Cây Thập Tự Ven Đường

Chương 22



“Con sẽ mang đồ,” Maggie tuyên bố trong khi chiếc Pathfinder của Dance dừng bánh trước cửa nhà.

Cô bé gần đây đã bắt đầu suy nghĩ một cách độc lập. Cô bé cầm lấy túi lớn nhất trong bốn cái. Sau khi Dance qua nhà Martine đón hai đứa trẻ, họ đã ghé vào Safeway để thực hiện một chiến dịch mua sắm cấp tốc. Nếu tất cả những người cô mời đều có mặt thì bữa tối sẽ có hơn mười người tham dự, trong đó gồm cả những cô cậu thiếu niên với sức ăn đáng nể.

Nghiêng người sang bên dưới sức nặng của hai cái túi cầm trên cùng một tay – một hành động thể hiện đúng kiểu ông anh – Wes hỏi mẹ cậu, “Khi nào bà đến ạ?”

“Lát nữa, mẹ hy vọng là thế… Cũng có khả năng bà không đến được.”

“Không, bà đã nói sẽ đến.”

Dance mỉm cười bối rối. “Con đã nói chuyện với bà?”

“Vâng, bà gọi điện đến trại cho con.”

“Cả cho con nữa,” Maggie chen vào.

Vậy là mẹ cô đã gọi điện cho các cháu để trấn an chúng rằng bà vẫn ổn. Nhưng khuôn mặt Dance chợt đỏ bừng. Sao mẹ không gọi điện cho cô?

“À, thật tuyệt vì bà có thể đến được.”

Họ mang các túi đồ vào trong nhà.

Dance đi vào phòng ngủ của cô, có Patsy đi theo tháp tùng.

Cô liếc mắt về phía hộp đựng súng có khóa. Travis đang mở rộng diện đối tượng tấn công của cậu ta. Cậu thiếu niên còn biết cô là một trong những nhân viên cảnh sát truy lùng mình. Và cô cũng không quên cây thập tự – rất có thể là một lời đe dọa – ở sân sau nhà tối hôm trước. Dance quyết định giữ vũ khí bên mình. Cô luôn rất khó tính về chuyện để vũ khí trong nhà có trẻ con, nên để nó vào một chiếc hộp rồi khóa lại trong vài phút để đi tắm. Dance hối hả cởi đồ ra thật nhanh và bước vào dưới dòng nước nóng, cố gắng một cách vô vọng để gột rửa đi những dư vị còn lại của ngày hôm nay.

Dance mặc quần jean cùng một chiếc áo sơ mi quá cỡ, không cho vào trong quần để che lấp khẩu súng đeo áp sau lưng. Cảm giác đó không mấy thoải mái, song lại đem tới cảm giác yên tâm. Sau đó cô hối hả vào bếp.

Cô cho lũ chó ăn và dàn xếp ổn thỏa một cuộc xung đột nhỏ giữa hai đứa trẻ, lúc đó đang chành chọe nhau về việc thực hiện những việc vặt chuẩn bị cho bữa tối. Dance cố gắng kiên nhẫn vì cô biết các con mình đã bị chấn động đến mức nào vì biến cố xảy ra ở bệnh viện hôm qua. Việc của Maggie là bỏ các thứ mua về từ trong túi đựng ra, trong khi Wes thu dọn nhà cửa chuẩn bị đón khách. Dance tiếp tục phải kinh ngạc trước việc một ngôi nhà có thể trở nên chật chội đến mức nào, thậm chí dù chỉ có ba người sống tại đây.

Lúc này, như vẫn thường xuyên làm, Dance lại nhớ về quãng thời gian khi ngôi nhà vẫn còn bốn thành viên, rồi đưa mắt nhìn lên bức ảnh cưới của cô. Bill Swenson, với mái tóc sớm ngả xám, xương xương cùng nụ cười thoải mái, đang nhìn thẳng vào ống kính máy ảnh trong khi quàng một cánh tay ôm lấy cô.

Sau đó, cô vào phòng riêng, bật máy tính lên và gửi mail cho Overby về vụ tấn công Chilton và cuộc đối đầu với Brubaker.

Cô không có tâm trạng để nói chuyện với ông ta.

Tiếp theo, Dance mở mail của Jon Boling với tên những người từng đăng bài ủng hộ Chilton trong những tháng vừa qua.

Mười bảy cái tên.

Có thể còn tệ hơn thế nhiều, cô thầm đoán.

Nữ đặc vụ dành ra một giờ tiếp theo để tìm số điện thoại những người sống trong vòng bán kính một trăm dặm rồi gọi điện để cảnh báo rất có thể họ đang gặp nguy hiểm. Cô cố gắng làm dịu những lời chỉ trích, một số khá gay gắt, về chuyện CBI và cảnh sát không thể ngăn chặn được Travis Brigham.

Dance đăng nhập vào nội dung hôm đó của Bản tin Chilton.

Http://www.thechiltonreport.com/html/june27.html

Cô lướt qua tất cả các chủ đề, nhận thấy hầu như toàn bộ đều có bình luận mới. Những người cuối cùng đăng bài lên các chủ đề nói về mục sư Fisk và dự án khử mặn nước biển đều tỏ ra rất nghiêm túc trong phát ngôn của họ, với giọng điệu ngày một gay gắt vì giận dữ. Nhưng không bài nào trong số những bài này có thể so sánh được với vô vàn lời bình luận hằn học trong chủ đề Những Cây thập tự ven đường, phần lớn đều chĩa cơn bực bội không chút kiềm chế vào nhau, cũng như vào Travis.

Một số lời bình luận được viết với lời lẽ thật kỳ cục, một số dường như để thả mồi moi thông tin, số khác có vẻ là những lời hăm dọa thẳng thừng. Dance có cảm giác trong đó ẩn chứa những manh mối về nơi Travis đang ẩn náu, thậm chí cả những mảnh vụn thực tế có thể cho biết tiếp theo cậu ta sắp sửa tấn công ai. Liệu có phải Travis chính là một trong những người đăng bài, náu mình dưới một biệt danh giả hay với vai trò “người đăng ẩn danh”? Cô đọc cẩn thận những bài viết qua lại và đi đến kết luận, trong đó có thể chứa các manh mối, song câu trả lời đã lẩn tránh cô. Kathryn Dance, rất thoải mái trong việc phân tích lời nói, đã không thể đi tới kết luận vững chắc nào khi đọc những câu hò hét và thì thầm câm lặng đến chán chường.

Cuối cùng, cô đành đăng xuất.

Thêm một email tới từ Michael O’Neil. Người thanh tra đem đến cho cô tin đáng thất vọng rằng phiên tòa điều trần đề nghị miễn truy tố trong vụ J.Doe đã bị hoãn lại tới thứ Sáu. Công tố viên Ernie Seybold cảm thấy việc thẩm phán sẵn lòng chấp nhận đề nghị đẩy lùi phiên tòa do bên bị đưa ra là một dấu hiệu xấu. Cô nhăn mặt trước tin mới này, và lấy làm thất vọng vì O’Neil không hề gọi để báo tin cho cô qua điện thoại và cũng chẳng đả động gì tới việc liệu bản thân và bọn trẻ có tới được vào tối nay không.

Dance bắt đầu chuẩn bị cho bữa tối. Cô không khéo léo lắm trong việc bếp núc, và là người đầu tiên thừa nhận điều đó. Nhưng cô biết siêu thị nào có gian hàng thực phẩm nấu sẵn ngon nhất, do đó bữa ăn rồi sẽ đâu vào đấy.

Trong khi lắng nghe âm thanh khe khẽ của một trò chơi điện tử vang lên từ phòng Wes cùng tiếng đàn organ điện tử của Maggie, Dance chợt nhận ra cô đang nhìn chằm chằm xuống sân sau, nhớ lại hình ảnh khuôn mặt của mẹ cô chiều hôm qua, khi con gái bà bỏ rơi bà để tới chỗ cây thập tự ven đường thứ hai.

Mẹ con sẽ hiểu.

Không, mẹ sẽ không…

Cúi xuống những chiếc hộp đựng thịt ức, đậu xanh, sa lát Caesar[1], cá hồi và khoai tây nướng hai lần, Dance chợt nhớ lại một dịp chừng ba tuần trước, khi mẹ cô đứng trong chính căn bếp này thuật lại tình hình của Juan Millar tại khoa Điều trị tích cực. Edie thể hiện rõ sự đồng cảm với nỗi đau đớn của người bệnh trong lúc kể với con gái những lời anh ta đã thì thầm với bà.

[1. Một loại sa lát được làm từ rau diếp là dài, bánh mì nướng, trộn cùng pho mát parmesan, nước chanh, dầu ô liu, trứng, nước sốt cá lên men Worchester, tỏi và hạt tiêu đen, được đặt theo Caesar Cerdini, người được coi là đã tạo ra món này.]

Giết tôi đi…

Tiếng chuông cửa vang lên kéo cô ra khỏi ý nghĩ bất an đó.

Dance đoán ra người đến là ai – phần lớn bạn bè và người nhà chỉ leo lên cầu thang đằng sau và đi vào bếp mà không hề bấm chuông hay gõ cửa. Cô ra mở và thấy Jon Boling đang đứng trên ngưỡng cửa. Anh nở nụ cười thoải mái giờ đây đã trở nên quen thuộc trong lúc đang đánh vật với một túi đồ nhỏ và một cái cặp lớn đựng máy tính xách tay. Anh đã thay một chiếc quần jean đen và áo sơ mi kẻ sọc sẫm màu cổ cứng.

“Chào.”

Vị khách gật đầu rồi đi theo cô vào bếp.

Hai con chó nhảy lên. Boling quỳ xuống ôm lấy chúng trong khi chúng níu lấy anh từ hai bên.

“Được rồi, các anh bạn, ra ngoài!” Dance ra lệnh. Cô ném mấy chiếc bánh Milk Bone[2] ra ngoài cửa sau, lũ chó hối hả lao theo cầu thang xuống sân sau.

[2. Loại bánh quy dành cho chó có hình khúc xương.]

Boling đứng lên, lau những vết liếm khỏi mặt và bật cười. Anh thò tay vào túi đựng đồ. “Tôi quyết định mang đường tới làm quà.”

“Đường?”

“Hai phiên bản: Một được lên men,” anh lấy ra một chai vang trắng Caymus Conundrum.

“Tuyệt quá.”

“Và một đã được nướng,” một túi bánh giòn xuất hiện. “Tôi vẫn nhớ cô nhìn chúng thế nào ở phòng làm việc khi bà trợ lý của cô cố gắng làm tôi phát phì.”

“Anh phát hiện ra ư?” Dance bật cười. “Anh có thể trở thành một chuyên gia đánh giá ngôn ngữ cơ thể tốt đấy. Chúng tôi cần cẩn thận hơn.”

Đôi mắt vị khách đang rất phấn khích, cô thấy rõ điều đó. “Có một thứ cho cô xem đây. Chúng ta có thể ngồi xuống chỗ nào đó được không?”

Cô dẫn anh vào phòng khách, tại đây Boling lấy ra một chiếc máy tính xách tay nữa, rất to, một dòng máy cô không nhận ra. “Irv đã làm được việc này,” anh nói.

“Irv?”

“Irving Wepler, người trợ thủ tôi đã kể với cô. Một trong những nghiên cứu sinh của tôi.”

Vậy là không phải Bambi hay Tiff.

“Tất cả mọi thứ trong máy tính của Travis hiện đang ở đây.”

Boling bắt đầu gõ bàn phím. Trong tích tắc, màn hình vụt sáng lên. Dance không hề biết máy tính có thể đáp ứng nhanh đến vậy.

Từ phòng bên, Maggie gõ một nốt nhạc chói tai trên phím đàn.

“Xin lỗi,” Dance nhăn mặt.

“Đô thăng,” Boling nói, không rời mắt khỏi màn hình.

Dance lấy làm ngạc nhiên. “Anh chơi nhạc sao?”

“Không, không. Nhưng tôi có thể nhận ra chính xác các nốt. Chỉ là do may mắn. Và tôi chẳng biết làm gì với nó nữa. Tôi chẳng có chút năng khiếu nào với âm nhạc cả. Không giống cô.”

“Tôi ư?” cô chưa hề kể cho anh biết sở thích của mình.

Boling nhún vai. “Tôi nghĩ tìm hiểu về cô một chút cũng không phải là ý tưởng tồi. Tôi không trông đợi việc cô được Google nhắc đến với tư cách người sưu tầm ca khúc nhiều hơn là cớm… Ồ, tôi có thể gọi là cớm được không?”

“Cho đến giờ, về mặt chính trị, đó vẫn không phải là từ không đúng đắn,” Dance tiếp tục giải thích cô là một ca sĩ hát nhạc dân gian thất bại thảm hại song lại được âm nhạc bù đắp trong dự án thực hiện cùng Martine Christensen – một trang web có tên Những giai điệu nước Mỹ cái tên gợi nhớ tới bài hát của Paul Simon dành cho đất nước này từ những năm 1970. Trang web đó là phao cứu sinh cho cuộc sống của Dance, thường xuyên hiện diện ở những nơi chốn thật tối tăm u ám vì công việc của cô. Không gì sánh bằng âm nhạc để giúp cô an tâm gạt ra khỏi đầu óc những tên tội phạm đã truy đuổi.

Dance nói với Boling rằng mặc dù thuật ngữ phổ biến là “người sưu tầm ca khúc”, mô tả tính chất của công việc là “nghiên cứu âm nhạc dân gian”. Alan Lomax là người nổi tiếng nhất từng ngang dọc khắp vùng nội địa nước Mỹ, thu thập các bản nhạc truyền thống cho Thư viện Quốc hội vào khoảng giữa thế kỷ hai mươi. Cả Dance cũng đi quanh vùng những khi cô rảnh rỗi để sưu tập nhạc, cho dù không phải là các loại nhạc miền núi, blues và bluegrass[3] của Lomax. Ngày nay, những bài hát được sáng tác tại nhà ở Mỹ là nhạc gốc Phi, Afro-pop, Cajun, Latino, Carribbean, Nova Scotia, Đông Ấn và châu Á.

[3. Các thể loại nhạc dân gian của Mỹ.]

Trang Những giai điệu nước Mỹ giúp những nhạc sĩ đăng ký bản quyền cho sáng tác nguyên bản của họ, cho phép bán các bản nhạc qua việc tải về và chia cho họ lợi tức trong khoản tiền những người nghe trả.

Boling có vẻ quan tâm. Dường như anh cũng làm những cuộc hành trình vào chốn hoang vu một hai lần mỗi tháng. Đã từng có thời anh là một vận động viên leo núi đá hăng hái, vị khách giải thích, nhưng sau đó đã từ bỏ môn này.

“Trọng lực,” anh nói, “là thứ không cho phép thương lượng.”

Sau đó anh hất đầu về phía căn phòng ngủ nơi phát ra tiếng nhạc. “Là con trai hay con gái vậy?”

“Con gái. Thứ dây duy nhất con trai tôi quen thuộc nằm trên một cây vợt tennis.”

“Cô bé khá đấy.”

“Cảm ơn anh,” Dance nói với niềm tự hào. Cô đã nỗ lực rất nhiều để cổ vũ Maggie. Cùng tập đàn với con gái mình – một việc khá tốn thời gian, lái xe đưa đón cô bé tới lớp học piano và các buổi tập.

Boling gõ bàn phím, một trang đầy màu sắc hiện ra trên màn hình máy tính. Nhưng rồi sau đó ngôn ngữ cơ thể của anh đột ngột thay đổi. Cô nhận ra anh đang nhìn qua vai cô, ra phía cửa.

Đáng ra Dance phải đoán được. Cô đã nghe thấy tiếng đàn organ điện tử im bặt từ ba mươi giây trước.

Sau đó Boling mỉm cười. “Xin chào, Bác là Jon. Bác làm việc với mẹ cháu.”

Maggie đội một chiếc mũ cầu thủ bóng chày quay ngược lưỡi trai ra sau, đang đứng trên ngưỡng cửa. “Chào bác.”

“Con đội mũ trong nhà ư,” Dance nhắc nhở.

Maggie bỏ mũ ra, rồi đi thẳng tới chỗ Boling. “Cháu là Maggie,” chẳng có chút e dè nào từ phía con gái mình, Dance thầm nghĩ, trong khi cô bé mười tuổi bắt tay vị khách rồi lắc lắc.

“Nắm chắc lắm,” Boling nói với cô bé. “Và chơi đàn cũng hay.”

Khuôn mặt Maggie sáng bừng. “Bác có chơi thứ gì không.”

“Đĩa CD và tải về. Chỉ vậy thôi.”

Dance ngước lên và không hề ngạc nhiên khi thấy cả cậu con trai Wes mười hai tuổi của cô cũng xuất hiện, đang nhìn về phía họ. Cậu bé lùi lại sau khung cửa. Và không hề mỉm cười.

Cô chột dạ. Sau cái chết của bố thằng bé, hoàn toàn dễ hiểu khi Wes không có thiện cảm với những người đàn ông mẹ cậu có quan hệ xã giao. Thằng bé cảm thấy họ – theo chuyên gia trị liệu của cô đã nói – như một mối đe dọa với gia đình cô và ký ức về người bố. Người đàn ông duy nhất cậu bé thực sự thích là Michael O’Neil, một phần do – theo một bác sĩ giả thiết – anh đã có gia đình và vì thế không gây ra nguy cơ nào.

Thái độ của thằng bé với Dance thật nặng nề, cô đã góa chồng hai năm, và đôi lúc thèm muốn khủng khiếp được có một người bạn đồng hành lãng mạn. Cô muốn hẹn hò, muốn gặp ai đó và biết như thế sẽ tốt cho hai đứa trẻ. Song cứ mỗi khi cô ra ngoài, Wes lại trở nên lầm lì cau có. Cô đã dành ra hàng giờ cam đoan với thằng bé rằng nó và em gái nó luôn là trên hết. Dance nghĩ ra những chiến thuật để dần giúp con trai cô thoải mái hơn chấp nhận gặp những người cô hẹn hò. Và đôi khi chỉ đơn thuần gạt các nguyên tắc sang bên và nói thẳng với thằng bé cô không chấp nhận bất cứ thái độ làm mình làm mẩy nào. Chẳng cách nào tỏ ra đặc biệt hiệu quả, và càng khó thuyết phục thằng bé hơn khi sự thù địch mà nó dành cho những đối tượng tiềm năng gần đây nhất của cô hóa ra lại sáng suốt hơn chính phán xét của cô. Sau cùng, cô đi đến quyết định cần lắng nghe những gì các con cô muốn nói và theo dõi phản ứng của bọn trẻ.

Dance vẫy tay ra hiệu bảo cậu bé lại gần. Wes tới cạnh họ. “Đây là bác Boling.”

“Chào cháu, Wes.”

“Chào bác,” hai người bắt tay, Wes vẫn hơi rụt rè như thường lệ.

Dance đang định nhanh chóng bổ sung thêm rằng cô quen Boling qua công việc để trấn an Wes, đồng thời xóa bỏ mọi nguy cơ gây khó chịu. Nhưng trước khi cô kịp nói gì, đôi mắt Wes đã sáng lên trong khi cậu bé nhìn chăm chăm vào màn hình máy tính. “Tuyệt quá. DQ!”

Cô nhìn vào những hình đồ họa nhấp nháy trên màn hình trang chủ của trò chơi DimensionQuest, có vẻ đã được Boling lấy ra từ máy tính của Travis.

“Hai người đang chơi ạ?” thằng bé có vẻ ngạc nhiên.

“Không, không. Bác chỉ muốn cho mẹ cháu xem một thứ. Cháu biết về các Morpeg chứ, Wes?”

“Ừm, có chứ.”

“Wes,” Dance thì thầm.

“Ý cháu là tất nhiên rồi. Mẹ không thích cháu nói ‘ừm’.”

Boling mỉm cười hỏi, “Cháu cũng chơi DQ à? Bác không hiểu lắm về nó.”

“Không ạ, nó là một trò với các phép thuật, bác biết đấy. Cháu hay chơi Trinity hơn.”

“Ái chà,” Boling thốt lên. “Phần đồ họa thật sống động,” anh quay sang Dance và nói, “Đó là một trò S-F.”

Nhưng từng đó khó có thể coi là một lời giải thích. “Cái gì cơ?”

“Mẹ, khoa học viễn tưởng.”

“Sci-fi.”

“Không, không, cô không thể nói vậy được. Là S-F,” đôi mắt đảo rộng nhìn lên trần nhà.

“Tôi vẫn giữ nguyên quan điểm.”

Wes nhăn mặt lại. “Nhưng với Trinity, dứt khoát bác cần đến hai gig[4] RAM[5] và ít nhất hai nữa cho video card. Nếu không thì…” thằng bé nhăn nhó. “Nếu không nó sẽ quá chậm. Ý cháu là, bác giơ vũ khí lên sẵn sàng bắn… và màn hình treo. Đó là điều tệ nhất.”

[4. Viết tắt của Gigabyte.]

[5. Viết tắt của Random Memory: Bộ nhớ đệm.]

“RAM trong cái máy tính để bàn bác ghép lại ở chỗ làm à?” Boling hỏi với vẻ rụt rè.

“Ba ư?” Wes hỏi.

“Năm. Và bốn cho video card.”

Wes làm bộ như sắp xỉu. “Khônggg! Thế thì tuyệttt quá. Bao nhiêu bộ nhớ hả bác?”

“Hai T[6].”

[6. Viết tắt của Terabyte.]

“Không thể nào! Hai terabyte?”

Dance bật cười, cảm thấy nhẹ nhõm vì không có gì căng thẳng giữa hai người. Nhưng cô nói, “Wes, mẹ chưa bao giờ thấy con chơi Trinity. Chúng ta không cài nó trên máy tính ở đây chứ?”

Cô rất nghiêm khắc về những trò chơi các con mình chơi trên máy tính và những trang web chúng truy cập vào. Nhưng cô không thể giám sát một trăm phần trăm thời gian.

“Không, mẹ không cho phép con,” thằng bé nói mà không hề có thêm ngụ ý hay bực bội nào. “Con chơi ở nhà cô Martine.”

“Với hai anh em sinh đôi nhà cô ấy sao?” Dance choáng váng. Các con của Martine – Christensen và Steven Cahill – còn nhỏ hơn cả Wes và Maggie.

Wes bật cười. “Mẹ!” thằng bé thốt lên ngao ngán. “Không, với Steve. Chú ấy biết mọi thủ thuật và mã.”

Nghe rất có lý vì Steve, người mô tả bản thân như một anh chàng trẻ trung nghiện máy tính, là người phụ trách phần kỹ thuật của trang Những giai điệu nước Mỹ.

“Nó có bạo lực không?” Dance hỏi Boling, không phải Wes.

Anh và cậu bé nhìn nhau với vẻ đồng mưu.

“Thế nào?” Dance gặng hỏi.

“Cũng không hẳn thế,” Wes nói.

“Chính xác thì thế là thế nào?” cô hỏi.

“Thôi được, cô có thể bắn nổ tung các tàu vũ trụ và hành tinh, đại khái là vậy,” Boling nói.

Wes xen vào, “Nhưng không giống bạo lực thực sự, mẹ biết mà.”

“Phải,” Boling cam đoan với cô. “Không giống như Resident Evil hay Manhunt[7].”

[7. Tên những dòng video game kinh dị.]

“Hay Gear of War,” Wes nói thêm. “Ý con là, trong trò đó mẹ có thể dùng cưa máy chặt người ta ra.”

“Cái gì?” Dance sững người. “Con đã chơi trò đó bao giờ chưa?”

“Chưa!” thằng bé phản đối, ngay khi có vẻ bị nghi ngờ. “Billy Sojack ở trường có trò đó. Cậu ấy kể với bọn con về nó.”

“Hãy đảm bảo là con không chơi nó đấy.”

“Được rồi. Con sẽ không chơi. Dù bất cứ lý do gì,” thằng bé nói thêm, và một lần nữa liếc mắt về phía Boling, “mẹ cũng không phải dùng một cái cưa máy.”

“Mẹ không bao giờ muốn con chơi trò chơi đó. Hay mấy trò chơi khác bác Boling vừa nhắc đến,” cô nói bằng giọng nghiêm túc nhất của một bà mẹ.

“Vâng. Được rồi mẹ.”

“Hứa chứ?”

“Vâng,” thằng bé nhìn về phía Boling nói – đôi khi Dance vẫn thành công theo cách này.

Sau đó Boling và Wes quay sang bàn tán về các trò chơi khác và những vấn đề công nghệ – lĩnh vực mà Dance thậm chí không thể đoán nổi ý nghĩa của nó. Nhưng cô rất vui được chứng kiến cảnh này. Boling, tất nhiên, không phải là một mối bận tâm theo kiểu lãng mạn, song quả có nhẹ nhõm khi cô không phải lo lắng về các hành động xung đột, nhất là vào tối nay – buổi tối không cần thế cũng đã đủ căng thẳng rồi. Boling không nói chuyện với cậu bé một cách kẻ cả, và cũng không tìm cách gây ấn tượng với nó. Hai người trông như đôi bạn bình đẳng thuộc hai lứa tuổi khác nhau đang trò chuyện vui vẻ.

Cảm thấy bị bỏ rơi, Maggie chen vào, “Bác Boling, bác có con không?”

“Mags,” Dance ngắt lời cô bé, “không được hỏi những câu hỏi riêng tư khi con vừa mới gặp ai đó.”

“Không sao đâu. Không, bác không có con, Maggie.”

Cô bé gật đầu, ghi nhận thông tin vào bộ nhớ. Vấn đề ở đây, Dance hiểu, không phải về triển vọng sẽ có bạn cùng chơi. Con gái cô đang thực sự tìm hiểu về tình trạng hôn nhân của vị khách. Maggie nóng lòng muốn gả chồng cho mẹ còn hơn cả Maryellen Kresbach ở văn phòng, với điều kiện cô bé phải là “Người tháp tùng cô dâu”, dứt khoát không có vai “Phù dâu” đầy chất hoài cổ.

Đúng lúc đó có tiếng nói vang lên từ trong bếp. Edie và Stuart đã tới. Hai ông bà bước vào, tới bên Dance và các con cô.

“Ông bà!” Maggie reo lên rồi lao về phía Edie. “Bà có khỏe không?”

Khuôn mặt Edie rạng rỡ một nụ cười thực thụ, hay gần như thế, Dance đánh giá. Wes, khuôn mặt sáng ngời nhẹ nhõm, cũng chạy tới bên bà. Cho dù gần đây Wes rất tiết kiệm những cái ôm hôn với mẹ, thằng bé vẫn dang hai cánh tay ôm bà ngoại và siết chặt. Trong hai đứa trẻ, thằng bé là đứa bận tâm lo lắng hơn về việc bà ngoại bị bắt giữ ở bệnh viện.

“Katie,” Stuart nói, “con bận rộn truy đuổi những tên tội phạm điên khùng như vậy mà vẫn còn thời gian để nấu ăn sao?”

“À, vẫn có ai đó có thời gian nấu ăn,” cô trả lời với một nụ cười và liếc mắt về những túi mua hàng từ Safeway, để gần thùng rác.

Dance vui mừng khi nhìn thấy mẹ mình và ôm lấy bà. “Mẹ khỏe không?”

“Vẫn ổn cả, con gái yêu quý.”

Yêu quý… Không phải là một dấu hiệu tốt. Nhưng ít nhất bà đang ở đây. Đó là điều đáng kể.

Edie quay lại với hai đứa cháu và hồ hởi kể cho chúng nghe về một chương trình truyền hình bà vừa xem nói đến những phong cách trang trí nhà cửa cực đoan. Mẹ Dance rất giỏi trong việc làm cho mọi người xung quanh cảm thấy thoải mái. Thay vì nói thẳng tới những gì xảy ra ở bệnh viện – việc chỉ làm mọi người thêm lo lắng – bà trấn an bọn trẻ bằng cách không đả động gì tới vấn đề đó và tán gẫu về những chuyện vô thưởng vô phạt.

Dance giới thiệu bố mẹ cô với Jon Boling.

“Cháu là một lính đánh thuê,” anh nói. “Kathryn đã phạm sai lầm khi đề nghị cháu giúp một tay, vậy là giờ đây cô ấy bị mắc kẹt với cháu.”

Họ cùng trò chuyện về Santa Cruz nơi Boling sống, về việc anh đã ở trong vùng được bao lâu và ngôi trường nơi anh đang dạy. Boling rất thú vị khi biết Stuart vẫn còn làm việc bán thời gian tại thủy cung nổi tiếng của vịnh Monterey. Anh vẫn hay tới đó và cũng vừa mới đưa cháu mình đến thủy cung chơi.

“Tôi cũng giảng dạy ít nhiều,” Stuart Dance nói, khi ông được biết về sự nghiệp của Boling. “Tôi cảm thấy rất thoải mái với học thuật. Tôi đã thực hiện nhiều nghiên cứu về cá mập.”

Boling bật cười vui vẻ.

Rượu vang được rót ra, đầu tiên là vang trắng Conundrum của Boling.

Nhưng sau đó, Boling hẳn chợt nhớ ra gì đó và xin cáo lỗi để quay lại máy tính. “Cháu không được phép ăn khi chưa làm xong bài tập về nhà. Hẹn gặp lại mọi người lát nữa.”

“Sao anh không ra ngoài kia nhỉ,” Dance nói với anh, chỉ tay ra phía hiên sau. “Tôi sẽ ra ngay.”

Khi Boling đã cầm máy tính và đi ra ngoài, Edie nói, “Một anh chàng dễ mến đấy.”

“Rất hữu ích. Nhờ có anh ta bọn con đã cứu được một trong các nạn nhân,” Dance đi tới tủ lạnh để cất rượu vang vào. Trong lúc cô làm việc này, cảm xúc chợt bùng dậy và cô khẽ lúng búng nói với mẹ, “Mẹ, con rất xin lỗi đã phải rời khỏi tòa án gấp gáp như thế. Người ta tìm thấy thêm một cây thập tự nữa ở bên đường. Có một nhân chứng con cần thẩm vấn.”

Giọng của mẹ cô không để lộ chút cay đắng nào khi bà nói, “Không sao đâu, Katie. Mẹ biết chắc chuyện đó quan trọng. Và cả người đàn ông tội nghiệp đó nữa chứ. Lyndon Strickland, ông luật sư. Ông ấy được nhiều người biết đến.”

“Vâng, đúng thế,” Dance nhận thấy sự thay đổi chủ đề.

“Đâm đơn kiện tiểu bang, mẹ nhớ là thế. Luật sư đại diện cho người tiêu dùng.”

“Mẹ, đã có tin gì từ Sheedy chưa?”

Edie Dance chớp mắt. “Không phải lúc này, Katie. Tối nay chúng ta không nói về chuyện đó.”

“Tất nhiên rồi,” Dance cảm thấy như một đứa trẻ bị phạt. “Như mẹ muốn.”

“Michael sẽ đến chứ?”

“Anh ấy sẽ cố gắng. Anne đang ở San Francisco, vậy nên anh ấy đang phải trông bọn trẻ. Và điều tra một vụ lớn nữa.”

“Ồ. Được thôi, hy vọng cậu ta có thể đến được. Còn Anne thế nào?” Edie dửng dưng hỏi. Bà tin rằng kỹ năng làm mẹ của vợ O’Neil còn rất nhiều điều cần phải học hỏi. Và bất cứ khiếm khuyết nào về mặt này với Edie Dance đều là một thiếu sót nghiêm trọng, cận kề với tội ác.

“Ổn cả, con đoán thế. Lâu rồi con không gặp chị ấy.”

Dance lại thầm tự hỏi liệu Michael có thể đến được không.

“Mẹ đã nói chuyện với Betsey?” cô hỏi mẹ mình.

“Phải, em con sẽ đến vào cuối tuần này.”

“Nó có thể ở chỗ con.”

“Nếu không có gì bất tiện,” Edie ngỏ lời.

“Sao lại có gì bất tiện?”

Mẹ cô đáp, “Có thể con bận việc quá. Với những vụ án con đang phải điều tra. Đó là ưu tiên của con. Bây giờ, Katie, con hãy tới nói chuyện với bạn của con đi. Maggie và mẹ sẽ sửa soạn mọi thứ sẵn sàng. Mags, lại đây, vào bếp giúp bà nào”.

“Vâng ạ, bà ngoại!”

“Và Stu mang một đĩa DVD ông nghĩ Wes sẽ thích. Một bộ phim về thể thao. Các quý ông hãy bật nó lên.”

Stu cầm lấy cái đĩa và đi tới chỗ chiếc tivi màn hình phẳng, gọi Wes cùng đi.

Dance đứng ngây ra trong chốc lát, hai tay buông thõng khi quan sát mẹ cô rút lui trong khi vẫn vui vẻ trò chuyện cùng Maggie. Sau đó Dance bước ra ngoài.

Cô tìm thấy Boling ngồi bên một cái bàn cập kênh ngoài hiên, gần chỗ cửa sau, dưới một ngọn đèn vàng. Anh đưa mắt nhìn quanh. “Chỗ này đẹp lắm.”

“Tôi gọi nó là Hiên,” cô bật cười. “Với một chữ H viết hoa.”

Đây là chỗ Kathryn Dance trải qua nhiều thời gian của cô nhất – một mình hay cùng các con cô, lũ chó và những người có quan hệ thân thiết với cô qua huyết thống hay tình bạn.

Kiến trúc màu xám vững chãi, rộng sáu mét và dài chín mét, nằm cao hơn khoảnh sân hai mét rưỡi, nhô dài ra dọc phía sau ngôi nhà. Bên trên xếp đầy những chiếc ghế căng vải gai, ghế dựa lưng và bàn cập kênh. Ánh sáng được cung cấp từ những cây đèn trang trí Giáng sinh tí xíu, đèn gắn trên tường, vài bóng đèn vàng hình cầu. Một bồn rửa, những chiếc bàn và một tủ lạnh lớn được kê trên những tấm ván không bằng phẳng. Những cái cây còi cọc được trồng trong các chậu sứt mẻ, máng cho chim ăn, những món đồ treo trang trí bằng kim loại và gốm đã mang màu thời gian được mua về từ gian hàng bán đồ làm vườn tại siêu thị tạo thành tổng thể trang trí theo phong cách chiết trung[8].

[8. Phong cách trang trí nội thất hiện đại, là sự kết hợp hài hoà của nhiều phong cách khác nhau.]

Dance thường về nhà và bắt gặp đồng nghiệp ở CBI hay MSCO hoặc Tuần cảnh Xa lộ ngồi ngoài Hiên, khoan khoái nhâm nhi đồ uống lấy ra từ cái tủ lạnh cà tàng. Việc cô có nhà hay không không quan trọng, miễn là các quy định được tuân thủ: Không bao giờ được quấy rầy buổi học của bọn trẻ hay giấc ngủ của gia đình, kiềm chế cách cư xử thô lỗ và tránh xa ngôi nhà, trừ khi được mời.

Dance rất yêu thích Hiên, nơi dành cho bữa sáng, tiệc tối và cả những dịp long trọng hơn. Cô đã làm đám cưới tại đây.

Và từng chủ trì một buổi lễ tưởng niệm chồng cô trên những tấm ván gỗ màu xám cũ kỹ này.

Giờ đây, Dance ngồi xuống chiếc ghế ưa thích đan bằng liễu gai cạnh Boling, người đang cúi xuống chiếc máy tính xách tay to tướng. Anh quay sang và nói, “Tôi cũng có một cái hiên. Nhưng nếu chúng ta đang nói tới các chòm sao, thì chỗ của cô là Hiên lớn. Còn của tôi là Hiên nhỏ.”

Cô bật cười.

Boling gật đầu về phía máy tính. “Có rất ít thứ tôi tìm được về khu vực quanh đây cũng như bạn bè của Travis. Ít hơn nhiều so với những gì thông thường người ta tìm thấy trong máy tính của một cậu nhóc vị thành niên. Thế giới thực không hiện diện nhiều lắm trong cuộc sống của cậu trai trẻ. Cậu ta trải qua phần lớn thời gian trong thế giới ảo, trong các trang web, các blog và bản tin, và tất nhiên rồi, chơi các trò chơi của mình.”

Dance thấy thất vọng. Mọi nỗ lực để xâm nhập vào máy tính cho kết quả lại không được hữu ích như cô đã hy vọng.

“Còn về thời gian cậu ta sống trong thế giới ảo, phần lớn được dành cho DimensionQuest,” anh hất đầu về phía màn hình. “Tôi đã thực hiện vài tìm kiếm. Đây là trò chơi nhập vai trực tuyến có nhiều người tham gia nhất trên thế giới. Có khoảng mười hai triệu người đăng ký tham gia chơi trò này.”

“Lớn hơn cả dân số thành phố New York.”

Boling mô tả nó như sự kết hợp của Chúa tể những chiếc nhẫn, Chiến tranh giữa các vì sao và Đời sống thứ hai[9] – trang tương tác xã hội nơi bạn tạo ra cuộc sống tưởng tượng cho chính mình. “Theo ước lượng sát nhất tôi có thể đưa ra, cậu ta ở trong DQ từ bốn đến mười giờ đồng hồ mỗi ngày.”

[9. Tên các game dựa trên nội dung những bộ phim ăn khách.]

“Mỗi ngày?”

“Ồ, chuyện đó là thường với một người chơi trò nhập vai,” anh tặc luỡi. “Một số thậm chí còn kinh khủng hơn. Có một chương trình DimensionQuest mười hai bước trong thế giới thực để giúp người ta thoát khỏi chứng nghiện trò này.”

“Nghiêm chỉnh đấy chứ?”

“Ồ, đúng thế đấy,” anh cúi người ra trước. “Còn bây giờ, không có gì trong máy tính của cậu ta liên quan tới nơi cậu ta hay lui tới hoặc bạn bè, song tôi đã tìm thấy một thứ có thể sẽ hữu ích.”

“Cái gì vậy?”

“Cậu ta.”

“Ai cơ?”

“À, chính Travis.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.