*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
“Khi yêu một ai đó, bạn đón nhận họ trọn vẹn, cùng tất cả những ràng buộc, tất cả những nghĩa vụ của họ. Bạn đón nhận câu chuyện đời họ, cả quá khứ lẫn tương lai. Bạn đón nhận tất cả, hoặc không gì cả.”
R. J. ELLORY
Greenwich Village
5h sáng
Jonathan giật mình tỉnh giấc trong tư thế đầu tựa vào hõm vai Madeline. Dù bất chợt tỉnh ngủ nhưng anh vẫn cảm thấy vô cùng dễ chịu. Ngôi nhà đã được sưởi ấm. Bên ngoài nổi lên tiếng gió thổi ù ù và nhịp đập phập phồng của thành phố. Anh nhìn đồng hồ, nhưng vẫn nằm lại một lúc, tựa vào cơ thể mềm mại và ấm nóng kia. Rồi anh tự kiềm chế, lẳng lặng rời khỏi cái bong bóng ấm áp của tình yêu chớm hình thành.
Anh mặc thêm áo pull và quần jean trước khi khép cánh cửa phòng ngủ lại để xuống phòng khách. Anh lấy từ túi áo măng tô ra bản photo mà Madeline đã đưa cho hôm qua: bức thư điện tử in trộm từ máy tính của George.
Từ: Francesca Del Lillo Tới: George LaTulip Chủ đề: Re: Ngày: 4 tháng Sáu, 2010 19:47 George, Tôi van anh, hãy từ bỏ kế hoạch tới San Francisco gặp Jonathan. Chúng ta đã quyết định đúng. Đã quá muộn để cảm thấy cắn rứt rồi, tôi tin là anh đã hiểu khi đọc những gì người ta viết trên báo… Quên Jonathan và những gì đã xảy đến với bọn tôi đi. Hãy để anh ấy làm lại cuộc đời. Nếu anh thú nhận với anh ấy sự thật, anh sẽ đẩy cả ba người chúng ta vào thảm cảnh và anh sẽ mất tất cả: công việc của anh, căn hộ của anh, cuộc sống dễ chịu anh đang có. F. |
||
Jonathan ngồi vào bàn làm việc bằng gỗ sồi bày sẵn máy tính. Claire hẳn đã quen với việc cho bạn bè cô mượn căn hộ này: một tờ bướm dính trên màn hình ghi rõ password để mở trình duyệt “khách”. Jonathan kết nối máy tính với Internet rồi dành thời gian đọc lại bức thư. Như vậy là Francesca không ngoại tình với George phản bội anh… Anh khó có thể tin được chuyện này. Tại sao phải dựng lên cái kịch bản bỉ ổi này? Để che giấu một bí mật khác ư?
Đọc bức thư đến lần thứ ba, anh gạch chân câu “tôi tin là anh đã hiểu khi đọc những gì người ta viết trên báo…” Francesca định ám chỉ điều gì? Bức thư được viết ra hồi tháng Sáu. Madeline thổ lộ với anh rằng cô đã xem xét tỉ mỉ những bài báo xuất bản những tháng trước đó có nhắc tên Francesca và George nhưng không tìm thấy hướng điều tra nào cụ thể.
Anh cố nén một cái ngáp, đứng dậy pha một tách cà phê trước khi bắt tay vào việc tra cứu kho lưu trữ của báo mạng. Lời giải thích cho điều bí ẩn này dĩ nhiên nằm trong đó. Sau khoảng một thời gian, anh đọc được một bài báo lạ thường trên tờ Daily News:
BAHAMAS
PHÁT HIỆN THI THỂ MỘT NHÀ TÀI CHÍNH TRONG DẠ DÀY CÁ MẬP!
Hôm thứ Năm vừa qua, khi khởi hành đi câu cá song ngoài khơi đảo Columbus, một chủ du thuyền đã phát hiện ra chuyện rùng rợn sau khi giăng lưới bắt lên được một con cá mập. Đang lúc bị kéo lên thuyền, con cá đã khạc ra ra một đoạn xương dài rất giống với xương cánh tay. Quá kinh ngạc, người đàn ông đã báo cho đội tuần tra đường biển, họ quyết định mổ phanh bụng con cá mập và tìm thấy trong đó những mẩu xương người khác, đặc biệt là một mảnh xương lồng ngực và một mảnh xương hàm.
Nhờ phân tích ADN lấy từ những mảnh xương đó, cảnh sát Bahamas đã nhận dạng được cái xác. Đó là doanh nhân người Mỹ, Lloyd Warner, phó chủ tịch tổ hợp khách sạn hạng sang Win Entertainment. Ở tuổi bốn lăm, ông Warner đã mất tích từ ngày 28 tháng Mười hai vừa qua sau khi xuất hiện tại sân bay New York trong một cửa hàng quần áo may sẵn, khi vừa trở về từ Bahamas.
Jonathan không tin vào mắt mình. Lloyd Warner đã chết cách đây hai năm mà giờ anh mới biết. Lloyd Warner, giám đốc tài chính của Win Entertainment… Kẻ đã đẩy anh tới chỗ khuynh gia bại sản sớm hơn khi từ chối gia hạn khoản nợ của tập đoàn Thống Soái. Trong chớp mắt, ký ức về những giờ phút đen tối bỗng sống dậy trong tâm trí: vòng nợ luẩn quẩn, sự phá sản của tập đoàn anh gây dựng, những khó khăn tài chính khi Francesca phải vật lộn đấu tranh chống lại động thái nắm quyền kiểm soát của Warner cùng bầy kền kền dưới trướng hắn, những kẻ lúc trước từng hùn vốn với họ đã trở thành một lũ chim săn mồi.
Phải chăng vợ cũ của anh định ám chỉ bài báo này trong bức thư viết cho George? Cô đóng vai trò gì trong cái chết của Lloyd Warner? Nhưng với mục đích gì, bởi hành động này cũng không thể giúp được tập đoàn của họ thoát cảnh phá sản kia mà?
Bối rối vì phát hiện này, Jonathan vội vàng in trang báo đó ra, viết cho Madeline vài dòng lên tấm bảng con treo tường. Rồi anh khoác áo măng tô và cầm theo chùm chìa khóa ô tô treo gần cửa ra vào.
Ngay khi tới nơi, Jonathan đã nhận ra chiếc Smart màu xanh quả hạnh của Claire đỗ trong ngõ riêng. Cái lạnh mỗi lúc một thêm cắt da cắt thịt. Anh khởi động chiếc xe nhỏ rồi làm ấm động cơ bằng cách nghe trên kênh tin tức phần mở đầu loạt tin vắn:
“… hôm nay tại California sẽ diễn ra phiên tòa xét xử Jezebel Cortes mang quốc tịch Mexico, người thừa kế của thủ lĩnh một cartel buôn ma túy. Mang biệt danh ‘La Muneca’, cô gái là con của bố già…”
Nhưng anh chẳng còn tâm trí đâu mà dõi theo tràng lải nhải tất cả những nỗi bất hạnh của thế giới. Anh tắt radio trên xe rồi tiến vào phố Grove. Vào giờ sáng sớm này, đường sá vẫn thông thoáng. Đại lộ 7, phố Varick rồi phố Canal… Anh lần lại phố xá New York, lái xe trên quãng đường anh đã từng đi hàng trăm lần khi vẫn còn sống tại nơi đây.
Liếc qua kính chiếu hậu, anh nhận ra chiếc Ferrari màu đen giữa đám taxi vàng. Ngay cả khi có tiền anh cũng chưa bao giờ là một người mê xe, nhưng chiếc xe này lại khác. Ngày anh còn bé, bố đã tặng anh một phiên bản thu nhỏ của chiếc xe này: một chiếc 250 GT California Spyder khung ngắn. Một trong những chiếc ô tô hiếm nhất và đẹp nhất trong lịch sử, sản xuất với số lượng hạn chế, vỏn vẹn vài chục phiên bản, vào đầu những năm 1960. Anh chỉ vừa kịp ngoái nhìn thì chiếc xe mui trần đã lách sang phải và tăng tốc nhanh như chớp trước khi biến mất về phía SoHo.
Điên thật…
Dù cho TriBeCa có là một trong những khu phố đắt đỏ nhất Manhatta, Jonathan chưa bao giờ thực sự cảm thấy thoải mái ở đây vì thấy nơi này thiếu hẳn vẻ duyên dáng và hài hòa.
Anh đậu xe ở khu vực gàn nhất với tòa nhà nơi vợ cũ sống. Excelsior, một khu nhà bề thế khoảng mười lăm tầng được xây từ những năm 1920. Mới đây, các thành viên góp vốn đã chiếm tòa khách sạn cổ xây dựng theo phong cách Art decó này, cải tạo và biến nó thành một loạt các căn hộhigh-tech nhằm nhắm đến phân khúc khách hàng triệu phú.
– Chào Eddy! anh nói khi bước vào tòa nhà.
Chặt chẽ trong bộ đồng phục màu hạt dẻ có cầu vai mạ vàng, người gác cổng phải mất một lúc mới nhận ra anh.
– Ông Lempereur! Chuyện này, đúng là bất ngờ quá…, ông buột miệng thốt lên, đưa tay chỉnh lại mũ.
– Tôi muốn gặp Francesca. Ông báo giúp cô ấy là tôi đang đợi dưới sảnh được không?
– Lúc này vẫn còn sớm mà…
– Làm ơn, Eddy, chuyện thực sự quan trọng mà.
– Tôi sẽ gọi trực tiếp vào điện thoại của bà ấy.
Vóc dáng bệ vệ kiểu B. B. King, Eddy Brock là “người nắm tay hòm chìa khóa” của tòa nhà, xét theo mọi nghĩa của cụm từ, người nắm giữ bí mật của mọi cư dân trong tòa nhà: cãi cọ, ngoại tình, bạo hành, nghiện ngập,… Tùy vào chuyện bạn duy trì quan hệ tốt hay xấu với ông ta mà cuộc sống của bạn sẽ vô cùng dễ dàng hay trở thành địa ngục.
– Được rồi, thưa ông, bà ấy đang đợi ông đó.
Jonathan gật đầu cảm ơn người gác cổng rồi bước về cuối sảnh bấm nút gọi thang máy. Anh bấm tiếp mã số riêng để buồng thang máy lên thẳng căn hộ của vợ cũ, mở cửa ở đúng phòng đợi của căn hộ hai tầng ốp kính tọa lạc tại hai tầng trên cùng của tòa nhà.
Jonathan tiến vào phòng khách, một căn phòng rộng thênh thang, sàn lát đá dung nham, bài trí đồ nội thất đương đại bằng gỗ vàng nhạt và gỗ hồ đào. Ở đây, mọi thứ đều tuân thủ bản vẽ thiết kế đồng bộ và theo phong cách tối giản. Hai lò sưởi high-tech dài lồng khít trong phần mái kim loại nhô ra đang tỏa ra chừng chục ngọn lửa nhỏ trong khi những khoảng ốp kính rộng trông ra vịnh Hudson đã xóa nhòa ranh giới giữa phần bên trong nhà và sân thượng. Một ngày mới đang bắt đầu với ánh sáng đẹp một cách huyền ảo, pha trộn giữa hồng, tía và xám trắng.
Mặc dù đã từng sống tại đây hai năm nhưng Jonathan vẫn cảm thấy mình như người lạ. Khu vườn tiểu cảnh, khoảng sân thượng rộng bốn trăm mét vuông, tầm nhìn ngạo nghễ, dịch vụ gác cổng hai tư trên hai tư, nhân sự phục vụ tại nhà, bể bơi nước nóng dài hai mươi mét, phòng tập thể dục, phòng tắm hơi… Thời còn là “Thống soái”, anh thấy mọi thứ tiện nghi xa xỉ này hết sức bình thường. Bây giờ, anh có cảm giác ngày xưa mình đã từng mắc chứng hoang tưởng tự đại và giờ chỉ còn là một gã người trần mắt thịt tới thăm các vị thần trên đỉnh Olympia.
Francesca từ căn phòng trên gác bước vội ra.
– Charly có chuyện gì sao?
– Charly ổn cả. Thằng bé vẫn ở San Francisco cùng em trai em.
Yên tâm, cô bước xuống cầu thang bằng kính đem lại cảm giác cô đang bồng bềnh trôi trong không trung.
Lúc này hãy còn sớm, cô chắc đã xỏ vội chiếc quần jean đen và áo pull cổ chữ V vải cachemire màu be. Vậy mà cô vẫn xuất hiện một cách hoàn hảo không chê vào đâu được. Cô có vẻ quyền quý, kiêu sa thường thấy ở những thành viên các gia đình đã sống qua nhiều thế hệ trong giàu sang nhung lụa. Tiền của cô được đóng dấu “given, not earned”[1]. Có lẽ đó cũng chính là thứ đã chia cắt họ. Anh thì ngược lại, đã kiếm ra tiền… trước khi đánh mất.
[1]. Tiếng Anh trong nguyên bản: được biếu, không phải kiếm ra. (Chú thích của tác giả)
– Em đã giết hắn, phải không? Anh hỏi rồi đưa cho cô tờ giấy in bài báo về cái chết của Lloyd Warner.
Cô thậm chí không buồn cúi xuống đọc bài báo. Cô không hỏi anh đang nói về ai. Cô chỉ đứng im đó một lúc trước khi tới ngồi trên trường kỷ, quấn mình trong chiếc khăn choàng.
– Ai nói với anh như thế? Tên ngốc George chăng? Không… dĩ nhiên là không…
– Chuyện đã xảy ra thế nào?
Cô nhắm mắt, để mặc cho ký ức ùa về.
– Hồi đó là cuối tháng Mười hai, cách đây vừa tròn hai năm…, cô bắt đầu kể. Anh đưa em ra sân bay và em nói mình tới Luân Đôn để thăm một trong những nhà hàng của chúng ta. Em đã nói dối. Tuần trước đó, em được tin Lloyd Warner sẽ tới Nassau thuộc Bahamas để thương thảo hợp đồng liên quan đến một trong những casino của chúng. Em đã quyết định mình cũng sẽ tới đó, để thuyết phục hắn chấp nhận gia hạn cho khoản nợ của chúng ta. Khi tới nơi, em đã để lại lời nhắn cho hắn tại khách sạn nơi hắn ở, đề nghị hắn tới Columbus gặp em. Hồi ấy, anh còn chưa biết đến vòng xoáy nợ nần khổng lồ của chúng ta. Hệ thống nhà hàng của chúng ta bắt đầu phát triển, nhưng khủng hoảng kinh tế tài chính đã kìm hãm đà tăng trưởng của chúng ta. Em muốn Win Entertainment cho chúng ta thêm thời gian để trả nợ, và không có cách nào trực tiếp nói chuyện tay đôi với hắn tại New York.
– Hắn đã tới gặp em?
– Vâng. Em và hắn đã ăn tối cùng nhau. Em đã cố thuyết phục hắn cho chúng ta thêm thời gian, nhưng hắn không thèm nghe. Thay vào đó, hắn dành cả buổi tối để tán tỉnh em một cách trơ trẽn đến nỗi em phải rời khỏi bàn trước khi món tráng miệng được mang ra.
Một cô giúp việc bước vào phòng khách, mang theo chiếc khay đựng ấm trà và hai cái tách. Francesca chờ cho cô ta ra ngoài mới nói tiếp:
– Em cứ ngỡ hắn đã đi rồi, nhưng Lloyd Warner đã lên tận phòng em để đề nghị một cuộc mua bán. Hắn đồng ý sẽ cố gắng tác động tích cực đến khoản nợ của chúng ta, nhưng đổi lại…
– …em phải ngủ với hắn ta.
Cô gật đầu xác nhận:
– Khi em đuổi hắn ra ngoài, hắn liền đóng cửa phòng lại và nhảy xổ vào em. Hắn đã uống quá chén và dĩ nhiên đã hít không ít ma túy. Em đã kêu, nhưng cùng thời điểm đó trong khách sạn đang diễn ra một đám cưới hết sức náo nhiệt. Trong lúc giằng co, em với được một bức tượng trang trí bàn đầu giường: một bức mô phỏng tác phẩm bằng đồng thau của Giacometti. Em đã giáng thật mạnh vào đầu hắn. Hắn gục xuống. Thoạt đầu em tưởng hắn ngất đi, nhưng hắn đã chết.
Bàng hoàng, Jonathan quyết định tới ngồi trong chiếc ghế bành gần chỗ Francesca nhất. Xanh xao và thu mình trong chiếc khăn choàng, vậy mà dường như cô vẫn hết sức bình tĩnh. Còn Jonathan, anh không biết nên cảm thấy nhẹ lòng hay giận điên lên nữa. Hai năm bí ẩn vừa được tháo gỡ chỉ qua một vài câu nói. Hai năm không thể tin tưởng vào bất cứ ai bởi anh đã không lường trước được sự phản bội của vợ… Bởi một lý do hết sức chính đáng là cô không hề phản bội anh.
– Sao em không báo cảnh sát?
– Anh thực lòng nghĩ họ sẽ tin vào câu chuyện tự vệ chính đáng của em ư? Với những khoản nợ của chúng ta? Với những lời nhắn mà em đã gửi cho hắn để hắn đến gặp em?
– Em đã làm gì với cái xác?
– Em xuống phòng khách sạn thiết kế kiểu nhà sàn nơi trước đây chúng ta đã từng nghỉ. Em nảy ra ý dùng con tàu mà khách sạn để khách hàng tùy nghi sử dụng. Đó là một chiếc Hacker Craft nhỏ bằng gỗ gụ, anh nhớ chứ? Em đã lái tàu tới bến nổi của phòng khách sạn và kéo cái xác lên ca bin. Trời tối đen như mực. Em đã cầu nguyện để không gặp phải đội tuần tra đường biển, rồi em quẳng cái xác của tên… đểu đó cách bờ chừng hai mươi dặm. Trước đó, em đã nhanh trí lấy ví cùng điện thoại di động của hắn.
– Ở khách sạn không ai nhận ra là em đã sử dụng tàu chứ?
– Không, đám cưới đang thu hút sự chú ý của toàn bộ nhân sự. Anh có thấy em có xấu xa không?
Bối rối, Jonathan quay đi để tránh cái nhìn của Francesca. Đã quyết khơi bằng sạch ung nhọt, vợ cũ của anh không im lặng lâu.
– Em đã quá sợ, cô tiếp. Nếu biết Warner mất tích tại Bahamas thì người ta sẽ nhanh chóng lần ra em. Có tới hàng chục con người đã nhìn thấy em và hắn ăn tối cùng nhau. Hy vọng duy nhất của em là người ta không tìm ra xác hắn ngay lập tức – để đạt được mục đích ấy, em đã buộc theo cái xác hòn gang làm tải trọng dằn trên tàu – và nhất là, để khiến tất cả mọi người tin rằng Warner đã quay về Mỹ. Khi truy cập hòm thư điện tử qua điện thoại di động của hắn, em bắt gặp một mail mời hắn đăng ký chuyến bay khứ hồi. Em đã kết nối tới trang web của hãng hàng không đó và điền form đăng ký. Chuyện đó em có thể tự làm, nhưng cần có ai đó xuất hiện bằng xương bằng thịt để ngồi vào chỗ của Lloyd trên máy bay. Vậy nên em nghĩ đến George vì ngoại hình của gã hơi giống Warner.
– Em dùng George làm chứng cứ ngoại phạm sao?
– Vâng. Bằng cách phao tin hắn là người tình của em, em có thể biện bạch cho việc mình xuất hiện ở Bahamas và khẳng định chính hắn mới là người có mặt ở khách sạn cùng em. Từ đó mới có những bức ảnh dành cho tay paparazzi của địa phương chụp. Nhất là George đã dùng giấy tờ tùy thân của Lloyd để bay chuyến khứ hồi. Và khi về đến New York, em đã yêu cầu gã mua sắm nhiều lần với thẻ tín dụng em lấy từ áo vest của Warner. Vài ngày sau, khi người ta báo tin Warner mất tích, cảnh sát tin chắc rằng hắn đã quay về Manhattan. Vậy là không ai tìm cách điều tra về Bahamas cho tới khi người ta tìm thấy xác hắn, sáu tháng sau.
– Hiện tại cuộc điều tra đã tới đâu rồi?
Vẫn không động đến tách trà của mình, Francesca cầm bao Dunhill đang để trên mặt bàn thấp rồi châm một điếu.
– Em không biết. Theo em thì họ đã xếp hồ sơ lại rồi. Dù thế nào thì cũng chưa có ai hỏi cung em cả, vì chính thức ra thì người cùng em ăn tối không phải là hắn, mà là George.
Bị kìm nén quá lâu, cơn giận của Jonathan bùng phát:
– Tại sao em không gọi cho chồng của em là anh? Em có ít lòng tin với anh đến thế sao? Không nói với anh về chuyến đi thì còn chấp nhận được, đằng này lại giấu anh cả một vụ giết người!
– Để bảo vệ hai người, Charly và anh! Đúng ra là để không biến anh thành đồng phạm trong một vụ giết người! Để cả hai chúng ta không phải đi tù! Kế hoạch em vạch ra mười phần thì có đến chín phần cầm chắc thất bại. Anh cứ thử nghĩ xem: nếu chúng ta bị bắt thì ai sẽ nuôi dạy con đây?
Jonathan cân nhắc lý lẽ vừa được đưa ra. Nó vững chãi, và bản thân anh cũng một phần khâm phục sự bình tĩnh, logic không suy chuyển cùng trí thông minh hơn người mà nhờ đó Francesca đã thoát được rắc rồi và bảo vệ gia đình. Anh có khả năng xây dựng một kịch bản tương tự không? Hẳn nhiên là không. Hẳn nhiên là anh sẽ phản ứng như một kẻ có tội. Hẳn nhiên là anh sẽ để mặc cảm xúc của mình thắng thế…
Bất chợt, cảm giác phi lý và hỗn độn trong anh, hậu quả từ cuộc chia tay giữa họ, vụt bay biến. Chuyện xảy ra với họ đã mang một ý nghĩa. Nhưng ngay trong khoảnh khắc này, Jonathan nhận ra rằng giờ đây anh đang nhìn Francesca như một người xa lạ. Anh không còn dành cho cô chút nhiệt tình, chút tình cảm nào, như thể từ giờ trở đi giữa họ đã vĩnh viễn hình thành một rào chắn vô hình.