôi có tiếp xúc một hai lần với ông ta vì thế chúng tôi hiểu rõ về họ, cũng như họ hiểu rõ về chúng tôi. Nhưng tôi nghĩ đa số bạn bè và bà con của bà Lancaster đều đã qua đời vì thế bà không có tin tức chi về họ cả, tôi cho rằng rất hiếm khi có ai đến thăm bà ấy. Khoảng chừng một năm sau có một người đàn ông rất đẹp trai đến, tôi nghĩ ông ta không hiểu rõ tính cách cá nhân của bà rõ lắm nhưng ông là bạn của ông Johnson và cũng nằm trong sở Thuộc địa hải ngoại. Tôi nghĩ ông ta chỉ đến đế bảo đảm bà ta mạnh khoẻ và hạnh phúc thôi.

– Và sau cùng, mọi người quên bà ấy.

– Tôi e là thế. Thật buồn có phải không nào? Nhưng chuyện xảy ra đó lại bình thường hơn là bất bình thường nhé. May thay, những người khách đến thăm chúng tôi đa số kết bạn ở đây. Nói chung họ thân với ai có cùng kí ức hay sở thích, do đó mọi việc được giải quyết vui vẻ cả. Tôi nghĩ hầu hết không ai còn nhớ tới thời quá khứ nữa.

– Vài người, tôi giả thiết là hơi – Tommy ngập ngừng tìm chữ – hơi – anh đưa tay lên trán rồi bỏ xuống. Tôi không biết nói thế nào.

– Tôi hiểu những gì anh muốn nói rồi, cô Packard đáp thay. Chúng tôi không nhận những người bị bệnh tâm thần, ông hiểu mà, nhưng chúng tôi vẫn nhận những người mà ông gọi là những trường hợp tạm chấp nhận. Tôi muốn nói, những người hơi lão suy – không thể tự chăm sóc mình cho đàng hoàng được, họ có những tưởng tượng và ảo giác nhất định. Đôi khi họ tưởng tượng họ là nhân vật lịch sử. Trong một chừng mức nào đó khá vô hại. Ỡ đây chúng tôi có hai Marie Antoinettes, một trong hai người luôn nói về một cái gì gọi là Petit Trianon và uống nhiều sữa mà bà ta hình như thích hợp với chỗ này. Chúng tôi có một sinh linh già đáng yêu tự cho mình là bà Curie rằng bà đã khám phá ra chất radium. Đọc báo thường xuyên, đối với bà là một thú vị lớn, đặc biệt với bất cứ tin tức về thả bom nguyên tử, hoặc những khám phá khoa học. Bà luôn giải thích bà và chồng bà đã khởi sự những thí nghiệm trên những lãnh vực này. Những ảo giác vô hại là những thứ làm được việc giữ cho bạn hạnh phúc khi bạn già. Ông cũng biết, không phải lúc nào chúng cũng kéo dài. Mỗi ngày ông không là Marie Antoinette hay bà Curie. Thường thường nó kéo dài khoảng nửa tháng một lần. Tôi đoán chừng họ trở nên mệt mỏi vì phải đóng mãi một vai diễn. Dĩ nhiên chính sự bị lãng quên thường xuyên gây cho ngừơi ta nỗi đau khổ. Họ không thể nhớ mình là ai nữa. Họ vẫn nói rằng họ quên một cái gì đó rất quan trọng và giá như họ có thể nhớ ra được. Đại loại như thế.

– Tôi hiểu, Tuppence nói, cô lưỡng lự, rồi tiếp, bà Lancaster – có phải bà ấy luôn luôn nhớ lại những chuyện về cái lò sưởi đặc biệt trong phòng khách không?, hay bất cứ một lò sưởi nào đó?

Cô Packard giật mình – một lò sưởi ư? Tôi không hiểu những gì cô nói.

– Đó là một điều bà ta nói mà tôi không hiểu. Có lẽ bà có một vài mối liên hệ không vui nào đó với một lò sưởi, hay đọc vài câu chuyện làm cho bà ta sợ hãi.

– Có thể.

– Tôi vẫn còn khá lo âu về một bức tranh bà ấy tặng cho dì Ada.

– Tôi thật ra nghĩ bà không cần phải lo, bà Beresford. Tôi cho là bây giờ bà ấy đã quên hết rồi. Tôi cho rằng bà ấy không đánh giá bức tranh đặc biệt lắm đâu. Bà ấy chỉ vui vì cô Fanshawe hâm mộ nó quá và vui lòng cho cô giữ nó thôi, tôi chắc bà ấy cũng vui lòng tặng lại cho bà bởi vì bà thích nó. Đó là một bức tranh đẹp, chính tôi cũng nghĩ thế. Tôi không hiểu biết mấy về tranh.

– Tôi bảo bà những gì tôi sẽ làm nhé. Tôi sẽ viết thư cho bà Johnson nếu cô cho tôi địa chỉ, và chỉ hỏi xem việc giữ lại bức tranh có ổn không thôi.

– Tôi chỉ có địa chỉ là khách sạn tại London nơi họ đến – tôi nghĩ là, khách sạn Cleveland, đường George, khu vực 1 hướng tây. Bà ấy đã thuê cho bà Lancaster ở đó chừng bốn năm ngày và sau này tôi nghĩ họ sẽ lưu lại với vài người bà con tại Scotland. Tôi hi vọng khách sạn Cleveland sẽ có một địa chỉ để chuyển thư.

– Cám ơn cô – còn bây giờ, về cái khăn lông thú của dì Ada.

– Tôi sẽ gọi cô O’ Keefe cho bà.

Cô ta ra khỏi phòng.

– Em và bà Blenkinsop của em. Tommy nói.

Tuppence có vẻ toại nguyện.

– Một trong những sáng tạo mới nhất, em vui mừng có thể sử dụng cô ta. Em chỉ cố thử nghĩ một cái tên và bây giờ bà Blenkinsop xuất hiện trong trí. Có gì đáng buồn cười?

– Cách đây đã lâu. Trong thời chiến không có nhiều gián điệp và hoạt động chống lại gián điệp dành cho chúng ta.

– Rủi thay. Không thể tin được – ở trong nhà khách đó – sáng tạo ra một nhân vật mới cho mình – em thật sự bắt đầu tin mình là bà Blenkinsop.

– Rất may mắn em đã lẩn tránh một cách an toàn. Một lần anh có nói với em, theo ý anh, em làm việc quá sức rồi.

– Em không có. Em hoàn toàn bình thường. Một phụ nữ đẹp, hơi gàn, với ba đứa con là một điều quá sức chịu đựng.

– Đó là những gì anh muốn nói. Một đứa con khá đủ. Ba đứa con là một gánh nặng vượt quá sức chịu đựng của em.

– Chúng trở nên quá hiện thực đối với em. Douglas, Andrew, và – ơn Chúa, em quên tên của đứa thứ ba rồi. Em biết chính xác chúng trông giống như thế nào những tính cách của chúng và đúng chỗ chúng đóng quân, về những lá thư em nhận được từ chúng em nói những chuyện hớ hênh nhất.

– Thôi, chuyện ấy qua rồi. Tommy nói. Không có gì để tìm hiểu nơi này nữa – quên bà Blenkinsop đi. Khi tôi chết và được chôn cất em hãy than khóc tôi một cách hợp lệ rồi tìm nơi cư trú cho mình trong một căn nhà dành cho người có tuổi, tôi hi vọng em sẽ dành phần nửa thời gian nghĩ mình là bà Blenkinsop.

– Chỉ có một người đóng vai người thật việc thật thì rất chán.

– Tại sao em cho rằng người già muốn trở thành Mary Antoinette, madam Curie và tất cả những thứ còn lại?

– Em cho là bởi vì họ buồn chán. Người ta chán ngấy. Em chắc anh sẽ như thế nếu anh không thể dùng đôi chân để đi bộ, có lẽ những ngón tay anh cứng ngắt và anh không thể đan. Tuyệt vọng anh muốn tìm một việc gì đó để làm cho mình vui do đó anh thử khoác lên người một số tính chất công cọng và khi anh làm vậy anh hiểu mình trông như thế nào.

– Bảo đảm là em có thể làm thế. Chúa giúp đỡ cho ngôi nhà dành cho người cao tuổi mà em đến. Hầu hết thời gian em sẽ là Cleopatre, anh hi vọng thế.

– Em đâu phải là ngừơi nổi tiếng. Em sẽ là một kẻ nào đó như một người tớ gái giúp việc trong nhà bếp tại lâu đài của Cleves thuật lại tường tận vô số chuyện tầm phào tục tĩu mà em nghe được.

Cánh cửa bật mở, cô Packard xuất hiện cùng một người phụ nữ trong bộ đồng phục y tá, cao, mặt tàn nhang với mớ tóc đỏ dày.

– Đây là cô O’Keefe – ông và bà Beresford. Họ có chuyện nói với cô. Tha lỗi cho tôi. Một bịnh nhân đang cần tôi.

Tuppence đúng nguyên tắc bày chiếc khăn lông chồn ra và cô O’Keefe ngây ngất liền.

– Ồ! Đẹp quá. Quá tốt cho tôi. Bà đang cần nó mà –

– Không, tôi không cần. Nó quá lớn đối với tôi. Tôi nhỏ con. Nó chỉ hợp với ngừơi cao như cô. Dì Ada cao.

– Dì ấy là một quý bà cao cả – thời con gái chắc bà ấy đẹp lắm.

– Tôi tin vậy. Tommy nói vẻ nghi ngờ. Chắc bà ấy là một người tánh tình thô bạo để chăm sóc hả.

– Đúng. Bà ấy là người nóng tính. Nhưng tinh thần bà ấy thì vĩ đại. Không gì quật ngã bà ấy được. Bà cũng không ngốc. Ông sẽ ngạc nhiên về cách bà ấy bắt đầu hiểu mọi việc. Sắc như một cây kim.

– Dù thế, bà ấy hay cáu giận.

– Vâng, thật vậy. Nhưng đó là loại tiếng rên rỉ làm cho ông suy sụp – tất cả những lời phàn nàn than vãn. Cô Fanshawe không bao giờ buồn chán cả. Những câu chuyện lớn bà ấy kể cho ông nghe về ngày xưa – cưỡi một con ngựa phi lên cầu thang một ngôi nhà miền quê khi còn là con gái – hay bà nói thế – bây giờ nó sẽ là sự thật chăng?

– Tôi sẽ xem bà có dám làm điều đó không. Tommy đáp.

– Ông không bao giờ hiểu những gì ông có thể tin ở đây đâu. Những câu chuyện mà những người bạn thân yêu đến và kể cho ông nghe. Những tội ác mà họ nhận ra – chúng tôi phải báo cho cảnh sát biết ngay – nếu không, tất cả chúng tôi đều bị nguy hiểm.

– Lần trước, khi chúng tôi đến đây có một người nào đó bị đầu độc. Tôi nhớ lại. Tuppence nói.

– A, đó là bà Lockett. Nó xảy ra với bà ấy hàng ngày. Nhưng bà không cần cảnh sát, mà một bác sĩ được mời đến. Bà ta phát điên về những ông bác sĩ.

– Và một ai đó – một phụ nữ bé nhỏ lớn tiếng đòi co ca.

– Đó chắc là bà Moody. Linh hồn bé nhỏ, bà ấy đi rồi.

– Cô muốn nói rời khỏi đây, đi xa?

– Không, chứng nghẽn mạch máu vồ lấy bà ấy – rất bất ngờ. Bà là một trong những người rất tận tuỵ với cô Fanshawe – mà cô Fanshawe cũng không luôn luôn có thời gian dành cho bà – luôn luôn nói chuyện chơi, khi bà có thời giờ.

– Bà Lancaster cũng đi rồi, tôi nghe vậy.

– Phải, ngươi của bà đến tìm bà. Sinh linh khốn khổ, bà không muốn đi.

– Câu chuyện bà nói với tôi là gì – về cái lò sưởi trong phòng khách?

– À ! Bà ấy có nhiều chuyện kể lắm, đó là một chuyện – về những chuyện đã xảy ra đối với bà- và những bí mật bà ấy biết –

– Có chuyện gì đó về một đưá trẻ – một đứa trẻ bị bắt cóc hay bị giết –

– Thật kì lạ, những chuyện người ta nghĩ ra. TV thường không tạo cho họ những ý tưởng –

– Cô có thấy sự căng thẳng khi làm việc ở đây vơi những người già không?

– Ô không – tôi yêu những người già – đó là lí do vì sao tôi đảm trách môn lão khoa.

– Cô đã ở đây lâu rồi chứ?

– Một năm rưỡi – cô ta ngừng lại – nhưng tháng tới tôi sẽ đi.

– Tại sao?

Lần đầu tiên có một sự kềm chế không chối cãi được hình thành qua cử chỉ của nữ y tá O’Keefe.

– Bà biết rồi mà, bà Beresford, người ta cần sự thay đổi.

– Nhưng cô sẽ làm cùng một việc không?

– Vâng – cô ta nhặt chiếc khăn lông chồn lên. Một lần nữa tôi cám ơn bà nhiều – và tôi cũng vui mừng nữa, có một cái gì để nhớ đến cô Fanshawe – cô ấy là một bà già vĩ đại – ngày nay ông sẽ không tìm ra nhiều người như cô ấy đâu.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.