Bức Họa Chết Người

Chương 8



SUTTON CHANCELLOR

Sau khi rời khỏi ngôi nhà bên con kênh, Tuppence lái xe dọc son đường uốn khúc hẹp cô đoán chắc sẽ đưa mình đến làng thuộc Sutton Chancellor. Đó là một con đường cách biệt. Từ đó không nhìn thấy nhà – chỉ có những cánh cổng chắn từ đó những con đường mòn đầy bùn dẫn thẳng ra cánh đồng. Xe cộ rất ít – Có một xe máy kéo chạy dọc theo con đường, một chiếc xe tải chở hàng với bức tranh một ổ bánh khổng lồ trông thiếu tự nhiên kiêu hãnh loan báo nó mang theo niềm hoan lạc của người Mẹ. Tháp chuông nhà thờ cô nhìn thấy từ xa dường như hòan toàn biến mất – nhưng cuối cùng tái hiện hoàn toàn khá gần tầm tay sau khi con đường mòn thình lình uốn khúc và vòng rất gắt quanh một đai cây. Tuppence liếc nhìn đồng hồ đo tốc độ trên xe thấy mình đã chạy được hai dặm từ ngôi nhà bên con kênh.

Đó là một nhà thờ cổ quyến rũ tọa lạc trong một khu sân nhà thờ khá lớn với vài cây thông đỏ đứng kề bên.

Tuppence để xe ngoài cổng có mái che, để dành vài phút đứng ngắm nhà thờ và sân nhà thờ vây quanh. Đoạn cô bước tới cánh cửa lớn có vòm cung kiểu Normand nâng tay nắm nặng nề lên. Cửa không khóa cô bước vào trong.

Bên trong không đẹp. Chắc chắn nhà thờ là một nơi cũ kĩ nhưng được nhiệt tình sơn quét và chùi dọn sạch sẽ. Ngoài sân những ghế băng bằng gỗ thông có lưng dựa màu đỏ rực rỡ và những cửa sổ có kính màu xanh lục đã phai tàn phần nào vẻ đẹp cổ xưa nó đã một lần sở hữu. Một phụ nữ trung niên trong chiếc áo choàng và váy đầm bằng vải tuýt đang cắm hoa trong những cái bình đồng xung quanh bục giảng kinh. Làm xong việc bàn thờ cô nhìn Tuppence dò hỏi đề cao cảnh giác. Tuppence bước lên lối đi giữa hai dãy ghế nhìn những phiến đá làm bia kỉ niệm gắn trên những bức tường. Trong những năm xưa hình như một gia đình Warrender nào đó được giới thiệu đầy đủ nhất. Tất cả đều thuộc Tu Viện, Sutton Chancellor. Đại uý Warrender, Thiếu tá Warrender, Sarah Elizabeth Warrender, người vợ yêu của George Warrender. Một phiến đá mới ghi nhận cái chết của Julia Starke( người vợ yêu khác) của Philip Starke, cũng thuộc về tu viện, Sutton Chancellor – dường như gia đình Warrender chết sạch. Không ai trong gia đình họ được gợi ý hay chú ý đặc biệt cả. Tuppence lại ra bên ngoài nhà thờ lần nữa. Theo Tuppence, bên ngoài quyến rũ hơn bên trong.” Thời tiền Perp. Và Dec,” Tuppence người được nuôi dạy với những khái niệm kiến trúc Cơ đốc giáo quen thuộc nói cho mình nghe. Cô đặc biệt không ưa thời tiền Perp.

Đó là một ngôi nhà thờ kích thước cân xứng và cô nghĩ rằng có một lần chắc chắn ngôi làng của Sutton Chancellor là trung tâm quan trọng của cuộc sống thôn dã khá hơn bây giờ. Cô để xe lại đó đi bộ tới làng. Làng có một cửa hàng một bưu điện và độ chừng mười hai nóc nhà nhỏ hoặc nhà tranh. Một hai ngôi nhà lợp mái rơm còn những nhà khác thì đơn giản không đẹp. Có sáu trụ sở hội đồng địa phương cuối làng nhìn hơi thiếu tự nhiên. Một tấm bảng đồng treo trên cửa lớn thông báo:” Arthur Thomse, chùi ống khói.”

Tuppence tự hỏi có bất cứ đại diện nhà đất đáng kính nào kí hợp đồng sửa chữa ngôi nhà bên con kênh chắc chắn cần đến họ. Cô nghĩ mình đã điên biết bao không hỏi tên ngôi nhà.

Cô chậm rãi đi bộ trở lại phía nhà thờ, và xe, ngừng lại quan sát sân nhà thờ thật kĩ. Cô thich sân nhà thờ hơn. Trong sân có rất ít mộ mới chôn. Hầu hết các bia đá kỉ niệm đều là mộ chôn thời Victorian, và thời kì trước – nửa bị hư bởi địa y và thời gian. Những hòn đá xưa rất đẹp. Một số đá với những tiểu thiên sứ đứng trên đỉnh bị để đại lên, và những vòng hoa chung quanh chúng. Cô đi loanh quanh, xem nhừng lời ghi trên mộ chí. Lại gia đình Warrender. Mary Warrender, tuổi 47, Alice Warrender, tuổi 33, Đại tá John Warrender bị giết ở Afghanistan. Những đứa trẻ khác nhau của giòng họ Warrender – lòng thương tiếc sâu sắc – những vần thơ hùng biện đầy hi vọng tốt đẹp. Cô hỏi mình có ai mang họ Warrender còn sống nơi đây không. Rõ ràng họ đã thôi không còn được chôn ở đây nữa. Cô không thể tìm ra bất cứ bia mộ nào muộn hơn năm 1843. Vòng quanh cây thông đỏ cao cô chợt thấy một tu sĩ già đang cúi mình trên một dãy bia mộ cũ gần một bức tường sau nhà thờ. Ông đứng thẳng người lên khi Tuppence đến gần.

– Xin chào, ông vui vẻ nói.

– Xin chào. Tuppence đáp rồi thêm. Con đang ngắm nhà thờ.

– Bị sụp đổ bởi thời Victorian phục hưng. Tu sĩ nói.

Ông có một giọng nói vui vẻ và một nụ cười dễ mến. Ông khoảng chừng 70 nhưng Tuppence tin chắc ông chưa hoàn toàn đến tuổi đó, dầu vẻ như ông bị thấp khớp và đôi chân đứng không vững.

– Qúa nhiều tiền thời Victorian, ông buồn bã nói. Quá nhiều ông chủ đúc sắt. Họ là những tu sĩ, bất hạnh thay, chẳng có ý thức chi về nghệ thuật. Không có khiếu thẩm mỹ. Cô có thấy cái cửa sổ hướng đông kia không? Ông ta rùng mình.

– Vâng. Tuppence đáp. Đáng sợ thật.

– Tôi không thể đồng ý với cô nữa. Tôi là cha cố, ông nói thêm.

– Con cũng nghĩ thế. Tuppence lich sự đáp. Cha đã ở đây bao lâu?

– Mười năm. Đó là một giáo xứ. Những gì của họ đều tốt. Ở đây tôi rất hạnh phúc. Họ không ưa những bài thuyết giáo của tôi lắm. Ông buồn bã thêm. Tôi làm cái tốt nhất tôi có thể, nhưng tất nhiên cha không thể giả vờ hiện đại được. Ngồi xuống đây. Ông nói thêm vẻ hiếu khách, phẩy tay chỉ một phiến bia mộ bên cạnh.

Tuppence ngồi xuống đầy biết ơn còn cha cố ngồi trên một tấm đá bia gần đó.

– Cha không thể chịu đựng lâu được nữa. Ông nói giọng xin lỗi. Cha có thể làm gì cho con hay con chỉ đi ngang thôi?

– Thật ra con chỉ đi ngang. Tuppence đáp. Con nghĩ con chỉ nhìn nhà thờ. Đắm mình trong xe hơi lang thang quanh những con đường hẹp.

– Phải. Phải. Rất khó tìm ra một con đường lớn quanh đây. Nhiều bảng chỉ đường bị bể, còn Hội Đồng địa phương đáng lẽ sửa chữa thì họ không làm. Cha không biết rằng việc đó vô cùng hệ trọng. Nói chung người ta lái xe xuống những con đường mòn này không thường cố tìm đi nơi nào khác. Họ bị dính chặt vào những đường lộ chính. Đáng sợ. Ông lại thêm. Đặc biệt đường xa lộ cao tốc. Ít nhất, cha nghĩ vậy. Tiếng ồn, tốc độ và những tay lái thiếu thận trọng. Ô, không hề chú ý đến cha. Cha là một người già cục cằn. Con đừng bao giờ đoán cha đang làm chi ở đây. Ông nói tiếp.

– Con thấy cha đang khảo sát những bia mộ. Có thói phá hoại những công trình văn hoá nào không? Có tụi mười ba nào đập vỡ bia?

– Không. Ngày nay cách suy nghĩ riêng hướng về qúa nhiều hộp điện thoại bị phá hỏng và tất cả những vật khác mà những tên phá hoại các công trình văn hoá ấy làm. Những đứa trẻ khốn khổ. Chúng không biết chi về điều thiện, cha cho là thế. Đáng buồn, phải không? Rất buồn. Không. Nơi đây không có sự phá hoại ấy. Xét toàn thể trai tráng quanh đây tốt. À không, cha chỉ đang tìm ngôi mộ một đứa trẻ.

Tuppence chuyển mình trên tấm đá bia. Mộ một đứa trẻ ư?

– Phải. Một người nào đó viết cho cha. Thiếu tá Waters nào đó. Ông ta hỏi coi có khả năng một đứa trẻ được chôn ở đây không. Tất nhiên, cha nhìn lên bảng đăng kí, nhưng không có bảng ghi nào có tên ấy cả. Cũng vậy thôi, cha đi ra ngoài quay lại nhìn những bia mộ. Cha nghĩ, con biết đấy, người viết thư đã nắm một cái tên sai, hay có sự nhầm lẫn.

– Tên thánh là gì vậy? Tuppence hỏi.

– Ông ta không biết. Có lẽ Julia lấy tên mẹ.

– Đứa trẻ mấy tuổi rồi?

– Ông ta lại không chắc. Toàn thể sự việc hơi mơ hồ, cha nghĩ người đàn ông có ý nghĩ hoàn toàn sai lạc về ngôi làng. Cha chưa bao giờ nhớ một gia đình họ Water sống ở đây hay nghe đến tên họ.

– Còn gia đình Warrender? Tuppence hỏi, trí nhớ cô trở về những cái tên trong nhà thờ. Nhà thờ dường như đầy những bảng đá dành cho họ và tên của họ rất nhiều trên những mộ chí ngoài này.

– A, gia đình ấy bây giờ chết sạch rồi. Họ có một gia sản lớn, một Tu viện cũ thế kỉ 14. Nó bị cháy sạch. Cách đây một trăm năm, vì thế cha nghĩ bất cứ người Warrender nào ở lại đều đã rời đi – đi xa mà không trở về. Một người họ Victorian giàu có tên Starke xây một ngôi nhà mới trên công trường. Một ngôi nhà rất xấu nhưng tiện nghi, người ta nói như thế. Rất tiện nghi. Những phòng tắm, và tất cả. Cha cho rằng điều không giải thích được ấy Mới quan trọng.

– Một việc hình như rất kì dị, ai đó đã viết thư và hỏi cha về ngôi mộ một đứa trẻ. Một người nào đó – một bà con?

– Cha tưởng đến cha của đứa trẻ, một trong những bi kịch của chiến tranh. Một đám cưới bị tan vỡ khì người chồng phục vụ ở hải ngoại. Người vợ trốn đi với tình nhân khi người chồng đang phục vụ ở ngoại quốc. Có một đứa con, một đứa con chưa bao giờ ông nhìn thấy. Bây giờ hẳn đã lớn bộn, nếu cô bé còn sống. Chắc phải cách đây hai mươi năm hay hơn thế.

– Sau khi tìm kiếm cô ta không phải là một thời gian dài sao?

– Rõ ràng chỉ vừa mới đây thôi ông ta hay tin Có một đứa con. Mẫu tin đến với ông ta thuần tuý ngẫu nhiên. Toàn thể sự việc, câu chuyện lạ lùng thật.

– Cái gì làm ông ấy nghĩ đứa trẻ được chôn ở đây?

– Cha nghĩ ai đó tình cờ gặp vợ ông ta trong chiến tranh đã kể cho ông ta nghe rằng vợ ông nói cô ấy đang sống ở Sutton Chancellor. Con biết đấy, tình cờ thôi. Con gặp một ai đó, một người bạn hay một người quen con chưa hề gặp trong nhiều năm, đôi khi họ có thể cung cấp cho con tin tức mà dù thế nào con cũng không kiếm ra. Nhưng bây giờ chắc chắn cô ta không còn ở đây – không từ khi cha ở đây. Hoặc trong vùng phụ cận xa chừng nào mà cha biết được. Dĩ nhiên, Có thể người mẹ ra đi dưới cái tên khác. Tuy vậy, cha biết người cha đang thuê những cố vấn pháp luật và những đại diện điều tra, và những cái không nói ra được, rất có thể họ có khả năng thu được kết quả sau cùng. Điều ấy cần thời gian.

– Có Phải đó Là Đứa Trẻ Tội Nghiệp Của Cô không? Tuppence thì thào.

– Xin lỗi, con nói gì?

– Không có gì, Tuppence đáp. Ngày nọ một ai đó nói với con điều gì đó. ” Có Phải Đó Là Đứa trẻ Tội Nghiệp Của Cô Không?” Bất ngờ mà nghe đó là một việc gây giật mình. Nhưng con không thật sự biết bà già nói câu ấy có hiểu mình đang nói gì không.

– Cha hiểu. Cha hiểu. Cha cũng thường như vậy. Cha nói những điều mà cha không thật sự hiểu ý nghĩa điều mình nói. Thật là rối rắm.

– Con hi vọng cha biết mọi việc về những người Bây Giờ họ sống ở đây chứ?

– Chắc chắn không nhiều. Vâng. Tại sao? Có phải con muốn tìm hiểu về một người nào đó?

– Con tự hỏi có một bà Lancaster nào đó đang sống ở đây không?

– Lancaster? Không. Cha không nghĩ cha có nhớ lại cái tên ấy không.

– Và có một ngôi nhà – hôm nay con lái xe không mục đích – không chủ ý đặc biệt mình định đi đâu, chỉ lái theo những con đường mòn –

– Cha hiểu. Rất đẹp, những con đường mòn quanh đây. Và con có thể tìm thấy những mẫu vật hoàn toàn hiếm. Cha muốn nói, thực vật học ấy. Trong những bụi cây ở đây. Tại những bụi cây này không ai hái hoa đâu. Không bao giờ chúng ta có du khách quanh đây điều đó chưa giải thích được. Ừ, thỉnh thoảng cha cũng tìm ra một số mẫu vật rất quý hiếm. Vi dụ, Cranesbell đầy bụi –

– Có một ngôi nhà bên một con kênh, Tuppence nói, từ chối bị đưa theo dấu chuyện thực vật.’ gần một cây cầu có một mái vòm cung. Cách đây chừng hai dặm. Con tự hỏi tên nhà là gì.

– Để cha xem nào. Cầu một nhịp hình vòm cung bắt qua con kênh. A… có nhiều ngôi nhà như vậy lắm. Trại Merricol.

– Đó không phải là một nông trại.

– Cha hi vọng đó là nhà của Perry vậy – Amos và Alice Perry.

– Chính xác. Tuppence la lên. Một ông và bà Perry.

– Bà ta là người trông đập vào mắt, phải không nào? Đáng chú ý, cha luôn luôn nghĩ thế. Rất đáng chú ý. Khuôn mặt thời trung cổ, con có nghĩ vậy không? Bà sắp đóng vai mụ phù thủy trong vở kịch chúng tôi dàn dựng. Con biết đấy, trường trung học trẻ em mà. Có phải bà ấy trông giống một mụ phù thủy?

– Dạ đúng. Một mụ phù thủy thân thiện.

– Như lời con nói, tuyệt đối hợp li. Phải, một mụ phù thủy thân thiện.

– Nhưng ông ta –

– Phải, người bạn khốn khổ, cha cố nói. Tinh thần không hoàn toàn bình thường – nhưng không tổn hại đến ông ta.

– Họ rất dễ thương. Họ mời con vào vì một tách trà. Nhưng điều con muốn biết là Tên của ngôi nhà. Con quên hỏi họ. Họ chỉ sống trong một nửa căn nhà, phải thế không?

– Phải, phải. Trong những góc thường quen dùng như bếp cũ. Họ gọi nó là” Waterside,” cha nghĩ thế, mặc dù cha tin cái tên cũ là ‘Watermead’. Một cái tên khá vui, cha nghĩ vậy.

– Phía kia của ngôi nhà thuộc về ai?

– Toàn toàn thể ngôi nhà nguyên thủy thuộc về gia đình Bradley. Cách đây khá nhiều năm rồi. Phải, ít ra ba bốn chục năm, cha phải nghĩ thế. Rồi nó được bán, rồi bán lần nữa sau đó để trống trong nhiều năm. Khi cha tới đây nó chỉ được dùng như một nơi nghỉ cuối tuần. Một nghệ sĩ nào đấy – cô Margrave, cha tin thế. Cô ta không ở đây nhiều. Chỉ thỉnh thoảng xuống. Cha không bao giờ biết cô. Cô không bao giờ đi nhà thờ. Thỉnh thoảng cha thấy cô từ xa. Một cô xinh đẹp. Một con người rất đẹp.

– Bây Giờ ngôi nhà thật sự thuộc về ai? Tuppence khăng khăng.

– Cha không có ý kiến. Có thể hãy còn thuộc về cô ta. Phần nhà gia đình Perry ở chỉ là nhà thuê.

– Con nhận ra điều đó, còn phải hỏi. Ngay khi con vừa nhìn thấy, bởi vì con có một bức tranh về ngôi nhà.

– Thật sao? Đó chắc phải là tranh của Boscombe, hay tên ông ta là Boscobel – bây giờ cha không thể nhớ. Một cái tên như thế. Hắn là một người Cornish, nghệ sĩ rất nổi tiếng, cha tin thế. Bây giờ cha tưởng tượng hắn chết rồi. Phải, hắn thường xuống đây thường xuyên. Anh ta thường phác hoạ tất cả khu vực quanh đây. Tại đây anh ta cũng vẽ sơn dầu nữa. Một số tranh phong cảnh rất đẹp.

– Bức tranh đặc biệt này được tặng cho một bà dì già của con chết cách đây một tháng. Nó lại được bà Lancaster nào đó tặng. Đó là lí do tại sao con hỏi cha có biết tên của ngôi nhà?

Nhưng một lần nữa cha cố lắc đầu.

– Lancaster? Lancaster. Không. Hình như cha không nhớ cái tên. A! Nhưng có một người con phải hỏi. Cô Bligh thân mến của chúng ta. Cô Bligh ấy rất năng động. Cô biết tất cả về giáo xứ. Cô điều khiển mọi việc. Hội phụ nữ, Hướng đạo sinh, Người hướng dẫn – mọi việc. Con hỏi cô ấy đi. Cô ta rất năng động, thực sự rất năng động.

Cha cố thở dài. Hoạt động của cô Bligh hình như làm ông lo âu.’ Nellie Bligh, trong làng họ gọi cô như vậy. Đôi khi những cậu con trai hát theo cô. Nellie Bligh. Nellie Bligh. Đó không phải cái tên gốc của cô. Nó là cái tên như Gretrude hay Graldine gì đó.

Cô Bligh, người phụ nữ mặc chiếc áo choàng bằng vải tuýt Tuppence đã thấy trong nhà thờ, đang rảo bước nhanh đến gần họ, hãy còn cầm một can nhỏ đựng nước. Khi đến gần, cô chiếu tướng Tuppence với cái nhìn tò mò sâu sắc, gia tăng cước bộ và khởi sự cuộc nói chuyện trước khi đến gần họ.

– Tôi xong việc rồi, cô vui vẻ tuyên bố. Hôm nay hơi có vấn đề. Ô vâng, hơi có vấn đề. Tất nhiên, cha biết đấy, thưa cha, con thường làm việc nhà thờ buổi sáng. Nhưng hôm nay có cuộc họp khấn cấp tại những phòng giáo xứ và thật sự cha không tin được nó mất thời gian thế nào! Quá nhiều cuộc tranh luận. Thật ra con nghĩ đôi khi người ta phản đối lại chỉ vì niềm vui được làm như thế. Bà Partington đặc biệt nổi cáu. Muốn mọi việc được thảo luận đầy đủ, cha biết mà, và tự hỏi như là chúng tôi có kiếm đủ giá khác biệt từ những phim khác biệt không. Con muốn nói, toàn thể công việc dù sao là một giá thấp, thật sự một vài si-ling đây đó không thể tạo ra sự khác biệt được. Và Burkenheads luôn luôn đáng tin cậy nhất. Con thật sự không nghĩ, thưa cha, cha phải ngồi trên một tấm bia mộ như thế.

– Có lẽ, bất kính thật.

– Ô không, không, dĩ nhiên con không muốn nói chuyện đó Tới Bất Cứ Mức nào, thưa cha. Con muốn nói Hòn đá, sự ẩm ướt đã thấm qua và với chứng thấp khớp của cha – mắt cô lướt nhẹ về phía Tuppence dò hỏi.

– Hãy để cha giới thiệu con với cô Bligh. Cha cố nói. Đây là – đây là – cha lưỡng lự.

– Bà Beresfold, Tuppence đáp.

– A vâng, cô Bligh trả lời. Tôi thấy bà trong nhà thờ, không biết có nhầm không, vừa mới đây thôi, nhìn quanh khảo sát. Tôi muốn đến và nói chuyện với bà, gọi sự chú ý của bà đến một hai điểm đáng lưu tâm, nhưng tôi lại đang vội làm cho xong việc.

– Đúng ra tôi phải đến và giúp cô, Tuppence nói giọng nói ngọt ngào nhất. Nhưng điều đó không ích gì, bởi vì tôi thấy cô biết chính xác nơi nào những bông hoa phải đến.

– Rất dễ thương cho cô đã nói vậy, đó hoàn toàn là sự thật. Tôi làm việc cắm hoa nhà thờ trong – ồ tôi không biết bao nhiêu năm rồi. Chúng tôi để học sinh tự làm những bình hoa dại đặc biệt cho lễ hội, dĩ nhiên mặc dù chúng không có một chút ý kiến, tụi nhỏ khốn khổ. Thật sự tôi nghĩ đến một Ít lời hướng dẫn, nhưng bà Peake không bao giờ có bất cứ chỉ thị nào. Bà ấy quá kì dị. Bà ấy nói điều đó làm hỏng sáng kiến của chúng. Cô định ở lại đây à? Cô hỏi Tuppence.

– Tôi định đến chợ Basing. Tuppence đáp. Có lẽ cô có thể chỉ cho tôi một khách sạn đẹp yên tĩnh để ở lại?

– Tôi nghĩ cô sẽ hiểu chuyện ấy hơi không được vui. Đó chỉ là một phố chợ. Nó không cung cấp dịch vụ buôn bán xe hơi. Khách sạn Rồng xanh hai sao nhưng đôi khi tôi nghĩ những sao này Trong Bất Kì cách nào cũng không có ý nghĩa gì hết. Tôi nghĩ tốt hơn cô nên đến khách sạn Con Thỏ. Yên tĩnh hơn. Cô còn ở đây lâu không?

– Không, chỉ một hai ngày trong khi tôi đi tham quan miền phụ cận.

– Tôi e, không có chi nhiều để xem. Không có di tích thời cổ đại nào đáng chú ý hay cái gì như thế. Chúng tôi ở một miền thuần túy thôn dã và trồng trọt. Cha cố nói. Nhưng thanh bình, còn phải nói, rất thanh bình. Như cha nói với con, một số hoa rừng lại đáng chú ý.

– A vâng, Tuppence đáp, con đã nghe và con đang lo hái vài mẫu trong những khoảng nghỉ khi thực hiện một ít việc săn bắn dễ chịu.

– Thú vị lắm, cô Bligh nói. Cô có nghĩ chuyện ổn định cuộc sống trong vùng phụ cận này không?

– Nói chung chúng tôi chưa xác quyết rõ ràng ở một miền phụ cận nào. Tuppence nói. Chúng tôi không vội. Trong mười tám tháng nữa ông ấy vẫn chưa về hưu. Nhưng cũng luôn phải kiếm tìm quanh đây. Với tư cách cá nhân, cái điều tôi thích làm là ở lại trong một miền phụ cận bốn năm ngày, kiếm một danh sách những bất động sản nhỏ thích hợp với mình và lái xe đi xem. Từ London xuống một ngày để coi một ngôi nhà đặc biệt rất mệt, tôi hiểu vậy.

– Ô vâng, cô mang theo xe đến đây à?

– Phải, Tuppence nói. Tôi phải đi kiếm một đại diện nhà tại chợ Basing sáng mai. Tôi giả thiết, không có nơi nào ở lại trong làng, phải không?

– Tất nhiên, có nhà bà Copleigh, cô Bligh nói. Mùa hè bà ấy cho mọi người thuê. Khách mùa hè. Bà ấy chùi dọn đẹp đẽ. Tất cả các phòng. Dĩ nhiên, bà ta chỉ làm giường và bữa sáng và có lẽ một bữa an nhẹ buổi tối. Nhưng cha không nghĩ bà ấy cho nhiều người thuê vào tháng tám hay tháng sáu vào thời kì sớm nhất.

– Có lẽ con có thể đi và tìm hiểu vậy.

– Bà ấy là một phụ nữ có giá nhất đấy. Cha cố nói. Lưỡi bà thích đùa. Bà không bao giờ ngừng nói, không một phút nào.

– Nói nhiều chuyện tầm phào và tán gẫu luôn luôn xảy ra trong những ngôi làng nhỏ này. Cô Bligh nói. Tôi nghĩ sẽ là một ý kiến hay nếu tôi giúp được bà Beresfold. Con có thể dẫn bà ấy đến bà Copleigh và chỉ xem coi có cơ hội không.

– Cô rất tử tế.

– Vậy chúng ta đi, cô Bligh nói nhanh. Chào cha. Còn tìm kiếm sao? Một bài thử nghiệm đáng buồn và quá khó thành công được. Con thật sự nghĩ đó là một đòi hỏi vô lí Nhất.

Tuppence nói lời tạm biệt cha cố và bảo cô sẽ vui lòng giúp ông nếu có thể.

– Con có thể dễ dàng xử dụng một hai giờ khảo sát những bia mộ khác nhau. Tuổi con mắt còn tinh lắm. Có phải cha chỉ đang tìm cái tên Waters?

– Thật sự không. Cha cố đáp. Cha nghĩ, tuổi mới quan trọng. Một đứa trẻ độ chừng bảy tuổi. Một bé gái. Thiếu tá Waters nghĩ rằng có thể vợ ông đổi tên con gái và rất có thể người ta chỉ biết cái tên mới đổi ấy. Khi ông không biết tên con là gì, sự việc càng khó thêm.

– Tới một chừng mức con có thể hiểu, toàn thể sự việc không thể tin được. Cô Bligh nói. Chưa bao giờ cha phải nói rằng cha sẽ làm một việc như thế, thưa cha. Điều đó vô nhân đạo, gợi ý một việc như thế.

– Người bạn khốn khổ dường như rất bối rối. Lịch sử đều buồn, tới chừng nào cha có thể hiểu được. Nhưng cha không giữ con.

Khi được cô Bligh dẫn đi Tuppence nghĩ thầm việc bà Copleigh nổi tiếng nói nhiều không quan trọng, bà khó mà nói nhiều hơn cô Blligh. Một dòng thác thông tin nhanh và độc tài tuôn ra từ môi cô.

Túp lều của bà Copleigh chứng tỏ là một nơi ở thú vị có nhiều phòng xây lưng khỏi đường làng với phía trước một vườn hoa xinh xắn, một bậc cửa sơn trắng và một tay nắm bằng đồng đánh bóng. Hình như đối với Tuppence bà Copleigh giống như một nhân vật với vẻ đáng nể bước ra từ những trang truyện của Dicken. Bà ta rất nhỏ nhắn và rất tròn, vì vậy bà ta lăn về phía bạn trông giống như một trái banh cao su. Cặp mắt bà ta sáng lấp lánh, mái tóc vàng hoe cuốn thành những lọn xúc xích trên đỉnh đầu và một vẻ mạnh mẽ lạ thường. Sau khi trình diễn một chút nghi ngờ đế bắt đầu với – ‘tôi không thường trực. Cô biết mà. Không. Chồng tôi và tôi nói” khách mùa hè, đó là khác.” Ngày nay mọi người đều làm thế nếu họ có thể làm. Và phải làm, tôi tin chắc. Nhưng tháng này trong năm, chúng tôi không có nhiều khách. Không cho đến tháng sáu. Tuy nhiên, nếu chỉ ở vài ngày và quý bà không ngại điều kiện ở hơi thô , thì có lẽ –

’Tuppence nói cô không ngại đồ đạc thô sơ và bà Copleigh, đã quan sát cô kĩ lưỡng, không ngừng tiếng róc rách của dòng suối đối thoại, bảo có lẽ quý bà sẽ vui lòng lên xem phòng, và rồi đồ đạc sẽ được sắp xếp.

Ngay lúc đó cô Bligh tự xé rào với ít tiếc nuối bởi vì cô không có khả năng rút thêm nhiều thông tin cần thiết từ Tuppence mà cô cần. Như là bà đến từ đâu, chồng bà làm gì, bà mấy tuổi, bà có con chưa và những vấn đề đáng quan tâm khác. Nhưng rõ ràng cô có một cuộc họp cô sắp chủ tọa và thật kinh khủng đánh liều để cho một kẻ khác nắm lấy địa vị đáng thèm khát đó.

– Cô hoàn toàn ổn với bà Copleigh rồi, cô bảo đảm với Tuppence. Bà ấy sẽ săn sóc cô, tôi tin thế. Nào còn xe hơi của bà đâu?

– Ô, tôi sẽ tìm nó ngay. Tupppnce đáp. Bà Copleigh sẽ nói cho tôi biết chỗ đậu. Thật sự tôi có thể để xe bên ngoài và đây không phải là con đường hẹp, phải thế không?

– Chồng tôi có thể giúp cô việc đó tốt hơn. Ông ấy sẽ đậu xe trong cánh đồng cho cô. Chỉ vòng quanh con đường hẹp phía bên này thôi, và rồi sẽ hoàn toàn ổn. Có một cái kho để hàng ông có thể đưa xe vào đó.

Trên cơ sở đó mọi việc được xếp đặt tử tế và cô Bligh vội vàng đến chỗ hẹn. Vấn đề bữa ăn tối sau đó được đặt ra.

– Chúng tôi không có gì khi quý bà đến, bà Copleigh nói, nhưng nếu bà hài lòng với hai quả trứng một khoanh mỏng thịt nạc và có thể ít bánh mì với jambông ở nhà làm

– Tuppence đáp điều đó thật tuyệt. Phòng cô nhỏ nhưng vui mắt dễ chịu với giấy dán tường hoa hồng và một giường ngủ tiện nghi và một làn không khí chung thì sạch sẽ không vết nhơ.

– Vâng, đó là loại giấy dán tường đẹp, thưa cô. Bà Copleigh nói, người dường như đồng ý với tình trạng đơn chiếc của Tuppence. Chúng tôi chọn loại giấy đó để cho bất cứ cặp vợ chồng mới cưới nào đến đây vào tuần trăng mật. Lãng mạn, nếu bà hiểu điều tôi nói.

Tuppence đồng ý sự lãng mạn là điều rất đáng mơ ứơc trong cuộc sống.

– Ngày nay người ta không kiếm được nhiều để tiêu, những cặp mới lấy nhau ấy. Không phải là điều họ quen. Hầu hết những người cô biết đấy đang tiết kiệm tiền mua nhà hay làm giảm bớt những món phải trả. Hay họ bắt đầu mua sắm một số đồ đạc trong khi mua trả góp và điều này làm họ không còn tiền cho một tuần trăng mật sang trọng hay cái gì như thế. Khỏi phải nói, đa số người trẻ ấy đều thận trọng. Họ không cố thử hết tiền của họ.

Bà ta rổn rảng xuống lầu và bà ta còn nói nhanh lúc đi, Tuppence nằm xuống giường và ngủ một nửa giờ sau một ngày mệt mỏi. Tuy nhiên, hy vọng lớn lao cô nhằm vào bà Copleigh, cảm thấy một lần được nghỉ ngơi đầy đủ, cô sẽ có khả năng dẫn cuộc nói chuyện đến những đề mục có thể gặt hái được thành công. Tin chắc mình sẽ lắng nghe, tất cả mọi chuyện về ngôi nhà bên con kênh, ai đã sống ở đó, trong vùng phụ cận kẻ nào từng nổi tiếng là ma quỷ hay thiên thần, ở đó có vụ tai tiếng nào và những đề mục tương tự. Khi được giới thiệu với ông Copleigh cô càng được thuyết phục về điều này hơn bao giờ, một người đàn ông mở miệng vừa đủ. Cuộc đối thoại của ông gồm những tiếng hự đáng yêu, thường mang ý nghĩa một sự xác định. Đôi khi một sự bất đồng, trong một âm giọng câm hơn.

Tới một chừng mức Tuppence có thể hiểu được ông ta hài lòng để vợ nói. Ông ta hầu như tách rời sự chú ý của mình, phần lớn thời gian bận rộn cho ngày kế tiếp có vẻ là phiên chợ.

Cho đến tận lúc Tuppence không có gì tốt hơn để có thể đưa ra liên hệ. Nó có thể được phân biệt bởi một câu châm ngôn – ‘anh muốn thông tin, anh đã có’. Bà Copleigh là một vô tuyến điện hay là một cái ti vi. Bà chỉ cần bấm nút là những lời lẽ tuôn ra kèm theo những cử chỉ và nhiều biểu lộ bằng nét mặt. Không chỉ con người bà như trái banh hơi của đứa trẻ, khuôn mặt bà cũng làm bằng cục tẩy cao su. Những con người khác nhau đang được bà nói đến hầu như sống động trong tranh biếm họa trước mắt Tuppence.

Tuppence ăn thịt heo nguội và trứng và vài khoanh bánh mì dày phết bơ và ca ngợi món mứt quả mâm xôi ở nhà làm, món sở thích của cô, cô thành thật loan báo, và nhanh chóng hấp thu tốt nhất dòng suối thông tin để có thể ghi vào sổ tay sau này. Toàn cảnh quá khứ của miền này dường như giăng ra trước mặt cô.

Không có diễn tiến theo thứ tự nào xuất hiện điều đó làm cho sự việc khó khăn. Bà Copleigh nhảy từ mười lăm năm đến cách đây hai năm đến tháng qua, rồi trở lại một điểm nào đó từ số hai mươi. Tất cả điều này sẽ được phân loại nhiều. Tuppence tự hỏi cuối cùng mình có gặt hái được gì không.

Nút đầu tiên bà ấn không cho cô kết quả gì. Đó là sự nhắc nhở đến bà Lancaster.

– Tôi nghĩ bà ấy đến từ đâu đó, Tuppence nói, chấp nhận nhiều nét mơ hồ thể hiện qua giọng nói của mình. Bà ấy có một bức tranh – một bức tranh được vẽ rất đẹp do một hoạ sĩ tôi tin đã từng xuống đây.

– Bà nói ai thế?

– Bà Lancaster.

– Không, tôi không nhớ bất cứ bà Lancaster nào trong những vùng này. Lancaster. Lancaster. Một người quý tộc bị một tai nạn xe hơi, tôi nhớ. Không, đó là tôi đang nghĩ đến chiếc xe hơi. Đó là một chiếc Lancaster. Không phải bà Lancaster. Cũng sẽ không phải cô Bolton, phải không? Tôi nghĩ bây giờ cô ta khoảng bảy mươi tuổi. Có thể cô đã cưới ông Lancaster. Cô ấy đi xa và du lịch ra ngoại quốc rồi và tôi có nghe cô ta cưới người khác.

– Bức tranh bà ấy tặng dì tôi do ông Boscobel vẽ – tôi nghĩ đó là cái tên, Tuppennce nói. Món mứt thật tuyệt.

– Giống như hầu hết mọi người đều làm, tôi không cho táo vào. Mọi người nói như thế làm mứt đông hơn, nhưng khiến mùi hương không còn.

– Phải, tôi hoàn toàn đồng ý với bà. Nó mất hương vị.

– Hồi này cô nói ai? Nó bắt đầu bằng chứ B nhưng tôi chưa hoàn toàn nắm bắt được.

– Boscobel, tôi nghĩ thế.

– Ô, tôi nhớ ông Boscowan rất rõ. Nào hãy coi lại. Chắc phải là – ông ta xuống đây cách đây ít nhất cũng mười lăm năm. Ông ta đến liên tục trong nhiều năm . Ông yêu thích chỗ này. Thực tế có thuê một túp lều. Đó là một trong những túp lều của Nông phu Hart, cái nhà ông ta giữ lại cho người làm thuê. Nhưng họ xây một ngôi nhà mới. Nhà hội đồng ấy. Bốn nhà tranh đặc biệt dành cho người làm thuê.

– Ông B là nghệ sĩ bình thường, bà Copleigh nói. Ông thường mặc cái áo choàng không tin được. Loại vải nhung hay vải to sợi dày có sọc. Trong khủy tay áo có nhiều lỗ rách và ông mặc áo sơ mi màu xanh lục hay màu vàng. Ông ấy hả, rất thú vị.Tôi thích tranh ông ta. Một năm ông ấy có triển lãm. Thời gian khoảng gần lễ Giáng sinh. Không, dĩ nhiên không, phải là vào hè cơ. Mùa đông ông ấy không ở đây. Phải, rất đẹp. Nếu cô hiểu điều tôi nói, không có gì gợi hứng cả. Chỉ có một căn nhà với hai cái cây và hai con bò cái nhìn qua hàng rào. Nhưng tất cả đều dễ chịu yên tĩnh và những màu sắc đều đẹp. Không giống như một số bạn trẻ ngày hôm nay.

– Bà có nhiều nghệ sĩ xuống đây không?

– Thật sự thì không. Ô không, đừng nói đến chuyện đó. Một hai qúy bà đến đây vào mùa hè và thỉnh thoảng làm vài bức phác thảo, nhưng tôi không nghĩ nhiều về họ. Cách đây một năm tôi có một người bạn trẻ, tự xưng là một nghệ sĩ. Không đẽo gọt thích đáng. Tôi không thể nói tôi thích tranh anh ta nhiều. Dù sao tất cả những màu sắc đều cuốn xoáy mơ hồ. Cô không thể nhận thức được một chút gì. Hơn nữa anh ta bán nhiều tranh. Nhắc cô, là chúng không rẻ.

– Chắc phải năm pound. Lần đầu tiên ông Copleigh thình lình xen vào cuộc đối thoại khiến Tuppence nhảy nhổm.

– Cái chồng tôi nghĩ là, bà Copleigh lấy lại vị trí của mình như để lí giải giùm cho chồng. Ông ấy nghĩ không có tranh nào quá năm pound. Sơn dầu không đắt như vậy. Đó là những gì ông muốn nói, phải không, George?

– A. George trả lời.

– Ông Boscobwan sơn một căn nhà bên một cây cầu nhỏ có mái hình cung và con kênh – Waterside hay Watermead, nó được gọi thế nào? Hôm nay tôi đến hướng đó.

– Cô đi dọc theo con đường đó sao? Nó không phải là con lộ, phải không nào? Rất hẹp. Ngôi nhà đơn độc, tôi luôn nghĩ thế. Quá hiu quạnh. Ông có nghĩ thế không, George?

George tạo một âm thanh diễn tả sự bất đồng yếu ớt và có thể khinh bỉ sự nhát gan của phụ nữ.

– Đó là nơi Alice Perry sống mà.

Tuppence đành bỏ qua sự tìm kiếm tin tức ông Boscowan để tán thành với ý kiến về gia đình Perry. Cô nhận thấy rằng, điều này tốt hơn là đi theo bà Copleigh người luôn nhảy từ vấn đề này sang vấn đế khác.

– Họ là một đôi kì dị.

George làm một âm thanh đồng ý.

– Họ giữ bí mật cho nhau. Như cô nói, không hoà trộn lẫn nhau. Cô ta đi quanh trông giống như không có gì trên đời này, Alice Perry đấy.

– Điên. Ông Copleigh nhận xét.

– Tôi không biết tôi có nói thế không. Bà ấy thì trông có vẻ điên rồi. Tóc bay tung. Hầu hết thời gian bà ấy mặc áo choàng đàn ông mang ủng cao su lớn. Bà nói những chuyện kì quặc và nhiều khi không trả lời cô khi cô hỏi bà một câu. Nhưng tôi không bảo bà ấy điên. Kì quặc, chỉ thế thôi.

– Mọi người có thích bà ta không?

– Hầu như không ai biết bà, mặc dù họ đã ở đây nhiều năm. Có đủ loại chuyện kể về bà ta nhưng rồi thì, đó luôn là những câu chuyện kể.

– Loại chuyện nào?

Những câu hỏi trực tiếp không bao giờ khién bà Copleigh lưỡng lự, người chào đón họ như một kẻ vì quá háo hức không thể đáp lại.

– Người ta nói, gọi những hồn ma ban đêm. Ngồi quanh một bàn tròn. Và những câu chuyện về những ngọn đèn di chuyển xung quanh toà nhà buổi tối. Họ nói, cô ấy đọc nhiều sách trinh thám. Trong sách nhiều sự kiện được vẽ ra – những ngôi sao, những vòng tròn. Nếu cô hỏi tôi, thì đó là Amos Perry là một người không hoàn toàn ổn định.

– Ông ta chỉ chấc phác thôi. Ông Copleigh dễ dãi nói.

– Có thể về điều đó ông có lí. Nhưng một lần có một câu chuyện kể về ông ta. Thích làm vườn, nhưng không nhiều.

– Dầu vậy đó chỉ là nửa căn nhà thôi, phải không? Tuppence nói. Bà Perry mời tôi vào rất tử tể.

– Bà ấy làm thế à? Thật sao? Tôi không biết tôi có thích vô cái nhà ấy không nữa. Bà Copleigh nói.

– Phần nhà của họ thì ổn rồi. Ông Copleigh đáp.

– Còn phần kia có ổn không? Tuppence nói. Mặt tiền ngó ra con kênh ấy.

– Hừm, thường có nhiều câu chuyện về nó đấy. Tất nhiên, trong nhiều năm không ai ở đó. Người ta bảo có nhiều chuyện kì dị về nó. Nhiều câu chuyện được kể lại. Nhưng khi cô đến đó, không có câu chuyện nào trong kí ức người ở đây. Cách đây lâu lắm rồi, khỏi phải nói. Nó được xây dựng cách đây trên một trăm năm. Người ta kể đầu tiên có một công nương tuyệt đẹp đến giữ chỗ đó, một trong những người qúy tộc tại triều đình xây cho cô.

– Triều đại Victoria? Tuppence hỏi với sự chú ý.

– Tôi không nghĩ thuộc triều đại của bà. Bà Hoàng già là một người đặc biệt. Không, tôi nói là triều đại trước cơ. Một trong những người thuộc triều đình vua George. Vị qúy tộc này thường xuống đây thăm công nương còn những câu chuyện thì tiếp tục như là họ cãi nhau và ông ta một đêm đã cắt cổ cô.

– Kinh khủng quá! Họ treo cổ ông ta sao? Tuppence nói.

– Không. Ô không, không có chi. Chuyện kể là, ông ta phải tẩy cái xác và xây tường bít lại phía trong lò sưởi.

– Chôn cô ấy trong lò sưởi!

– Người ta kể theo một số cách, người ta bảo cô ấy là một nứ tu và cô đã chạy trốn khỏi tu viện đó là lí do tại sao cô ấy bị xây tường bít lại. Người ta thường làm thế ở các tu viện.

– Nhưng không phải những nữ tu sĩ xây tường bít cô ta lại.

– Không, không. Chính ông ta làm. Người tình của cô, cái kẻ đã tóm cổ cô. Ông ta xây gạch quanh lò sưởi, đóng đinh một tấm sắt lớn trên lò. Dù thế nào thì, không bao giờ trông thấy cô nữa, linh hồn khốn khổ, đi dạo quanh trong những bộ đồ dài đẹp nhất. Tất nhiên, một số người bảo rằng cô đi xa với ông ta. Ra đi sống tại thành phố hay trở về một nơi nào khác. Người ta thường nghe những tiếng động và trông thấy những ánh đèn trong nhà, khi đêm xuống nhiều người không dám đến gần.

– Nhưng chuyện gì xảy ra sau đó? Tuppence hỏi, cảm thấy đi lùi lại quá xa vào triều đại Nữ Hoàng Victoria hình như hơi quá sâu vào thời quá khứ so với những gì cô đang tìm kiếm.

– Tôi không biết nhiều chuyện ở đó. Một nông dân tên Blodgid tiếp nhận chỗ đó khi nó được đề cập đến chuyện bán, tôi tin thế. Ông ta cũng không ở lâu. Họ gọi đó là nông dân qúy tộc. Điều đó giải thích tại sao ông ta thích căn nhà, tôi cho là thế, nhưng đất nông trại không quen lắm với ông, và ông ta không biết giải quyết thế nào. Và thế lại bán lần nữa. Ngôi nhà bị đổi chủ quá nhiều lần – những người xây dựng luôn đến theo và sứa sang lại – những phòng tắm mới – điều mơ hồ không giải thích được – có một lần, một cặp vợ chồng đã biến thành trại nuôi gà. Nhưng cô biết không, nó có một cái tên, vì sự không may. Nhưng trước thời đại của tôi tất cả không đáng kể. Tôi tin ông Boscowan có một lần đã có ý định mua căn nhà đó. Đó là lúc ông ta vẽ ngôi nhà.

– Khi xuống đây ông Boscowan bao nhiêu tuổi?

– Bốn mươi, hay có thể lớn hơn một chút. Trong một chừng mức nào đấy đẹp trai. Tới mức hơi béo. Ông ta là một người vĩ đại đối với các cô gái.

– A, ông Copleigh nói. Lần này là một tiếng lầm bầm báo hiệu.

– Tất cả chúng tôi đều biết các nghệ sĩ giống nhau thế nào. Bà Copleigh nói, bao gồm Tuppence trong sự hiểu biết này. Qua Pháp nhiều lần, học cách của người Pháp, họ là thế đấy.

– Ông ta không cưới vợ ư?

– Khi đó ông ta chưa. Khi ông ta xuống đây cơ ông ta vẫn chưa có vợ. Ông ta say mê con gái bà Charrington, nhưng không có gì cả. Mặc dầu cô ta là một cô gái tuyệt đẹp, nhưng quá trẻ đối với ông. Cô ấy chưa tới haimươi lăm tuổi.

– Bà Charrington là ai? Lời giới thiệu những nhân vật mới này làm Tuppence cảm thấy lúng túng.

– Mình làm cái qủy gì ở đây thế? Bất tình lình cô nghĩ khi những làn sóng mệt mỏi chụp lên mặt cô – ta chỉ đang lắng nghe nhiều chuyện tầm phào về mọi người, và tưởng tượng những sự việc như chuyện sát nhân không có gì thật cả. Bây Giờ ta Mới hiểu – chuyện khởi sự khi một con mèo gì xinh đẹp nhưng hết minh mẫn nhét một mớ hỗn độn trong đầu hồi tưởng lại những câu chuyện về ông Boscowan này, hay một kẻ nào khác giống ông ta tặng cho bà bức tranh, kể về ngôi nhà và những truyền thuyết xung quanh nó, về một người nào đó bị chôn sống trong một cái lò sưởi và vì một lí do nào đó bà nghĩ rằng đó là một đứa trẻ. Và đến đây ta bắt đầu điều tra quanh một khám phá kì thú nhưng vô giá trị. Tommy bảo mình là một đứa ngu, và anh ta hoàn toàn có lí – ta Là một kẻ ngu.

Tuppence chờ đợi bà Copleigh cắt ngang dòng thác đối thoại, để cô có thể đứng dậy, nói lời chúc ngủ ngon lịch sự và lên lầu ngủ.

Bà Copleigh vẫn còn say sưa hạnh phúc.

– Bà Charrington? Bà sống một ít tại Watermead, bà và con gái bà. Bà Charrington là một phụ nữ qúy tộc xinh đẹp. Quả phụ một sĩ quan quân đội. Tôi tưởng thế. Túng tiền, mà căn nhà thì đang cho thuê giá rẻ. Làm vườn nhiều. Bà rất thích việc làm vườn. Không thạo việc giữ nhà cửa cho sạch sẽ, bà ấy không làm được. Một hai lần tôi đến làm ơn cho bà, nhưng không thể duy trì mãi được. Tôi phải đi xe đạp, mà đường trên hai dặm. Dọc con đường đó không có xe búyt.

– Nhưng bà ở đó có lâu không?

– Không hơn hai ba năm, tôi nghĩ thế. Tôi cho rằng, bị khiếp sợ sau khi những rắc rối xảy đến. Bà cũng có những mối lo riêng về cô con gái nữa, Lillian, tôi nghĩ đó là tên cô.

Tuppence uống một hơi tách trà đậm nhờ nó bữa ăn được tăng cường, tìm cách chấm dứt chuyện bà Charrington trước khi đi tìm sự nghỉ ngơi.

– Bà ấy có mối lo gì về con gái? Ông Boscowan chăng?

– Không, không phải ông Boscowan là người gây ra nỗi lo phiền. Tôi không bao giờ tin điều đó. Đó là một người khác.

– Người kháclà ai? Tuppence hỏi. Một người khác họ sống ở đây à?

– Tôi không nghĩ ông ta sống trong những miền này. Một người cô ta gặp ở London. Không biết có phải cô ta đến đó để học vũ ba lê không? Hay nghệ thuật? Ông Boscowan sắp xếp cho cô học một trường nào đó ở đó. Tôi nghĩ tên là Slate.

– Slate? Tuppence gợi ý.

– Có thể. Loại tên đó mà. Dù sao, cô ấy thường đến đó và đó là cách cô biết ông bạn, ông ấy là ai. Bà mẹ không thích chuyện ấy. Bà cấm cô gặp ông. Đúng như mong đợi điều ấy không ích lợi chút nào. Trong một chừng mức naò đó bà là một phụ nữ điên. Giống như nhiều vợ của các sĩ quan quân đội thời đó. Bà ấy cho rằng các cô gái sẽ làm những gì họ được bảo làm. Trễ hơn thời gian quy định, cô ấy vâng lời. Sống tại Ấn độ và những miền đất này, nhưng khi đó là vấn đề của một chàng trẻ tuổi đẹp trai và bạn rời mắt khỏi cô con gái, bạn sẽ thấy con gái không làm những gì mình bảo nó. Không phải cô ta. Ông ta thỉnh thoảng thường xuống đây và họ lại gặp nhau bên ngoài.

– Và rồi cô vướng vào chuyện rắc rối, phải không? Tuppence nói, dùng lời nói khéo nổi danh, hi vọng dưới hình thức đó sẽ không làm tổn thương ý thức đạo đức của bà Copleigh.

– Chắc phải là ông ta, tôi nghĩ vậy. Dẫu sao, điều ấy hiển nhiên. Tôi thấy chuyện đó kéo dài thế nào trước khi mẹ cô biết. Cô ta là con người đẹp. Cao tròn lẳng và đẹp gái. Nhưng tôi không nghĩ cô ấy là hạng người có thể chịu đựng mọi sự. Cô ấy suy sụp, cô biết không. Cô thường đi lang thang bên ngoài như một kẻ dại, lẩm bẩm một mình. Nếu cô hỏi ông ta xử tệ với cô ấy, thì đúng thế. Đí xa và bỏ mặc cô ấy khi ông ta khám phá ra những gì đang xảy ra. Tất nhiên, một người mẹ như một người mẹ sẽ đi tìm hắn ta nói chuyện với hắn và khiến cho hắn hiểu phận sự của hắn nằm ở đâu, nhưng bà Charrington không có đủ tinh thần làm điều đó. Dù sao, bà mẹ đã khôn ngoan, bà đem con gái đi xa. Khóa cửa nhà lại, sau đó bà dựng bảng bán nhà. Họ trở về đóng gói đồ đạc, tôi tin thế, nhưng họ không bao giờ về làng hay nói chuyện với ai. Có một số câu chuyện đồn đãi quanh đây. Tôi không bao giờ biết có phần nào sự thật không.

– Một số cư dân dựng lên chuyện gì đó. Ông Copleigh bất ngờ nói.

– Tốt, anh có lí đó, George. Có lẽ chúng còn là sự thật. Những chuyện như thế vẫn xảy ra. Và như anh nói, cô gái ấy đối với tôi có cái đầu không thật ổn định lắm.

– Chuyện gì nữa thế. Tuppence hỏi.

– Thật ư, tôi không thích nói ra đâu. Từ đó là cả một thời gian dài và tôi không thích nói cái gì minh không chắc. Đó là cô Louise của Bà Badcok kẻ gây bối rối. Cô gái ấy là kẻ nói dối cực kì. Những chuyện cô ta nói. Bất cứ cái gì dựng nên một câu chuyện hay.

– Mà chuyện gì cơ chứ?

– Nói rằng cô con bà Charrington đã giết đứa trẻ rồi sau đó tự sát. Bảo rằng mẹ cô gần như hoá điên với nỗi buồn và bà con cô ấy nhốt cô ấy trong một nhà bảo dưỡng.

Một lần nữa Tuppence cảm thấy sự bối rối vọt lên trong đầu. Cô cảm thấy hầu như mình đang lắc lư trong ghế tựa. Phải chăng bà Charrington là bà Lancaster? Đổi tên, hơi điên rồ rồi, ám ảnh bới vận mạng của con gái. Giọng nói của bà Copleigh tiếp tục không ngăn lại được.

– Tôi chưa bao giờ tin một lời nào. Cô gái Badcok nói cái gì đó. Chúng tôi chưa bao giờ lắng nghe lời đồn đãi và những câu chuyện như vậy – chúng tôi có những việc khác để lo. Chúng tôi hãy còn sợ chết khiếp, trên khắp vùng quê bởi vì những việc đã xảy ra – những sự việc có thật –

– Tại sao? Những gì đang xảy ra? Tuppence hỏi, kinh ngạc trước những sự kiện hình như sắp xảy ra, đặt trọng tâm quanh ngôi làng nom thanh bình của Sutton Chancellor.

– Tôi dám nói cô đã đọc tất cả về câu chuyện trong các báo vào thời đó. Xem nào, có thể gần hai mươi năm qua rồi. Chắc chắn cô có đọc về câu chuyện ấy. Tội giết trẻ em. Đầu tiên những em gái nhỏ cỡ chín tuổi. Một ngày sau buổi học không về nhà. Toàn thể vùng phụ cận đổ ra ngoài tìm kiếm. Cô bé được tìm thấy tại Dingley Copse. Cô bé bị treo cổ. Việc đó làm tôi rùng mình mỗi lần nghĩ đến. Đó là tội ác đầu tiên, rồi ba tuần sau lại một tội ác nữa. Phía bên kia chợ Basing. Nhưng trong vùng phụ cận, như cô có thể nói. Một người đàn ông với một chiếc xe có thể làm điều đó dễ dàng.

– Và rồi những tội ác khác. Đôi khi không tới một tháng hay hai. Tiếp lại một tội ác nữa. Từ đây không quá hai dặm. Dầu thế, hầu như ngay trong làng mình.

– Không có cảnh sát – không có người nào biết kẻ nào đã gây ra sao?

– Họ đã cố gắng khá vất vả rồi. Bà Copleigh đáp. Họ bắt giam giữ một người đàn ông ngay sau đó. Một người từ phía bên kia chợ Basing. Bảo ông ta đang giúp cảnh sát điều tra. Cô biết điều đó có nghĩ gì rồi. Họ nghĩ họ bắt được hắn ta. Đầu tiên họ lừa được một người rồi người khác nhưng luôn luôn sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ hay họ phải thả hắn ta ra. Khám phá ra anh ta không thể làm điều đó hay không có trong những miền này hay một ai đó cho anh ta một chứng cớ ngoại phạm.

– Bà không biết, Liz, ông Copleigh nói. Có thể họ đã biết rất rõ kẻ nào làm việc đó. Tôi dám cá họ Biết. Đó thường là cái hướng, hay tôi đã nghe thế. Cảnh sát biết người đó là ai nhưng họ không có bằng chứng.

– Đó là những người vợ, người mẹ hay thậm chí những người cha. Ngay cả cảnh sát cũng không coi là hệ trọng cái điều họ có thể nghĩ ra. Một người mẹ nói’ tối qua thằng con tôi ăn tối ở đây” hay cô vợ trẻ nói đêm hôm đó cô đi coi phim với ông ta, và suốt thời gian đó ông ở với cô, hay một người cha nói ông và con trai ông ở ngoài trời trong cánh đồng xa làm một việc gì đó – bạn không thể làm chi để chống lại điều đó cả. Họ có thể nghĩ ông bố hay người mẹ hay tình nhân của ông ta nói dối, nhưng trừ phi một kẻ nào đó đến và khai anh ta thấy gã trai hay người đàn ông hay bất kể thứ gì trong một chỗ nào đó, họ không thể làm gì được. Đó là một giai đoạn kinh khủng. Tất cả chúng tôi quanh đây đều bồn chồn ngồi đứng không yên.

– A, đúng vậy. Ông Copleigh nói.

– Khi cùng nhau tụ tập họ đi ra ngoài kiếm tìm. Thỉnh thoảng họ tìm thấy ngay cô bé và đôi khi họ tìm kiếm hàng tuần. Đôi khi cô ta ở khá gần nhà trong một chỗ cô sẽ nghĩ chúng tôi chắc đã xem xét rồi. Tôi cho rằng chắc phải có ma thuật. Thật khủng khiếp. Bà Copleigh nói giọng đạo đức, ‘thật kinh khủng, có những bọn đàn ông như thế. Chúng đáng bị xử bắn. Chúng phải bị treo cổ. Và nếu người ta để tôi làm, tôi sẽ treo cổ chúng. Bất cứ bọn đàn ông nào giết và tấn công trẻ em. Cách tốt nhất là đem nhốt chúng vào một nhà thương điên và đối xử chúng với sự dịu dàng cùng mọi tiện nghi gia đình. Rồi sớm hay muộn họ lại cho chúng ra ngoài, bảo rằng chúng đã được chữa trị và đưa chúng về nhà. Điều này xảy ra nơi nào đó tại Norfold. Chị tôi sống ở đó và chị kể cho tôi nghe chuyện này. Hắn trở về nhà và hai ngày sau hắn gây vụ khác. Những ông bác sĩ này, họ điên cả rồi, một vài người trong bọn họ, bảo hắn ta được chữa lành rồi trong khi chúng chưa lành.

– Và bà chưa có ý tưởng về ai đã xuống đây? Tuppence nói. Bà có nghĩ thật sự đó là một người ngoại quốc không?

– Với chúng tôi có lẽ là một người nước ngoài. Nhưng chắc chắn phải là một kẻ sống trong vùng – Ồ! Tôi nói tầm xe đi được hai dặm xung quanh. Trong ngôi làng này nó không thể ở đây được.

– Bà luôn nghĩ như vậy, Liz.

– Ông bồn chồn ngồi đứng không yên, bà Copleigh nói. Ông nghĩ chắc hắn ở đây trong miền phụ cận của ông bởi vì ông sợ hãi, tôi tưởng thế. Tôi thường xem xét mọi người. Ông cũng vậy, George. Ông sẽ tự bảo mình rằng tôi ngạc nhiên nếu có thể người bạn Kia ở đây, sau cùng hình như hắn khá kì dị. Không bình thường.

– Tôi không giả thiết hắn ta thật sự có vẻ kì quái gì hết. Tuppence nói. Có thể hắn trông giống hệt mọi người khác.

– Đúng vậy, có khả năng cô kiếm được một cái gì đó ở đây. Tôi đã nghe họ nói cái điều cô không biết đâu, và bất kể người nào hình như chưa bao giờ mắc chứng điên khùng gì cả, còn những người khác nói trong mắt bọn chúng luôn luôn có những cái nhìn trừng trừng giận dữ khủng khiếp.

– Jeffreys, ông là Trung uý cảnh sát ở đây, ông Copleigh nói, ông luôn thường nói rằng ông ta có một ý kiến hay nhưng không có gì để làm cả.

– Họ không bao giờ bắt gã sao?

– Không. Trên sáu tháng, gần một năm. Toàn thể sự việc ngưng lại. Từ đó không có gì xảy ra quanh đây nữa. Không, tôi nghĩ hắn chắc trốn đi rồi. Cùng đi xa với nhau. Đó là cái điều làm mọi người nghĩ có thể họ biết hắn là ai.

– Bà muốn nói vì dân chúng mà hắn Thật sự rời khỏi khu vực à?

– Tất nhiên cái ấy khiến người ta nói vậy, khỏi phải nói. Họ nói có thể là một người nào đó.

Tupence lưỡng lự định hỏi câu kế tiếp, nhưng cô cảm thấy với đam mê trò chuyện của bà Copleigh điều này không cần thiết.

– Bà nghĩ đó là ai? Cô hỏi.

– Cách đây khá lâu tôi khó mà muốn nói ra. Nhưng có những cái tên được nhắc đến. Cô biết không, nói đến và xem xét. Một số tên như có lẽ là ông Boscowan.

– Thật sao?

– Phải, là một nghệ sĩ, và tất cả nghệ sĩ đều kì quặc. Họ nói thế. Nhưng tôi không nghĩ đó là ông.

– Nhiều người nói là Amos Perry, ông Copleigh lại xen vào.

– Chồng bà Perry ư?

– Phải. Lão ấy hơi kì dị, đầu óc ngớ ngẩn. Ông ta là loại người có thể làm điều đó.

– Gia đình Perry sống ở đây à?

– Không. Không phải tại Watermead. Họ có một túp lều cách đây chừng bốn năm dặm. Cảnh sát trông chừng họ, tôi bảo đảm.

– Không thế kiếm được gì từ lão ấy đâu. Bà Copleigh nói. Vợ ông luôn luôn nói về ông. Buổi tối ở nhà với bà. Bà ấy nói thế, luôn luôn. Chỉ thỉnh thoảng đến quán rượu vào tối thứ bảy, vì vậy trong chuyện này không có gì. vả lại, Alice Perry là loại người bạn tin cậy khi bà ấy cho chứng cứ. Bà ấy không bao giờ giảm bớt cường độ hay chùn lại. Bạn không thể sợ hãi bà ấy là một người trong bọn chúng. Dù sao, Lão ấy không phải là tội phạm. Tôi không bao giờ nghĩ vậy. Tôi biết tôi không có gì để tiếp tục nhưng tôi có cảm tưởng rằng nếu tôi phải điểm mặt chỉ tên một người nào đó ra thì tôi phải đánh cá vào Sir Phillip.

– Sir Phillip? Đầu Tuppence một lần nữa choáng váng. Một nhân vật khác nữa chưa được giới thiệu. Sir Phillip. Phillip là ai? Cô hỏi.

– Phillip Starke – tận hưởng cuộc sống trong nhà Warrender. Thường được gọi là Cổ tu viện khi gia đình Warrender ở đó – trước khi nó cháy rụi. Cô có thể thấy những ngôi mộ nhà Warrender trong sân nhà thờ và những tấm bảng đề tên trong nhà thờ nữa. Thực tế gia đình Warrender luôn ở đây từ thời vua James.

– Sir Phillip Starke bà con với gia đình Warrender à?

– Không. Kiếm tiền bằng những phương tiện lớn, tôi tin vậy, hay cha ông ta làm vậy. Nhà máy thép hay cái gì như thế. Phillip là loại đàn ông kì dị. Công việc thì đâu đó về hướng bắc, còn ông ta ở đây. Ông ta không giao thiệp. Cái mà người ta gọi là một sự phục hồi lại – phục hồi lại – cáí gì.

– Người sống ẩn dật. Tuppence gợi ý.

– Đó là từ tôi đang tìm kiếm. Ông ta xanh xao, cô biết không, người gầy ốm đầy xương và rất thích hoa. Ông là nhà thực vật học. Thường sưu tầm các loại hoa dại nhỏ như trẻ con, loại hoa cô không nhìn đến hai lần. Ông ta thậm chí có viết một cuốn sách về chúng, tôi tin thế. Vâng, ông ta thông minh, rất thông minh. Vợ ông là một công nương dễ thương, và rất đẹp, nhưng trông buồn lắm. Tôi luôn luôn nghĩ thế.

Ông Copleigh thốt một tiếng hự. ‘Bà ngốc, ông nói. Lại nghĩ chuyện đó có thể là sir Philllip. Sir Phillip là người yêu trẻ con. Cho chúng trứng gà – tất cả dâu tây và bữa ăn gồm trà, bánh nướng, mứt trái cây, kem đặc. Ông không có con, cô hiểu chứ. Thường ông ta chận chúng lại trong một đường hẹp và cho chúng kẹo và một đồng sáu xu để mua kẹo. Nhưng tôi không hiểu. Tôi nghĩ ông ta lạm dung điều đó. Ông ta là một người đàn ông kì dị. Tôi nghĩ có một cái gì đó sai lầm khi vợ ông bất ngờ nhanh chóng bỏ ông mà đi.

– Vợ ông ta bỏ đi khi nào?

– Sau tất cả chuyện rắc rối này chừng sáu tháng. Kế đó ba đứa trẻ bị giết. Phu nhân Starke thình lình đi xa về mìền bắc nước Pháp không bao giờ trở về. Bà ấy không phải là hạng người làm việc đó, cô sẽ nói thế. Bà ấy là một công nương trầm tĩnh, đáng kính. Không có vẻ như là bà từ bỏ ông vì một người đàn ông khác. Không, bà không phải là hạng người làm được việc ấy. Thế Tại Sao bà nhanh chóng từ bỏ ông? Tôi luôn luôn nói bởi vì bà ấy biết một cái gì đó – khám phá ra một điều gì đó –

– Ông ta còn ở đây không?

– Không thường xuyên. Một năm ông ta xuống đây một hai lần nhưng ngôi nhà lúc nào cũng đóng cửa với một quản gia. Cô Bligh trong làng – cô ấy vẫn là thư kí của ông – cô trông coi mọi việc cho ông.

– Và vợ ông?

Bà ấy chết rồi, công nương tội nghiệp. Chết ngay sau khi đi ngoại quốc. Trong nhà thờ có một tấm bảng dựng cho cô. Nó sẽ là điều khủng khiếp cho cô. Có lẽ lần đầu cô không chắc, rồi có lẽ cô bắt đầu nghi ngờ chồng, rồi có lẽ cô đi tới chỗ hoàn toàn chắc chắn. Cô không thể chịu nổi điều đó và cô đi xa.

– Những chuyện bọn đàn bà tưởng tượng ra. Ông Copleigh nói.

– Tất cả điều tôi có thể nói là Có một Cái gì Đó không đúng về sir Phillip. Ông ta quá yêu trẻ, tôi nghĩ thế, và đó không phải là một thiên hướng bình thường.

– Tưởng tượng của bọn đàn bà. Ông Copleigh nói.

Bà Copleigh đứng dậy và bắt đầu mang đồ đạc khỏi bàn.

– Về giờ giấc, chồng bà nói, bà sẽ cho qúy bà này những ác mộng nếu bà cứ tiếp tục những câu chuyện cách đây nhiều năm.

– Nghe rất thích thú, Tuppence nói. Nhưng tôi buồn ngủ quá rồi, tôi nghĩ tốt hơn mình nên đi ngủ bây giờ.

– Tốt, chúng tôi thường đi ngủ sớm. Bà Copleigh nói. Và cô sẽ mệt sau ngày dài trải qua đấy.

– Tôi mệt. Tôi buồn ngủ kinh khủng. Tuppence ngáp dài. Chúc ngủ ngon và cám ơn bà rất nhiều.

– Cô có cần tôi gọi dậy với một tách trà buổi sáng không? 8 giờ đúng có quá sớm cho cô không?

– Không, tốt thôi. Tuppence đáp. Nhưng xin đừng lo nếu việc ấy gây phiền cho bà.

– Không phiền gì cả. Bà Copleigh nói.

Tuppence mệt nhọc lê mình đến giường. Cô mở va li, lấy ra vài thứ cần dùng, cởi bỏ áo quần, tắm rửa rồi thả rơi mình xuống giường. Những gì cô nói với bà Copleigh là sự thật. Cô mệt lử. Những sự kiện cô được nghe đi qua trí óc như những hình người di động trong cái kính vạn hoa và tất cả những tưởng tượng khủng khiếp. Những đứa trẻ chết – quá nhiều trẻ chết. Tuppence chỉ cần một đứa trẻ chết sau lò sưởi. Có lẽ cái lò sưởi phải liên can đến Waterside. Con búp bê của đứa bé. Một đứa trẻ bị giết bởi một cô gái trẻ giận điên lên bởi người yêu bỏ rơi đã lái khỏi cô bộ óc khá là yếu đuối của mình. Ô tôi thân mến, tôi đang dùng thứ ngôn ngữ thật là bi kịch kia. Tất cả là một đống hỗn độn – bảng liệt kê theo thứ tự thời gian đảo lộn – rồi sau đó người ta không thể chắc cái gì xảy tới.

Cô đi ngủ và nằm mơ. Có một công nương Shalott nào đó nhìn ra ngoài cửa sổ toà nhà. Có tiếng cào rạch đang đến từ ống khói. Từ sau tấm chắn bằng sắt bị đóng đinh vào lò sưởi vọng lại những cú đánh. Âm vang của một chiếc rìu kêu vang rền. Clang, clang, clang. Tuppence thức giấc. Bà Copleigh đang gõ trên cánh cửa. Bà nhanh nhẹn bước vào, đặt khay trà xuống cạnh giường Tuppence, kéo màn cửa, hi vọng Tuppence ngủ ngon. Không ai trông vui vẻ hơn bà Copleigh, Tuppence nghĩ, bà ta không có những cơn ác mộng!


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.