Thứ Tư, 6 tháng Tư
Thanh tra Bublanski đang phiền muộn thì ông gặp Modig ở bãi đỗ xe bên ngoài bệnh viện ngay trước 7 giờ. Blomkvist đã gọi ông dậy rồi đến lượt ông gọi Modig dậy. Hai người gặp Blomkvist ở cổng bệnh viện rồi vào buồng Paolo Roberto.
Các chi tiết kỳ quái Bublanski có thể khó nắm nổi nhưng Miriam Wu bị bắt cóc và Paolo Roberto đánh tên bắt cóc thì rút cục điều này đã rõ sờ sờ ra. Trừ việc chưa thể thấy rõ được ai đánh ai nếu xét thương tích của Paolo Roberto. Như Bublanski thấy thì các sự việc đêm qua đã nâng cuộc điều tra về Lisbeth Salander lên một mức phức tạp mới. Trong vụ án quái quỷ này xem ra không có cái gì là bình thường cả. Làm sao Paolo Roberto lại dính vào vụ này?
– Tôi là bạn tốt của Lisbeth Salander mà. – Ông ta nói với họ.
Bublanski và Modig nhìn nhau, vừa ngạc nhiên vừa ngờ vực.
– Cô ấy đã tập đấm bốc với tôi ở nhà thi đấu.
Bublanski nhìn đăm đăm vào một điểm đâu đó ở đằng sau Paolo Roberto. Modig không kìm được bật phá lên cười. Một lúc sau, họ đã ghi lại hết các chi tiết ông ta kể cho họ.
– Tôi muốn nêu ra vài điểm. – Blomkvist đanh giọng nói.
Họ quay lại anh.
– Trước hết, như Paolo tả thì cái người ở nhà kho chạy đi trong chiếc xe van kia đúng là cái người đã từng tấn công Salander trên đường Lundagatan. Một thằng cao lớn, tóc nâu nhạt để kiểu đuôi ngựa và bụng bự vì bia. OK chứ?
Bublanski gật.
– Thứ hai, mục đích bắt cóc Miriam Wu là để buộc cô ấy nói ra chỗ Lisbeth Salander ẩn núp. Vậy thì trước các vụ án mạng ít nhất một tuần hai tên đầu gấu này đã tìm kiếm Salander. Đồng ý không?
Modig nói khẽ:
– Có.
– Thứ ba, thế thì xem ra Salander có bớt phần là con điên đơn độc như đã bị miêu tả đi. Rồi xét theo bề ngoài thì không có đứa rồ nào trong đám này lại đã là thành viên của cái băng nhóm đồng tính ái nữ thờ quỷ Satan.
Cả Bublanski lẫn Modig đều không nói năng.
– Và cuối cùng, thứ tư. Tôi nghĩ câu chuyện này có dính dáng đến một người đàn ông tên là Zala. Dag Svensson đã làm nhiều việc về tay này trong hai tuần cuối cùng của anh ấy. Tất cả các thông tin có liên quan đều nằm trong máy tính của anh ấy. Dag gắn hắn với vụ giết một gái điếm tên là Irina Petrova ở Soldertalje. Biên bản đã ghi rằng cô ấy bị đánh đập dữ dội. Dữ đến độ một trong ba cú đánh tệ hại nhất cũng đủ khiến cho cô ta chết. Các thương tích của cô ấy giống như các thương tích mà Miriam Wu và Paolo Roberto từng đã chịu đựng. Trong cả hai trường hợp, dụng cụ bạo lực khác thường này đều chỉ là hai bàn tay của một tên ác ôn khổng lồ.
– Còn Bjurman? – Bublanski nói. – Chúng ta cứ giả định là có một ai đó có lý do bắt Svensson im lặng. Nhưng giết người giám hộ của Salander thì ai có động cơ?
– Tất cả các mảnh của bài đố ghép hình vẫn chưa khớp vào nhau nhưng có một quan hệ giữa Bjurman và Zala. Đấy là lời giải duy nhất có thể tin được. Các vị có thể tán thành bắt đầu nghĩ theo những tuyến thông tin mới được không? Tôi nghĩ các án mạng này là có liên quan đến buôn bán tính dục. Và Salander thì thà chết chứ không dính vào một chuyện như thế. Tôi đã nói cái cô chết tiệt ấy thế nào lại là một người sống có luân lý rồi đấy.
– Vậy thì vai trò của cô ấy là gì? Cô ấy làm gì ở nhà Svensson và Johansson?
– Tôi không biết. Chứng nhân? Chống lại? Có thể cô ấy đến đấy để cảnh báo Dag và Mia là tính mạng của họ đang bị đe dọa.
Bublanski cho bộ máy hoạt động. Ông gọi cảnh sát Sodertalje và cho họ các chỉ dẫn của Paolo Roberto để đến căn nhà kho ở tây nam hồ Yngern. Rồi ông gọi Holmberg – ông này sống ở Flemingsberg và là người trong nhóm điều tra ở gần Sodertalje nhất – bảo ông liên hệ càng sớm càng tốt với cảnh sát Sodertalje để tham gia cuộc điều tra hiện trường gây án.
Một giờ sau Holmberg gọi lại. Ông đã đến hiện trường gây án. Cảnh sát Sodertalje tìm thấy nhà kho kia không chút khó khăn. Nó đã cháy trụi cùng với hai cái lán chứa hàng và hiện sở chống cháy đang thu dọn ở đó. Có hai can xăng vất ở trong sân.
Bublanski cảm thấy nỗi thất vọng của mình đang như sắp hóa thành điên giận.
Đang xảy ra chuyện chết giấp nào đây? Bọn ác ôn kia là những đứa nào? Salander thật ra là người thế nào? Mà tại sao không thể tìm ra cô ta? Tình hình không sáng sủa ra tí nào khi Ekstrom tham gia cuộc đụng độ, trong cuộc họp 9 giờ sáng. Bublanski báo với ông những tiến triển quan trọng của buổi sáng và đề nghị cần đặt lại trật tự ưu tiên cho cuộc tìm kiếm trong ánh sáng của những sự kiện bí mật vừa xảy ra, chúng đã phủ màn nghi hoặc lên kịch bản mà cho đến nay nhóm điều tra vẫn dựa vào đó để hoạt động.
Chuyện của Paolo Roberto đã củng cố cho chuyện của Blomkvist về vụ tấn công Salander ở Lundagatan. Xem ra giả thiết cho rằng một phụ nữ mắc bệnh tâm thần đã gây nên ba vụ án mạng là không còn có giá trị nữa. Không thể gạt đi hết được những điều nghi ngờ Salander – chúng còn bị vướng các dấu tay của cô trên vũ khí giết người – nhưng cũng lại có nghĩa là cần phải tiến hành cuộc điều tra theo khả năng có một tên giết người khác nữa. Hiện nay chỉ có một lý lẽ – Blomkvist tin rằng các vụ án mạng đều phải có liên quan đến điều tra của Svensson về buôn bán tính đục.
Bublanski nhận ra ba điểm quan trọng. Nhiệm vụ đầu tiên là tìm và nhận diện người đàn ông to lớn và người cộng tác với hắn, tên có tóc để kiểu đuôi ngựa, từng bắt cóc và hành hung Miriam Wu. Chắc sẽ tương đối dễ dàng tìm ra tên khổng lồ.
Andersson nhắc họ nhớ rằng Salander cũng có một bề ngoài khác thường thế mà đã ba tuần tìm kiếm rồi cảnh sát vẫn không biết cô ta ở đâu.
Nhiệm vụ thứ hai bây giờ là thêm vào cho nhóm điều tra một tốp hành động tập trung tìm tòi vào danh sách các khách chơi gái điếm ở trong máy tính của Svensson. Cộng vào việc này có một vấn đề về hậu cần. Nhóm điều tra hiện đang có máy tính của Millennium cho Svensson dùng và các đĩa nén giữ các bản lưu của chiếc máy tính xách tay đã bị mất của Svensson, các cái này chứa đựng tất cả công sức điều tra mà Svensson thu nhặt trong vài năm cùng hàng nghìn trang tư liệu, xếp loại và nghiên cứu chúng cần mất thì giờ. Nhóm điều tra cần được tăng cường và Bublanski chỉ định Modig cầm đầu đơn vị này.
Nhiệm vụ thứ ba là tập trung chú ý vào một người thấp thoáng hiện ra với tên gọi Zala. Nhóm điều tra sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của Cục Điều tra Hình sự Quốc gia, vì họ chắc đã gặp cái tên này. Ông trao nhiệm vụ này cho Faste.
Cuối cùng Andersson sẽ điều phối cuộc tìm kiếm tiếp Salander.
Báo cáo của Bublanski mất sáu phút nhưng thảo luận thì mất hẳn một giờ. Faste hung hăng chống lại các đề nghị của Bublanski và không định rút lui ý mình. Ông cho hay ý kiến của ông là cuộc điều tra, bất kể thông tin mới – mà ông ta gọi là bên rìa – vẫn cần phải được tập trung vào Salander. Chuỗi chứng cứ mạnh đến nỗi nếu đem chia cố gắng ra làm nhiều kênh khác nhau sẽ là khinh suất.
– Đang là cục cứt hết chuyện này. Con điên mà chúng ta tìm đây nó chủ về bạo lực và càng ngày nó lại càng tệ hại ra. Các vị có thật lòng tin rằng các báo cáo tâm thần và các kết quả pháp y là trò đùa không? Cô ả bị cột chết vào hiện trường gây án rồi. Chúng ta biết cô ả là một tay khều rút của có hẳn một khoản tiền lớn không minh bạch ở tài khoản của cô ả tại ngân hàng.
– Tôi biết hết các cái đó.
– Ả cũng là thành viên của một kiểu sùng bái tính dục đồng tính nữ. Và nếu như con ô môi Cilla Noren mà lại biết ít hơn những cái điều ả ta để lại thì tôi xin cứ là chết đầu nước.
Bublanski cao giọng lên:
– Faste, dừng lại thôi. Ông bị cái góc độ đồng tính ái này nó ám hoàn toàn mất rồi. Chỗ này vượt ra ngoài chuyên môn.
Một lần nữa ông tiếc đã nói điều này ra trước tập thể. Nói chuyện riêng với Faste sẽ có hiệu quả hơn. Cuối cùng Ekstrom cắt đứt những người đang lên tiếng mà tán thành kế hoạch của Bublanski.
Bublanski liếc nhìn Bohman và Hedstrom.
– Như tôi hiểu thì hai ông chỉ ở với chúng tôi ba ngày nữa thôi, vậy chúng ta hãy tạo ra chuyển biến tốt đẹp nhất cho tình hình. Bohman, ông có thể giúp Andersson tìm manh mối của Salander không? Còn Hedstrom, anh sẽ ở lại với Modig.
Ekstrom giơ tay khi họ sắp sửa giải tán.
– Một điều cuối cùng. Chúng ta giữ bí mật cái phần liên quan đến Paolo Roberto. Báo đài sẽ làm vung ti mẹt lên nếu thêm một tên tuổi nữa nhảy vọt vào trong ánh sáng của cuộc điều tra này. Vậy thì không một lời nào về chuyện ấy ở ngoài gian phòng này.
Sau cuộc họp Modig đưa Bublanski ra một chỗ.
– Tôi mất kiên nhẫn với Faste là đã thiếu sót về chuyên môn. – Bublanski nói.
– Tôi cũng đã bị như vậy. – Modig mỉm cười nói. – Thứ Hai tuần trước tôi đã mở máy tính của Svensson.
– Tôi biết. Cô làm được đến đâu rồi?
– Anh ấy có một tá bản thảo đã sửa khác nhau và một lượng lớn tư liệu điều tra mà tôi vẫn chưa biết cái gì là quan trọng và cái nào lơ đi thì vẫn cứ ổn. Chỉ riêng xếp loại chúng và cho chúng những cái tên có ý nghĩa rồi xem hết các tư liệu thôi cũng đã phải mất vài ngày rồi.
– Hedstrom thì sao?
Modig ngập ngừng. Rồi chị quay lại đóng cửa buồng Bublanski lại.
– Nói thật với anh… tôi không muốn nói xấu ông ấy nhưng Hedstrom chả giúp được mấy.
Bublanski cau mày.
– Nói hết ra đi.
– Tôi không biết. Anh ta không phải là người cảnh sát chân chính như Bohman. Anh ta nói nhiều cái lăng nhăng lắm. Về Miriam Wu thái độ anh ta cũng giống Faste. Và Hedstrom chả thích thú công việc này tí nào. Còn cái này thì tôi chưa có bằng chứng, là anh ta có một kiểu vấn đề gì đó với Salander.
– Như thế nào?
– Tôi cảm thấy hai người chạm vía nhau.
Bublanski thong thả gật đầu.
– Đáng xấu hổ. Bohman thì được đấy nhưng thật tình tôi không muốn có người ngoài dính líu vào việc điều tra.
– Vậy chúng ta sẽ làm thế nào đây?
– Chị cố chịu Hedstrom cho hết tuần này. Armansky nói nếu không có kết quả thì sẽ rút quân về. Hãy tiếp tục đào sâu và chấp nhận phải một mình làm lấy tất cả công việc.
Modig bị đình chỉ điều tra sau đó chỉ có bốn mươi lăm phút. Chị bị triệu đến văn phòng Ekstrom. Bublanski đang ở đấy. Cả hai người đều đỏ mặt tía tai. Tony Scala, nhà báo tự do, vừa tung ra một tin giật gân nói Paolo Roberto đã cứu con ô môi S&M Miriam Wu thoát khỏi một kẻ bắt cóc chưa biết danh tính. Bài báo có mấy chi tiết mà chỉ người ở trong cuộc điều tra mới biết được. Cách viết gợi ý ra rằng cảnh sát đang làm hồ sơ khởi tố Paolo Roberto đã hành hung.
Nhiều báo khác cũng gọi điện thoại đến Ekstrom muốn biết vai trò của người võ sĩ. Ekstrom tím mặt lại. Ông lên án Modig đã xì thông tin. Modig phản đối kịch liệt việc lên án nhưng không ăn thua. Ekstrom muốn chị thôi điều tra.
– Sonja đã nói chị ấy không có xì ra tin nào hết. – Bublanski nói. – Chuyện này đủ là hay cho tôi rồi. Điều đi một thám tử có kinh nghiệm đã quen thuộc với từng chi tiết của vụ này là mất trí.
Ekstrom không chịu đổi ý.
– Modig, tôi không thể chứng minh chị đã để lộ tin nhưng tôi không tin chị trong cuộc điều tra này. Chị bị rút ra khỏi nhóm, có hiệu lực ngay lập tức. Chị nghỉ cho hết tuần này. Thứ Hai chị sẽ được phân công nhiệm vụ mới.
Modig gật đầu và đi ra cửa. Bublanski giữ chị lại.
– Sonja. Về biên bản: tôi không tin một lời nào ở trong đó và tôi tín nhiệm cô hoàn toàn. Nhưng tôi không phải là người quyết định. Trước khi về nhà, xin gặp tôi ở văn phòng tôi.
Mặt Bublanski mang một màu sắc đáng sợ. Ekstrom nom giận điên.
Modig về bàn giấy mình, chỗ chị và Hedstrom đang làm việc với máy tính của Svensson. Chị tức suýt khóc. Hedstrom có thể nói là có một điều gì đó không hay nhưng gã không nói và chị lờ gã. Chị ngồi ở bàn làm việc nhìn vào khoảng không. Gian phòng có một bầu im lặng nặng nề.
Một lát sau Hedstrom xin lỗi nói đi lấy cà phê. Gã hỏi chị có cần một tách không. Chị lắc đầu.
Khi Hedstrom đi rồi, Modig đứng lên mặc jacket vào. Chị lấy túi khoác vai rồi đến buồng giấy Bublanski. Ông chỉ vào ghế khách.
– Sonja, trừ phi Ekstrom cũng điều tôi đi khỏi nhóm điều tra nốt thôi chứ tôi không có định chịu thua trong chuyện này đâu. Tôi sẽ không chấp nhận và tôi đang nghĩ làm một đơn nói rõ. Cô cứ ở lại trong nhóm cho tới khi thấy có cái gì mới với tôi. Do tôi chỉ đạo. Hiểu chứ?
Chị gật.
– Cô không nghỉ cho hết tuần như Ekstrom nói. Tôi muốn cô đến tòa soạn Millennium nói chuyện thêm nữa với Blomkvist. Nhờ anh ấy hướng dẫn giúp cô xem hết ổ cứng của Dag Svensson. Họ có một bản sao ở đấy. Nếu có ai quen với các tài liệu mà nhặt giùm ra hộ những cái có vẻ là quan trọng thì chúng ta sẽ tiết kiệm được nhiều thì giờ.
Modig dễ thở hơn.
– Tôi không nói gì cả với Hedstrom.
– Tôi sẽ lo phía anh ta. Hedstrom có thể giúp đỡ Andersson. Cô có thấy Faste không?
– Không. Họp xong là đi ngay.
Bublanski thở dài.
Blomkvist ở bệnh viện về đến nhà lúc 8 giờ sáng. Anh đã ngủ được đôi chút và anh cần minh mẫn khỏe khoắn để chiều đi gặp Bjorck ở Smadalaro. Anh cởi quần áo, để báo thức 10 giờ rồi ngủ say được thêm hai giờ. Anh cạo râu, tắm, mặc một sơ mi sạch sẽ. Modig gọi vào di động của anh khi anh lái xe qua Gullmarsplan. Blomkvist nói anh không thể gặp chị. Chị nói với anh những cái chị cần và anh bảo chị tìm Berger.
Đến tòa soạn Millennium, Modig thấy mình mến người phụ nữ có lúm đồng tiền, món tóc vàng cắt ngắn, tự tin và hơi bề trên. Chị lơ mơ nghĩ liệu Berger có phải cũng là một ô môi không, vì theo lời Faste thì tất cả đám phụ nữ ở trong cuộc điều tra này hình như đều thiên về hướng đó. Rồi chị nhớ ra đã đọc ở đâu đó rằng chồng của Berger là nghệ sĩ Greger Beckman.
– Có một vấn đề ở chỗ chúng tôi. – Berger nói sau khi nghe yêu cầu của Modig.
– Là gì ạ?
– Không phải vì chúng tôi không muốn giải quyết các vụ án mạng hay giúp cảnh sát. Vả lại các anh chị đã có tất cả dữ liệu ở trong chiếc máy tính mà các anh chị lấy ở đây đi. Chuyện khó xử là vấn đề về đạo đức. Cảnh sát và báo chí đã không hiệp đồng được tốt lắm với nhau.
– Hãy tin tôi, tôi phát hiện ra điều này sáng nay. – Modig mỉm cười nói.
– Sao thế?
– Không có gì cả, chỉ là ý nghĩ cá nhân.
– OK. Để duy trì độ tín nhiệm của mình, báo chí phải giữ một khoảng cách hẳn hoi với các nhà chức trách. Các nhà báo đến làm việc ở đồn cảnh sát và hợp tác với điều tra của cảnh sát cuối cùng đều hóa ra thành những anh chạy cờ để cảnh sát sai vặt.
– Tôi đã gặp một số chạy cờ như thế. – Modig nói. – Nhưng điều trái lại cũng là có thật. Cảnh sát cuối cùng hóa ra cũng bị một số báo chí sai vặt.
Berger cười thành tiếng:
– Cái ấy có đấy. Tôi sợ phải nói ra là ở Millennium đây, chúng tôi đơn giản không cho phép liên kết với cái kiểu làm báo đánh thuê ấy. Thế này không có ý là bảo chị không được hỏi bất cứ nhân viên nào ở Millennium – chúng tôi sẵn sàng để chị hỏi – mà chỉ là nói đến việc cảnh sát yêu cầu chính thức chúng tôi tham dự tích cực vào điều tra của cảnh sát bằng cách đưa tư liệu báo chí của chúng tôi cho cảnh sát sử dụng.
Modig gật đầu.
– Ở chỗ này có hai quan điểm. – Berger nói. – Thứ nhất, một trong các nhà báo của chúng tôi đã bị giết. Cho nên chúng tôi sẽ giúp đỡ hết khả năng. Nhưng quan điểm thứ hai là có những cái chúng tôi không thể và sẽ không cho cảnh sát. Đó là những cái liên quan đến nguồn thông tin.
– Tôi có thể mềm dẻo được. Tôi có thể hứa bảo vệ nguồn thông tin của tạp chí chị.
– Đây không là vấn đề về ý định của chị hay lòng tin của chúng tôi với chị. Đây là vì chúng tôi không bao giờ để lộ nguồn thông tin, bất kể trường hợp nào.
– Tôi hiểu.
– Vậy thì có một sự thật là ở Millennium chúng tôi đang tự điều tra lấy về các vụ án mạng, và nên coi việc này như là một phận sự báo chí. Trong vụ này, tôi đã chuẩn bị khi nào kết thúc một việc gì và sắp đem nó đăng lên thì chúng tôi sẽ trao thông tin cho cảnh sát – chứ không trao trước.
Berger cau mày khi ngừng lại để nghĩ:
– Tôi cũng cần phải sống được với bản thân. Chúng ta hãy làm thế này… Chị có thể làm việc với Malin Eriksson. Cô ấy quen thuộc các dữ liệu và thạo quyết định xem ranh giới nằm ở đâu. Cô ấy sẽ hướng dẫn chị đọc hết quyển sách của Dag – với mục đích dựng lên một danh sách của tất cả những người khả nghi.
Khi lên xe lửa chạy chặng ngắn từ ga Sodra đến Sodertalje, Irene Nesser không biết có tấn bi kịch xảy ra đêm trước. Cô mặc jacket da đen dài ngang thân, quần thẫm màu và áo thun dệt kim màu đỏ gọn ghẽ. Cô đeo kính nhưng đẩy lên trên trán.
Ở Sodertalje cô đi bộ đến xe buýt Strangnas, mua một vé đi Stallarholmen. Cô xuống xe ở phía nam dưới Stallarholmen một ít ngay sau 11 giờ sáng. Không thấy một tòa nhà nào ở trước mặt. Cô hình dung địa thế ở trong đầu. Hồ Malaren ở mạn đông bắc cách vài cây số. Đây là vùng của các nhà gỗ nhỏ nghỉ hè, rải rác có dân cư ngụ quanh năm. Nhà của Bjurman cách trạm xe bus chừng ba cây số. Cô uống một ngụm nước ở trong chai rồi bắt đầu đi bộ. Bốn mươi lăm phút sau cô đến nơi.
Cô bắt đầu đi một vòng quanh khu vực, xem xét các nhà lân cận. Ở bên phải khoảng một trăm rưỡi mét là nhà gỗ nhỏ kế theo. Không có ai trong nhà. Ở bên trái là một khe vực. Cô qua hai nhà nghỉ hè đến một nhóm nhà gỗ nhỏ. Cô thấy có dấu hiệu sinh hoạt ở đây: một cửa sổ mở và tiếng đài phát thanh. Chỗ đây cách căn nhà gỗ nhỏ của Bjurman ba trăm mét. Cô có thể làm việc không bị quấy rầy.
Cô đã lấy chìa khóa ở nhà ông ta. Vào được bên trong rồi, đầu tiên cô vặn ốc tháo cánh cửa chớp ở đằng sau nhà, đề phòng xảy ra chuyện không vui ở đằng trước nhà thì cô có một lối thoát. Điều không vui mà cô chuẩn bị đối phó là một nhân viên cảnh sát điều tra có thể đến lục lọi gì đó ở căn nhà gỗ nhỏ.
Nhà của Bjurman là một trrong những căn cũ kỹ hơn, một căn nhỏ với một phòng chính, một phòng ngủ và một bếp con con có nước máy. Buồng tắm là một gian nhà phụ bằng vữa ở trong vườn, đằng sau tòa nhà chính. Cô bỏ ra hai mươi phút xem hết các tủ li, tủ quần áo và chạn. Cô không tìm ra được đến cả một mẩu giấy nào có thể liên quan gì đó đến Lisbeth Salander hay Zala.
Rồi cô ra gian nhà phụ và lán củi tìm kiếm. Chả có gì đáng chú ý đến ở đây, giấy tờ cũng không. Rõ ràng chuyến đó là vô tích sự.
Cô ngồi ở cổng, uống ít nước và ăn một quả táo.
Khi vào đóng cửa chớp, cô lập tức dừng phắt lại ở trong lối vào gian sảnh. Cô vừa bắt chợt thấy một chiếc thang nhôm cao một mét. Cô lại vào phòng chính, quan sát cái trần bằng ván ghép. Nằm ở giữa hai cái xà đỡ mái, lối mở vào gian áp mái gần như không thể trông thấy. Cô lấy chiếc thang, mở nắp cửa đậy và lập tức trông thấy ngay hai hộp hồ sơ cỡ A4, mỗi hộp đựng vài hồ sơ cùng các tài liệu khác nhau.
Chuyện theo nhau diễn ra bí bét tất cả. Họa vô đơn chí. Lo phiền.
Sandstrom nắm thóp được anh em nhà Ranta. Chúng nói nghe ông ta có vẻ kinh khiếp và cho biết nhà báo Svensson đang dự định một tường thuật về các hoạt động chơi điếm của ông và về anh em Ranta. Đến nay thì không phải là chuyện gì lớn. Nếu báo chí phơi Sandstrom ra thì đó không phải là chuyện của gã, còn anh em nhà Ranta thì có thể lặn bao lâu cũng được, tùy theo nhu cầu. Chúng đã lên tàu Ngôi sao Baltic về Estonia nghỉ. Tất cả chuyện rắc rối này xem vẻ không thể dắt nhau ra tòa được nhưng nếu tình hình cứ tiếp tục xấu đi thì chúng cũng đã thôi dính líu từ trước rồi. Đây là một phần nội dung công việc đã từng được bàn đến.
Rắc rối hơn là Salander đã xoay xở tránh được Lundin. Chuyện này không thể tin được do chỗ con búp bê bằng giẻ rách thì đọ sao nổi với Lundin được. Hắn chỉ phải làm có mỗi việc là nhét con bé vào xe rồi đưa đến chỗ nhà kho ở nam Nykvarn thôi. Rồi Sandstrom lại tiếp một người khác nữa, lần này là Svensson theo lùng Zala. Mọi sự liền được soi bằng một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ. Ở giữa nỗi hoảng loạn của Bjurman và việc Svensson không ngừng săn tin đã nổi lên một tình thế đầy nguy hiểm tiềm phục.
Một cha nghiệp dư là một thằng gangster không được chuẩn bị nhận lấy hậu quả. Rõ mười mươi Bjurman là một cha nghiệp dư. Gã đã khuyên Zala đừng có liên quan gì với Bjurman nhưng với Zala thì cái tên “Lisbeth Salander” lại như tấm vải đỏ phất trước mũi con bò đực vậy. Hắn thù ghét Salander. Thật thà mà nói, điều này là vô lý. Nó giống như bấm một cái nút.
Thuần túy là do may mà gã lại ở chỗ Bjurman cái đêm Svensson gọi. Vẫn cái tay nhà báo từng gây rắc rối cho Sandstrom và anh em Ranta. Gã đã đến chỗ Bjurman để làm cho hắn yên tâm hay để dọa hắn, tùy nhu cầu, sau chuyến bắt cóc Salander không thành. Svensson gọi đến đã gây nên nỗi kinh hoàng man dại ở Bjurman, một phản ứng của sự ngu xuẩn mất hết lý lẽ. Rồi thình lình hắn muốn tháo lui.
Phát triển đến cùng cực là Bjurman đã cầm khẩu súng cao bồi lên để dọa gã. Gã chỉ ngạc nhiên nhìn Bjurman rồi tước lấy khẩu súng. Gã đi găng tay nên chuyện dấu tay là không thành vấn đề được. Gã không còn lựa chọn. Bjurman rõ ràng đã tung con súc sắc lên xin âm dương sấp ngửa.
Dĩ nhiên Bjurman có biết chuyện Zala. Và đó chính là lý do khiến cho hắn thành một món nợ phải tính. Gã không hiểu vì sao gã lại bắt Bjurman cởi truồng, trừ việc gã ghét tay luật sư và muốn cho hắn thấy rõ điều ấy. Khi nhìn thấy vết xăm ở trên bụng Bjurman: TÔI LÀ CON LỢN BẠO DÂM, MỘT TÊN ĐỒI TRỤY, MỘT ĐỨA HIẾP DÂM, gã gần như đã quên mất chuyện đó.
Trong một lúc gã thấy buồn cho con người này. Hắn là một thằng ngu đặc như thế đấy. Nhưng gã đang vướng một việc mà tình cảm là không được phép xía vào những chuyện họ cần phải làm. Cho nên gã đưa hắn vào phòng ngủ, bắt hắn quỳ xuống rồi lấy một cái gối thay cho bộ phận giảm thanh.
Gã đã lục lọi nhà Bjurman trong năm phút để xem có một liên hệ nhỏ nhặt nhất nào với Zala không. Cái duy nhất gã tìm thấy là số điện thoại của chính mình. Để chắc ăn gã lấy di động của Bjurman đem đi.
Svensson là vấn đề tiếp theo. Lúc tìm thấy Bjurman chết, Svensson nhất định sẽ phải gọi cảnh sát và bảo cảnh sát anh đã gọi cho luật sư để hỏi về Zala. Lúc đó Zala sẽ trở thành đối tượng quan tâm của cảnh sát.
Gã tự coi mình là thông minh nhưng gã có một lòng kính trọng ghê gớm đối với các năng khiếu chiến lược gần như thần bí của Zala. Hai người đã làm việc cùng với nhau trong gần mười hai năm. Đó là một thập niên thành công và gã đã sùng bái ngước nhìn lên Zala. Gã có thể để hàng giờ nghe Zala giải thích về bản chất người, những yếu đuối của con người cũng như ta có thể lợi dụng những cái đó như thế nào.
Nhưng hoàn toàn bất ngờ, công chuyện làm ăn của hai người đã bị rắc rối.
Gã đã lái thẳng từ nhà Bjurman đến Enskede, đỗ chiếc Volvo cách đó hai phố. May mắn như được trời định sẵn, cửa chính tòa chung cư lại không khóa. Gã đi lên, bấm chuông cửa có biển tên đề “Svensson – Johansson”.
Gã đã bắn hai phát – có cả một phụ nữ ở trong căn hộ nữa. Gã không lục tìm hay lấy giấy tờ gì đi. Gã lấy chiếc máy tính ở trên bàn phòng khách rồi quay gót, xuống cầu thang ra xe. Gã rất muốn ra ngay khỏi nơi này. Sai lầm duy nhất của gã là đã đánh rơi khẩu súng trên cầu thang trong khi gã vừa loay hoay giữ chắc chiếc máy tính vừa thò tay móc chìa khóa xe ra. Gã dừng lại một thoáng nhưng khẩu súng đã trượt qua các bậc thang rơi xuống gian hầm và gã quyết định nếu xuống lấy nó thì sẽ mất quá nhiều thời gian. Gã biết mình là loại người mà ai đã trông thấy thì khó lòng quên đi, cho nên điều quan trọng là ra khỏi đây trước khi có ai để mắt đến gã. Việc để rơi khẩu súng lúc đầu đã là một nguyên nhân để phê phán cho tới khi Zala nhận ra những hệ lụy của nó.
Họ đã ngạc nhiên thấy cảnh sát tìm kiếm Salander. Sai lầm của gã lại hóa ra thành một cú may mắn không thể nào tin nổi.
Nó cũng đặt ra một vấn đề mới. Salander trở thành mối liên hệ yếu ớt còn lại. Cô ta từng biết Bjurman và lại có biết Zala. Cô ta có thể luận ra. Gã và Zala đã bàn về chuyện này và đi đến chỗ đồng tình. Hai người phải tìm Salander rồi chôn nghiến cô ở một nơi nào đó. Không tìm ra thấy cô bao giờ nữa thì lý tưởng. Lúc đó cuộc điều tra án mạng rút cục sẽ thành ngâm cứu.
Họ đã nắm lấy một cơ hội là Miriam Wu có thể dẫn họ đến Salander. Nhưng mọi sự lại bị bí bét lần nữa. Paolo Roberto. Ở trong biển người. Chả biết từ đâu ra. Và theo báo chí thì hắn cũng là bạn của Salander.
Gã lặng điếng đi.
Sau Nykvarn gã đã đến nhà Lundin ở Svavelsjo, cách trụ sở Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo chỉ một trăm mét. Không phải chỗ ẩn náu lý tưởng nhưng gã không có nhiều lựa chọn và gã phải tìm một chỗ nào có thể lặn cho tới khi các chỗ bầm tím trên mặt gã nhạt đi và có thể lánh xa mọi người. Gã lấy ngón tay sờ sờ mũi và mó vào cái chỗ sưng vù ở gáy. Chỗ sưng đã bắt đầu xẹp. Rút lui về và đốt trụi tất cả cái chỗ kia đi là việc hay đấy.
Rồi thình lình gã lạnh toát.
Bjurman. Gã đã gặp Bjurman một lần ở nhà nghỉ mùa hè của hắn. Đầu tháng Hai – khi Zala nhận công việc chăm sóc Salander – Bjurman có một hồ sơ về Salander mà gã đã lật lật xem. Sao gã lại có thể quên được báo cáo ấy. Nó có thể dẫn đến Zala.
Gã xuống bếp bảo Lundin đến Stallarholmen một mình càng nhanh càng tốt rồi phóng lên cho một đám cháy ở đó nữa.
Bublanski qua bữa ăn trưa giải lao bằng cố sắp xếp trật tự cho cuộc điều tra mà ông biết là sắp thất bại. Ông tiêu thì giờ với Andersson và Bohman, hai ông này đã cho ông cập nhật việc săn lùng Salander. Từ Goteborg và Norrkoping đã có tin báo đến. Họ gạt ngay tin từ Goteborg nhưng điều trông thấy ở Norrkoping thì có khả năng. Họ thông báo cho các bạn đồng sự và một cuộc giám sát chặt chẽ đã được bố trí ở một địa chỉ mà người ta nhìn thấy một cô gái nom giống như Salander tại đó.
Ông cố tìm Faste nhưng ông ta không ở trong chung cư và không trả lời di động. Sau cuộc họp, Faste đã biến mất.
Rồi Bublanski đi gặp Ekstrom để cố tháo ngòi nổ cho vấn đề với Modig. Ông trình bày hết các lý do để cho thấy rằng đưa chị ra khỏi vụ này là liều lĩnh đến rồ dại.
Ekstrom không nghe, Bublanski tự cho mình chờ đến hết cuối tuần, khi ông nộp đơn than phiền. Đây là một tình huống ngu ngốc. Ngay sau 3 giờ chiều, ông đi ra hành lang và trông thấy Hedstrom từ buồng giấy Modig bước ra, ông vẫn cho rằng Hedstrom đang ở trong đó rà soát kỹ ổ cứng của Svensson. Nay thì Bublanski nghĩ việc làm này là vô nghĩa bởi không có thám tử chân chính nào lại ngoái nhìn qua vai mình để kiểm tra xem mình có thể đã để mất một cái gì đó không. Hedstrom sẽ phải ở với Andersson cho đến cuối tuần.
Ông chưa kịp định nói gì thì Hedstrom đã biến vào trong nhà vệ sinh ở cuối đằng kia hành lang. Bublanski đi đến buồng giấy Modig để chờ Hedstrom quay lại. Ở cửa ông có thể nhìn thấy cái ghế trống không của Modig.
Rồi mắt ông bất chợt thấy chiếc di động của Hedstrom bị bỏ quên ở trên ngăn giá đằng sau bàn làm việc.
Bublanski liếc về nhà vệ sinh vẫn đóng cửa. Rồi ông bước vào buồng giấy, hoàn toàn bột phát, nhét chiếc di động của Hedstrom vào túi, đoạn bước gấp về buồng giấy mình, đóng cửa lại. Ông bấm danh sách các cuộc gọi.
Cuộc họp kết thúc được năm phút, thì
Ông dập máy, nhìn trừng trừng vào di động của Hedstrom. Rồi ông đứng lên, mặt tối sầm như bị phủ một đám mây bão. Ông đi được hai bước ra cửa thì điện thoại bàn réo. Ông quay lại cầm máy lên, quát to tên mình vào trong máy.
– Jerker đây. Tôi đã quay lại cái nhà kho ở ngoài Nykvarn.
– Ông tìm thấy gì?
– Lửa đã rụi. Hai giờ vừa rồi chúng tôi túi bụi. Cảnh sát Sodertalje đem một con chó đánh hơi xác người đến để kiểm tra khu vực đề phòng có người ở trong đống đổ nát.
– Có không?
– Không có. Nhưng chúng tôi giải lao một lúc cho con chó được nghỉ cái mũi chốc lát. Người giữ chó nói cần phải làm thế vì ở những nơi bị cố ý gây cháy các mùi rất là hắc.
– Nói vào đề đi, Jerker. Tôi đang vội.
– Được, anh ta đi bộ và dắt con chó ra xa chỗ cháy. Con chó ra hiệu ở một chỗ sau nhà kho, khoảng bảy mươi lăm mét vào trong rừng. Chúng tôi bắt đầu đào. Mười phút sau chúng tôi tìm thấy một chân người đi giầy. Nom vẻ là giầy đàn ông. Chôn khá nông.
– Ô, mẹ kiếp. Jerker, ông phải đi…
– Tôi đã chỉ huy địa điểm ấy và cho ngừng đào. Tôi muốn có pháp y và các kỹ thuật thích đáng ở ngoài ấy để rồi chúng tôi còn tiến hành.
– Làm rất tốt.
– Nhưng đã hết đâu. Năm phút sau, con chó đánh đấu một điểm khác nữa, cách chỗ trước khoảng tám chục mét.
Salander pha cà phê trên bếp lò của Bjurman và ăn một quả táo nữa. Cô bỏ hai giờ ra đọc, từng trang một, hết các ghi chép của Bjurman về cô. Cô thật sự choáng. Lão đã bỏ khá nhiều cố gắng vào nhiệm vụ và đã hệ thống hóa lại thông tin. Lão đã tìm ra tư liệu về cô mà thậm chí cô cũng không biết là có cái đó.
Cô đọc nhật ký của Palmgren với tình cảm lẫn lộn. Nó đầy hai quyển sổ tay. Ông bắt đầu giữ nhật ký về cô từ khi cô mười lăm tuổi. Cô vừa bỏ chạy khỏi nhà bố mẹ đỡ đầu thứ hai, cặp vợ chồng già ở Sigtuna; ông là nhà xã hội học, bà là tác giả viết sách thiếu nhi. Salander ở với họ mười hai ngày và có thể nói họ tự hào ghê gớm vì đã có một đóng góp xã hội bằng việc nhận cô về và họ chờ đợi cô thường xuyên bày tỏ lòng biết ơn họ. Cuối cùng cô khá là chán khi bà mẹ đỡ đầu, huênh hoang với hàng xóm, bắt đầu giảng giải rằng việc một người trông nom đám trẻ có vấn đề lộ liễu là quan trọng như thế nào. Tôi không phải là một dự án xã hội của nhà bà đâu, cô muốn hét toáng lên. Ngày thứ mười hai cô ăn cắp một trăm curon trong khoản tiền quản gia rồi lên xe bus đi Upplands – Vasby và xe lửa chặng ngắn đến Ga trung tâm Stockholm. Sáu tuần sau cảnh sát tìm thấy cô trong nhà một ông già sáu mươi bảy tuổi ở Haninge.
Ông này cho cô ăn uống và một chỗ để sống. Cô chả phải làm nhiều nhặn gì để đáp lại. Ông muốn được xem cô khi cô tắm. Ông không bao giờ sờ vào cô. Cô biết ông ta có thể bị coi như người mắc tật ái nhi nhưng cô chả thấy một mảy may đe dọa nào ở phía ông. Cô nghĩ ông ta là một người bị hướng nội và bị khuyết tật về mặt xã hội. Cô thậm chí còn đi tới chỗ thấy có cảm giác cùng hội cùng thuyền khi nghĩ đến ông. Cả hai họ đều là người ở ngoài lề.
Cuối cùng một ai đó đã phát hiện ra cô và báo cảnh sát. Một bà làm công tác xã hội đã cố sức thuyết phục cô hãy báo cáo ông già kia đã tấn công tính dục. Cô ngang bướng không chịu nói những gì trái với sự thật và muốn gì thì cô mới mười lăm tuổi và hợp pháp. Rồi Palmgren can thiệp, ký bảo lãnh cho cô. Ông bắt đầu viết một nhật ký về cô, qua nhật ký này thấy ông đã thất vọng với ý định làm dịu và giải quyết các mối nghi hoặc của chính bản thân ông. Những dòng đầu tiên viết vào hồi tháng Mười hai năm 1993:
L. ngày càng tỏ ra là một người trẻ tuổi khó quản lý nhất mà tôi đã từng gặp. Vấn đề là tôi có làm đúng không khi tôi phản đối đưa cô bé về lại bệnh viện Thánh Stefan. Nay trong ba tháng cô bé vừa bỏ chạy khỏi hai gia đình đỡ đầu và rõ ràng đang có nguy cơ gặp phải một số tổn hại nào đó trên đường trôi dạt. Tôi đã sớm quyết định liệu tôi có nên từ bỏ phân công này mà yêu cầu đưa cô bé cho các nhà chuyên môn đích thực trông nom không. Tôi không biết thế nào là đúng, thế nào là sai nữa. Hôm nay tôi đã nói chuyện nghiêm túc với cô bé.
Salander nhớ từng lời buổi nói chuyện nghiêm túc ấy. Đó là ngày hôm trước đêm Noel. Palmgren đưa cô đến chỗ mình và để cô ở trong gian buồng dành sẵn cho khách. Ông làm bữa tối với mì spaghetti với nước xốt thịt rồi cho cô ngồi vào ghế sofa trong phòng khách còn mình thì ngồi đối diện trên một chiếc ghế thường.
Cô nhớ cô đã nghĩ thầm liệu ông có lại cũng muốn xem cô tắm truồng không đây. Nhưng ông đã nói chuyện với cô như với một người trưởng thành. Thật ra đó là một cuộc độc thoại dài hai giờ. Cô chả thốt ra một lời nào. Ông kể ra các sự thật là thực tế bây giờ cô cần phải quyết định giữa hai cái, trở lại bệnh viện Thánh Stefan hay sống với một gia đình đỡ đầu. Ông sẽ làm những cái có thể để tìm ra cho cô một gia đình cô chấp nhận được và ông nài cô làm theo lựa chọn của ông. Ông đã quyết định rằng cô sẽ qua lễ Giáng sinh với ông để cô có thì giờ suy nghĩ đến tương lai của mình. Chuyện ấy do cô quyết định lấy, ông muốn hôm sau ngày Giáng sinh cô sẽ trả lời rõ ràng và hứa nếu có vấn đề thì cô sẽ quay lại với ông chứ không bỏ chạy. Rồi ông cho cô đi ngủ và chắc có lẽ đã ngồi viết những dòng nhật ký đầu tiên của mình.
Holger Palmgren không thể ngờ nỗi sợ phải quay về bệnh viện ở cô gái còn lớn hơn ông tưởng nhiều. Cô qua kỳ nghỉ lễ với con mắt ngờ vực nhìn ngó mọi cử động của ông. Ngày hôm sau ông vẫn chưa có ý sờ soạng cô mà cũng không tỏ dấu hiệu là muốn nhòm trộm cô tắm. Trái lại, ông đã nổi cáu thực sự khi cô thử nhử ông bằng cách đi trần truồng từ buồng của cô sang phòng tắm. Ông đã đóng đánh cái sầm cửa buồng tắm lại. Sau đó cô đã hứa với ông những điều ông yêu cầu. Cô đã giữ lời. Ừ, ít nhiều đã giữ được.
Trong nhật ký, Palmgren bình luận có hệ thống về từng lần ông gặp cô. Đôi khi là ba dòng, đôi khi ông cho ý nghĩ của ông vào đầy cả vài trang. Thỉnh thoảng cô đã phát ngạc nhiên. Palmgren hiểu cô sâu hơn là cô tưởng và có những lần ông bình luận về các chuyện mà cô đã thử lừa ông, và ông đã nhìn thấu thấy ý cô.
Rồi cô mở bản báo cáo của cảnh sát năm 1991.
Các mảnh của bài đố ghép hình đã khớp lại vào nhau. Cô cảm thấy đất như bắt đầu tròng trành.
Cô đọc y bạ do bác sĩ Jesper H.Loderman viết trong đó hình tượng bác sĩ Teleborian nổi lù lù lên. Loderman đã là quân chủ bài của công tố viên khi ông, trong buổi nghe tòa phán xét, đã cố bắt cô vừa mười tám tuổi phải chịu chế độ giám sát của bệnh viện.
Rồi cô tìm thấy một phong bì đựng thư từ giữa Teleborian và một viên cảnh sát nào đó tên là Gunnar Bjorck. Các thư đều đề năm 1991, ngay sau vụ “Tất cả Xấu xa” xảy ra.
Không có gì nói thẳng ra trong thư nhưng thình lình dưới chân Salander mở ra một khung cửa sập. Cô phải mất vài phút mới nắm được các ý ngầm. Bjorck nhắc lại một câu chuyện nào đó mà chắc hai người đã có với nhau. Chữ nghĩa của hắn kín kẽ, không thể chê trách nhưng bức thư đã để toát ra cái ý là nếu Salander bị nhốt trong viện tâm thần suốt đời thì sẽ hay cho hắn.
Giữ cho đứa trẻ có một khoảng cách nào đó với xung quanh là quan trọng. Tôi không thể đánh giá tình trạng tâm lý của cô ta cũng như cô ta cần kiểu chăm sóc nào nhưng cô ta bị bệnh viện giám sát lâu bao nhiêu hay bấy nhiêu, càng ít rủi ro đi vì không thì cô ta sẽ vô ý tạo nên các vấn đề liên quan đến câu chuyện họ đang nắm ở trong tay.
Liên quan đến câu chuyện họ đang nắm ở trong tay. Salander vần đi vần lại câu này trong đầu một lúc.
Teleborian chịu trách nhiệm việc điều dưỡng cho cô ở bệnh viện Thánh Stefan. Đã không có sự cố gì. Giọng các thư từ dẫn cô tới chỗ hiểu ra là người ta không có ý cho các bức thư này được thấy ánh sáng bao giờ.
Teleborian đã có quen biết Bjorck.
Salander cắn môi suy nghĩ. Cô chưa bao giờ điều tra về Teleborian, nhưng hắn bắt đầu trong ngành pháp y và ngay cả Cảnh sát An ninh đôi khi cũng cần tham vấn một chuyên gia pháp y hay bác sĩ tâm thần cho các cuộc điều tra của nó. Nếu cô bắt đầu đào bới, chắc cô sẽ tìm ra được một mối liên hệ. Ở một lúc nào đó trong nghề nghiệp của họ, con đường của Teleborian và Bjorck đã giao nhau.
Khi cần một ai đó có thể chôn vùi Salander thì Bjorck quay đến Teleborian. Chuyện đã xảy ra như thế. Điều trước kia được xem như cơ may thì nay lại mang một chiều kích hoàn toàn mới.
Cô ngồi lặng một lúc lâu nhìn đăm đăm vào khoảng không. Chả ai vô tội. Chỉ có các mức độ trách nhiệm khác nhau mà thôi. Và một ai đó đã chịu trách nhiệm với Salander. Cô dứt khoát sẽ phải có một chuyến viếng thăm Smadalaro. Cô cho rằng ở trong cái xác tàu đắm là chế độ pháp lý của nhà nước này thì sẽ chẳng có ai thiết bàn bạc với cô về vấn đề kia hết, và khi thiếu một người như thế thì việc cần phải làm là hãy chuyện trò một phen với Gunnar Bjorck. Cô nhắm tới cuộc chuyện trò đó.
Cô không cần phải lấy hết các danh mục đi theo cô. Cô đã đọc chúng rồi thì chúng liền in ngay vào trong bộ nhớ nhạy như máy ảnh của cô. Cô lấy đi nhật ký của Palmgren, báo cáo cảnh sát của Bjorck từ 1991, y bạ từ 1996 khi cô bị tuyên bố là không thể tự cai quản bản thân và thư từ giữa Teleborian với Bjorck. Đủ nhét đầy vào ba lô của cô.
Cô đóng cửa nhưng sắp khóa thì nghe thấy tiếng xe máy ở đằng sau. Cô nhìn quanh. Quá muộn, không thể nấp được nữa và cô chả có chút cơ may nào là chạy bỏ được hai tên đi hai xe máy Harley – Davidson sất. Cô thận trọng bước ở trên cổng xuống và gặp chúng trên đường xe rẽ vào nhà.
Bublanski hầm hầm đi xuôi hành lang và thấy Hedstrom vẫn chưa trở lại buồng giấy của Modig. Nhưng nhà vệ sinh trống không. Ông xuôi tiếp hành lang và thấy Hedstrom đang cầm một tách nhựa ở máy pha cà phê, nói chuyện với Andersson và Bohman.
Quay lại cửa, không bị nhóm Hedstrom trông thấy, Bublanski lên một tầng tới buồng giấy Ekstrom. Không gõ, ông giật cửa rầm một cái, cắt ngang câu chuyện trên điện thoại của Ekstrom.
– Đi với tôi. – Ông nói.
– Tôi xin lỗi? – Ekstrom nói.
– Đặt máy xuống rồi đi với tôi.
Vẻ mặt Bublanski dữ đến nỗi Ekstrom làm theo lời ông. Vào tình huống này người ta dễ hiểu vì sao ông lại có biệt hiệu Sĩ quan Bong bóng. Mặt ông như một quả bóng phòng không đỏ chói. Hai người đi xuống chỗ họp ở buồng giấy Andersson. Bublanski bước đến Hedstrom, giơ tay túm chặt lấy tóc gã rồi quay mặt gã về Ekstrom.
– Kìa, ông làm gì đấy? Ông điên à?
– Bublanski! – Ekstrom quát lên, kinh ngạc.
Ekstrom nom căng thẳng. Miệng Bohman trề xuống.
– Cái này của anh phải không? – Bublanski hỏi, giơ chiếc di động Sony Ericsson ra.
– Buông tôi ra!
– LÀ DI ĐỘNG CỦA ANH PHẢI KHÔNG?
– Kìa, khỉ nhỉ. Buông tôi ra.
– Chưa đâu. Anh bị bắt.
– Tôi bị cái gì?
– Anh bị bắt vì lộ bí mật và vì can thiệp vào điều tra của cảnh sát. Không phải thế thì anh cho chúng tôi lời giải thích hợp lý vì sao anh lại gọi một nhà báo, theo như danh sách cuộc gọi ở di động của anh và người này trả lời anh bằng cái tên Tony Scala vào lúc 9 giờ 57 phút sáng nay, ngay sau cuộc họp và đúng trước khi Scala công bố ra cái tin mà chúng ta đã quyết định giữ bí mật.
Sau khi nhận chỉ thị đến Stallarholmen đốt nhà ở đó, Lundin đã kéo Nieminen cùng láng cháng đến nhà câu lạc bộ ở bên trong khu xưởng in bỏ hoang tại ngoại vi Svavelsjo. Từ mùa đông đến giờ đây là lần đầu tiên có thời tiết lý tưởng để lăn bánh ra khỏi đám lợn bẩn thỉu. Hắn đã nhận những chỉ thị chi tiết và hắn đã nghiên cứu một bản đồ. Hai đứa mặc đồ da vào rồi chả mấy chốc đã từ Svavelsjo đến được Stallarholmen.
Lundin không tin nổi vào mắt mình khi trông thấy Lisbeth Salander đứng trên đường rẽ vào nhà nghỉ hè của Bjurman. Hắn cầm chắc là cô, tuy cô nom khác. Tóc giả phải không? Cô cứ đứng đó, chờ chúng. Đây là một món bổng làm cho cái đầu của tên khổng lồ dào dạt lên được đây.
Chúng cho xe đi tới đỗ cách hai mét, kẹp lấy hai bên sườn cô. Khi chúng tắt máy, khu rừng liền lặng như tờ. Lundin hoàn toàn không biết nói gì. Cuối cùng hắn cố lên tiếng.
– Kìa, thế này là sao nhỉ? Bọn tao tìm mày mãi, Salander. Sonny, hãy gặp Quý cô Salander đi.
Hắn mỉm cười. Mắt Salander vô hồn nhìn Lundin. Cô để ý thấy vẫn có một lằn sẹo mới khỏi còn đỏ tươi ở má và quai hàm hắn, hai chỗ đã bị cô cào rách bằng chùm chìa khóa. Cô ngước mắt lên nhìn vào các ngọn cây ở đằng sau hắn. Rồi lại cúi nhìn xuống. Hai con mắt đen lạnh lùng của cô khiến cho người đối diện phải lúng túng.
– Tao vừa bị một tuần thảm hại và tao đang bực bõ đây. – Cô nói. – Mày biết điều tồi tệ nhất là gì rồi chứ? Là mỗi lần tao dớ phải một đống cứt lợn với cái bụng bia bự con mẹ nhà nó định ngáng đường tao. Nay tao muốn rời đi đây. Nào, tiến lên đi.
Miệng Lundin há hốc ra. Hắn nghĩ hắn nghe lầm. Rồi hắn bất giác phá lên cười. Tình huống nhố nhăng. Một con bé xương xẩu hắn nhét vừa vào túi ngực thế mà đứng ở đây nói láo nói lếu với hai người đàn ông to lớn mặc đai da bảo hộ bụng, cái điều cho thấy chúng là ở Câu lạc bộ Xe Máy Svavelsjo, tức là những dân chơi xe máy nguy hiểm nhất, sắp sửa lên làm thành viên chính thức của Các Thiên thần Địa ngục. Chúng có thể xé tan xác cô ra rồi nhét vào túi yên xe của chúng.
Nhưng nếu cô gái có ngon xơi như miếng gatô nho – mà rõ ràng là thế, theo như lời báo chí và theo như cái hắn đang trông thấy ở trước căn nhà của Bjurman đây – thì phù hiệu câu lạc bộ của chúng vẫn cứ bắt con người ta phải kính nể. Thế mà con bé lại không tỏ ra một chút kính nể nào. Lối ăn nói ấy là không tha thứ được, bất chấp tình huống này nực cười đến thế nào. Hắn liếc Nieminen.
– Tao nghĩ con ô môi này cần một củ thìu, Sonny. – Hắn nói, tụt khỏi chiếc Harley – Davidson, gạt chân chống.
Hai đứa từ từ đi đến ngó xuống Salander. Cô không nhích một li. Lundin lắc đầu thở dài. Rồi hắn cho một cú quạt trái tay, mạnh như cú hắn đã đánh Blomkvist trên đường Lundagatan.
Hắn đã đấm trúng vào trống không. Vào lúc tay hắn sắp chạm mặt cô gái thì cô đã lùi lại một bước, đứng ở đó, ngoài tầm tay của hắn.
Nieminen tì lên ghi đông chiếc Harley, thú vị nhìn xem đứa bạn thành viên câu lạc bộ của hắn. Mặt đỏ gắt, Lundin thoi tiếp vào cô hai quả. Cô lại lùi. Lundin quay ngoắt nhanh hơn.
Thình lình dừng phắt lại, Salander trút luôn một nửa bình xịt Mace vào mặt hắn. Mắt hắn cháy bỏng như bốc lửa. Phóng ra hết sức mạnh, biến thành một năng lượng điều khiển từ xa, mũi bốt của cô đá trúng bìu hắn với một sức nặng chừng 120 kilô trên một phân vuông. Lundin thở ngắc, khuỵu gối xuống, ở ngang tầm cao thuận tiện cho Salander. Cô đá vào mặt hắn, cố tình, y như đang đá cú phạt 11 mét trên sân bóng. Có tiếng nứt vỡ ghê rợn rồi Lundin đổ kềnh ra như một bao tải khoai tây.
Phải mất vài giây để cho Nieminen nhận ra là có cái gì đó không thể tin được vừa diễn ra trước mắt hắn. Cố gạt chân chống cho chiếc Harley của hắn nhưng bị trượt, hắn phải cúi nhìn xuống. Hắn bèn quyết định chơi cho chắc ăn nên bắt đầu chộp lấy khẩu súng lục hắn để ở bên trong túi của đai da bảo hộ bụng. Khi đang kéo khóa xuống thì hắn bị trúng một quả vào đuôi mắt.
Hắn ngửng lên đã thấy Salander lao đến như quả đạn đại bác. Cô lấy hết sức song phi cả hai chân vào hông hắn, không đủ làm cho hắn bị thương nhưng đủ để cho hắn cùng với cỗ xe ngã lăn ra. Suýt bị kẹt chân vào dưới cỗ xe, hắn loạng choạng lùi sau vài bước rồi mới lấy lại được thăng bằng.
Khi hắn lại nhìn rõ được cô thì hắn thấy tay cô vung lên và một hòn đá to bằng quả đấm bay vèo đến. Hắn tránh, hòn đá sạt qua cách đầu hắn vài phân.
Cuối cùng hắn lấy được súng ra, cố tháo chốt an toàn nhưng khi hắn ngửng đầu lên lại thì Salander đã ở trước mặt hắn. Hắn nhìn thấy sự dữ dằn trong mắt cô và lần đầu tiên hắn bị một cơn khiếp đảm khiến cho hắn rụng rời.
– Chúc ngủ ngon hả. – Salander nói.
Cô chĩa khẩu súng bắn điện vào bìu hắn, bắn cho hắn 50.000 vôn, giữ hai điện cực nán lại lâu trên người hắn ít nhất hai chục giây. Nieminen từ nay đã được cô cho biến thành ngọn rau lá cỏ.
Nghe có tiếng động ở đằng sau, Salander quay ngoắt lại thấy Lundin đang lóp ngóp cố quỳ lên trên đầu gối. Cô nhướng lông mày nhìn hắn. Hắn đang mù tịt sờ lần trong sương khói của thuốc xịt Mace.
– Tao giết mày! – Hắn thì thầm.
Hắn quờ quạng xung quanh, cố nhận ra chỗ Salander đứng. Cô thận trọng nhìn hắn. Rồi hắn nói:
– Con điếm đ. mẹ nhà mày.
Salander cúi xuống nhặt khẩu súng của Nieminen, nhận ra nó là một khẩu Wanad P.83 của Ba Lan. Cô tháo hộp đạn, kiểm xem nó đã dược nạp đúng đạn 9 li Makarov không. Cô lên đạn. Cô bước qua Nieminen đi đến Lundin, ngắm bằng cả hai tay và bắn một phát vào bàn chân hắn. Hắn rú lên vì sốc rồi lại đổ sụp xuống.
Cô nghĩ có nên bớt thì giờ hỏi về tung tích tên khổng lồ mà cô đã trông thấy ngồi với hắn ở quán Cà phê Blomberg không. Theo Sandstrom, thì tên đó được Lundin giúp đỡ đã giết một người ở nhà kho. Hừm. Cô sẽ phải chờ nổ súng thì mới hỏi được điều cần hỏi.
Lundin bây giờ xem vẻ không đủ bình tâm để sáng suốt chuyện trò được rồi, và lại có khả năng một ai đó đã nghe thấy tiếng súng. Vậy cô cần rời chỗ này ngay. Một ngày tới đây cô còn có thể gặp Lundin để hỏi hắn trong những hoàn cảnh đỡ căng thẳng hơn. Cô cài chốt an toàn cho khẩu súng, kéo khóa túi jacket rồi nhặt ba lô lên.
Đi xuôi con đường được chừng mười mét cô đứng lại nhìn quanh. Cô thong thả lui lại quan sát cỗ xe máy của Lundin.
– Harley – Davidson. – Cô nói. – Hay đấy.