Dấu Chân Của Chúa

Chương 34



Mắt tôi mở như mắt trẻ sơ sinh, choáng ngợp vì ánh sáng nguyên sơ của thế giới. Khi tôi chớp mắt vì ánh đèn trên đầu, cơ thể tôi réo gào vì cơn đói quặn thắt và hối thúc dồn dập phải giải phóng bọng đ-á-i. Tôi ngồi dậy nhìn quanh. Tôi đang ngồi trong một phòng điều trị y tế. Tôi đã từng làm việc trong hàng chục căn phòng như thế này.

Nước. Tôi nghĩ. Tôi cần nước.

Có tiếng phụ nữ ở đâu đó, “Tôi biết cảm ơn ông thế nào đây.” Tiếng nghe thân quen. Tôi lắng nghe thêm, nhưng không thấy nói gì nữa.

Cửa phòng mở. Rachel bước vào và đứng chết lặng. Nàng vụt đưa tay lên bưng miệng, và bắt đầu tiến về phía tôi.

“David, anh có nghe em nói không?”

Tôi giơ tay lên, và nàng ngừng bặt.

“Anh đã bị hôn mê. Anh bất tỉnh mất…” nàng nhìn đồng hồ đeo tay, “…mười lăm giờ. Hầu hết thời gian là hôn mê alpha. Em đã tưởng anh bị chết não.” Nàng chỉ vào mặt tôi. “Sao anh lại khóc?”

Tôi quệt tay lên mặt. Tay tôi đẫm nước. “Anh không biết.”

“Anh có nhớ gì không? Lúc ngất trong nhà thờ ấy?”

Tôi nhớ mình đã quỳ xuống, thò ngón tay qua cái lỗ trên đĩa bạc. Một luồng năng lượng chạy qua cánh tay tôi lên thẳng não, nó mạnh ngoài sức chịu đựng. Tôi cảm thấy như trí óc mình là một chiếc găng tay nhỏ xíu mà một bàn tay khổng lồ nào đấy đang cố xỏ vào, toàn thân tôi rung lên. Rồi…

“Anh nhớ anh bị ngã.”

“Anh có nhớ những gì sau đó không?”

Tôi thấy mình ngã xuống sàn nhà, nhưng trước khi chạm tới sàn, thì ranh giới cơ thể tôi bỗng tan biến, tôi cảm thấy mình đồng nhất với mọi thứ xung quanh: mặt đất và nền đá nhà thờ, lũ chim làm tổ trên vách đá, những bông hoa trong sân nhà thờ phát tán phấn hoa theo gió. Tôi không ngã, mà bồng bềnh trôi, tôi thấy một thực tại sâu hơn nằm bên dưới thế giới vật thể, một ma trận xao động mà tất cả các đường ranh đều mơ hồ, trong đó các hạt phấn hoa không phân biệt với làn gió, trong đó vật chất và năng lượng chuyển động trong một vũ điệu vĩnh hằng, sự sống và cái chết chẳng qua chỉ là sự thay đổi trạng thái của cả hai. Nhưng ngay khi tôi còn bay lơ lửng, trôi bềnh bồng trong thế giới như một con sứa có nhận thức, tôi cảm thấy bên dưới cái ma trận xao động của vật chất và năng lượng ấy có gì đó còn sâu hơn nữa, như một lớp nền lùng bùng, cũng phù du và vĩnh cửu như các định luật toán học, không nhìn thấy được nhưng cũng không thay đổi được, nó điều hành tất cả mà không phải dụng công gì.

Tiếng lùng bùng ấy thật sâu xa, giống như những tuốc bin quay ở giữa đập. Khi lắng nghe, tôi nhận ra một mô thức có tính chất số hơn là giai điệu, như một điệu nhạc chưa được khám phá mà các nốt và gam của nó nằm ngoài tầm hiểu biết của tôi. Tôi điều chỉnh đầu óc mình thích ứng với âm thanh, tìm kiếm các đoạn lặp, chìa khóa khóa giải mã khó nắm bắt. Thế mà cho dù đã lắng nghe bằng cả tâm hồn mình, tôi cũng không hiểu được ý nghĩa nằm trong âm thanh này. Chẳng khác nào nghe tiếng mưa bão mà cố định hình từng giọt mưa khi nó chạm đất. Lòng tôi mong mỏi hiểu được cái mệnh lệnh tàng ẩn kia, bản tổng phổ vĩ đại của mưa rơi.

Và tôi vụt hiểu. Hình mẫu mà tôi tìm kiếm chẳng phải là một hình mẫu nào hết. Nó chỉ là sự hỗn loạn. Một sự hỗn loạn như mớ bòng bong tràn lấp cái tưởng như là trật tự thế giới. Và chính trong khoảnh khắc ấy tôi bắt đầu nhìn rõ hơn bao giờ hết, nghe thấy cái mà ít người từng nghe – giọng nói của…

“David, anh có nghe thấy em nói không?”

Tôi chớp mắt và cố buộc mình tập trung vào các vật xung quanh. Các tủ thuốc. Một máy điện não đồ có bánh xe. Đôi mắt mệt mỏi của Rachel.

“Anh có nghe.”

Nàng bước tới trước, vặn vẹo hai bàn tay. “Em đã gọi điện cho Washington. Em nói cho họ biết chỗ ở của chúng ta. Em không biết còn phải làm gì nữa.”

“Anh biết.”

“Anh có nghe cuộc điện đàm không?”

“Không.”

“Vậy sao anh biết?”

Cũng giống như cách tôi biết hiện giờ chúng tôi đang gặp nguy hiểm. Tôi nhìn xuống và bắt đầu rút ống truyền dịch ra khỏi cổ tay.

“Đừng làm thế.”

“Chúng ta phải đi.”

Măt nàng mở to. “Cái gì?”

“Anh rút ống ra làm chỗ này sắp chảy máu rồi. Em có thể tìm cho anh một cái băng không? Quần áo của anh đâu rồi?”

Nàng lao đến chỗ trống giữa chúng và ngăn tôi rút ống truyền dịch ra. “Anh David, bây giờ anh không còn là anh nữa. Anh đã bất tỉnh suốt đêm. Em đã gọi cho Evan McCaskell. Tổng thống đã điều Ravi Nara đến đây để điều trị cho anh. Trước đây anh ta đã biết loại hôn mê này rồi. Bản thân anh ta cũng từng bị hôn mê suốt ba mươi giờ, và khi tỉnh dậy không thấy có tác dụng phụ nào. Họ muốn giúp chúng ta…”

“Ravi Nara chưa bao giờ bị hôn mê alpha. Tác dụng phụ của MRI đối với y là những xung động tình dục không kiểm soát được. Chỉ có thế thôi.”

“Nhưng anh ta bảo em…”

“Y bảo em những điều mà y biết sẽ trấn an được em. Chúng ta phải đi thôi. Ngay bây giờ.”

“Nhưng tổng thống muốn biết sự thật. McCaskell bảo em thế, và em tin ông ấy.”

Không có cách nào để tôi thông báo những nhận thức bên trong mà không bị coi là điên. Tôi đứng lên, tấm chăn rơi khỏi người.

“Nếu ở lại đây, chúng ta chẳng còn sống để gặp tổng thống đâu. Anh có việc rất quan trọng cần làm. Em làm ơn đưa quần áo cho anh.”

Khi Rachel nhìn chiếc túi đặt ở góc phòng, tôi giật phăng ống truyền dịch ra khỏi cổ tay. Một dòng máu sẫm chảy tràn xuống mu bàn tay. Tôi đè chặt lên tĩnh mạch và chạy đến góc phòng kiếm miếng băng 4×4 trong một bình thủy tinh. Rachel trông thấy tôi làm thế liền dán chặt miếng gạc lên tĩnh mạch.

“Anh giữ tay vào đây,” nàng bảo. Rồi nàng đến lấy chiếc túi nhựa ở góc phòng đặt lên bàn khám bệnh. “Quần áo của anh đây.”

Chỉ có một tủ com mốt đặt cạnh tường, ngoài ra không có vách ngăn hay tấm rèm che nào để tạo thành một nơi kín đáo.

“Anh cần sử dụng cái đó,” tôi bảo nàng, tay chỉ chiếc tủ.

“Anh làm đi. Em thấy nó từ trước rồi.”

Tôi bước tới tủ com mốt và đứng quay lưng lại phía nàng.

“Tại sao anh lại nghĩ họ đến để giết chúng ta?” nàng hỏi.

“Bởi vì chúng vẫn giữ nguyên ý định. Và bây giờ chúng đã biết nơi ta ở.”

“Anh vẫn không tin một ai? Ngay cả tổng thống?”

“Tổng thống không hề hay biết chuyện đang thực sự xảy ra.” Tôi bước lại bàn mặc sơ mi vào, rồi thắt túi bao tử quanh hông.

“Nhưng anh muốn đi đâu bây giờ?” Rachel hỏi.

“White Sands.”

“Gì cơ?”

“Bãi thử White Sands.” Tôi cẩn thận kéo quần lên, rồi ngồi xuống nền nhà xỏ giầy. “New Mexico.”

“Tại sao anh muốn đến đó?”

“Đấy là nơi đặt nguyên mẫu Trinity thật.”

“Làm sao anh biết?”

“Anh biết, vậy thôi.”

Nàng lắc đầu. “David, anh làm em sợ.”

“Em đừng nghĩ nữa.”

“Khoan đã.” Nàng giơ một tay lên. “Đó là thứ có trong bức thư của Andrew Fielding. Bột thạch cao trắng. Cát Trắng – White Sands. Chắc đó là điều ông cố nói với chúng ta. Địa điểm thứ hai của dự án Trinity?”

“Đúng, ông ấy có cho chúng ta biết, nhưng ông không muốn bất cứ kẻ nào ngăn chặn bức thư biết là ông biết.” Tôi nhìn cánh cửa đóng kín. “Ta đang ở khu nào trong bệnh viện?”

“Khoa Cấp cứu.”

“Tốt. Tầng một. Em có biết lối ra không?”

“Có, nhưng…”

Tôi đứng đó nắm tay nàng. “Mọi việc đã thay đổi, Rachel ạ. Anh biết rõ mình phải làm gì. Nhưng trước hết chúng ta phải đi khỏi đây ngay.”

Tôi thấy niềm tin nàng dành cho tôi đang rạn vỡ dưới sức nặng của vai trò bác sĩ tâm thần và ý muốn tránh nguy hiểm của nàng.

“Em, giúp anh đi.”

Nàng nhắm mắt thở dài. Rồi nàng ra cửa sổ thử mở ra. Nhưng cửa sổ bị gắn kín và cài then bên ngoài.

Tôi đi ra cửa chính, mở hé ra. Hai y tá ngồi ở bàn tiếp nhận bệnh nhân, nhưng họ hơi quay đi phía khác. Một người đang nói chuyện điện thoại.

“Đi qua hai y tá này bằng lối nào?” tôi thì thầm hỏi.

“Hành lang dẫn đến bãi đậu xe cứu thương bên ngoài. Có một bảo vệ.”

Người bảo vệ đó có lẽ kiểm soát người đi vào hơn là đi ra, nhưng ở Israel này thì không biết được.

Người y tá không nói chuyện điện thoại đứng dậy đi về phía phòng điều trị. “Chuẩn bị,” tôi nói. Khi người y tá kia xao nhãng, chúng tôi rảo bước qua phòng đến lành hang dẫn ra ngoài.

Rachel vẫy người bảo vệ ngồi ở bàn, rồi dẫn tôi đi qua anh ta.

Tay bảo vệ nói gì đó bằng tiếng Hebrew.

Rachel đi chậm lại nhưng không dừng bước. “Anh có nói được tiếng Anh không?”

“Chút ít,” tay bảo vệ đáp.

“Sáng nay bác sĩ Weinstein bảo tôi đưa bệnh nhân này ra ngoài hít thở không khí trong lành. Anh có biết bác sĩ Weinstein không?”

Tay bảo vệ có vẻ bối rối. Rồi anh ta mỉm cười và vẫy tay như có ý nói, “Cứ đi đi, cứ đi đi.”

Chúng tôi tự do bước ra ngoài nắng sớm.

Hai chiếc xe cấp cứu đậu dưới một mái che bê tông phẳng. Tôi lỉnh nhanh sang bên trái nơi có một con đường bao quanh bệnh viện. Không có lối đi bộ, nên chúng tôi đi trên lề đường. Khi chúng tôi đi vòng quanh khu nhà, tôi nhìn thấy vòm nhà thờ đá rực vàng trong Thành Cổ. Con đường bên cạnh chúng tôi dẫn đến một đường đồi dài. Bên phải chúng tôi là một nghĩa trang lớn trông nhang nhác cảnh thuộc địa.

“Chúng ta phải gọi taxi,” Rachel nói. “Cuốc bộ thì chẳng đi đến đâu được.”

“Nghe kìa.”

Nổi lên trên tiếng rì rầm của thành phố dưới kia là một âm thanh khẩn cấp hơn nhiều. Tiếng còi.

Chúng tôi nấp sau một bụi cây thấp. Ba mươi giây sau, hai chiếc xe tải màu xanh thẫm lao nhanh lên đồi về phía chúng tôi. Trông không có vẻ là xe cấp cứu. Một chiếc rít lên đỗ trước cổng chính của bệnh viện, chiếc kia chạy vòng ra sau. Từ chiếc xe phía trước bước ra hai người mặc complet và một tổ cảnh sát bán quân sự mang tiểu liên.

“Ai đấy,” Rachel thầm thì.

“Có lẽ là Shin Beth. Một nhánh của cảnh sát mật vụ. Ai đó từ Washington đã gọi điện yêu cầu phong tỏa bệnh viện và ngăn chúng ta rời đi.”

“Ravi Nara bảo em rằng họ sẽ chuyển anh đến một bệnh viện an toàn hơn.”

“Nếu thế chúng có cần đến một đội cảnh sát cơ động không?” Tôi kéo nàng đứng lên. “Chạy thôi!”

Mặc dầu trên đường xuống đồi rất hiếm nơi ẩn náu, chúng tôi vẫn tận dụng bất kỳ chỗ nào tìm được trong khi chạy. Rachel muốn chạy về hướng Thành Cổ, nhưng tôi dẫn nàng lao về phố Churchill để đến khách sạn Hyatt Regency, suốt dọc đường không ngừng liếc về bệnh viện phía sau lưng. Chiếc xe tải vẫn đậu trước cửa. Tôi chỉ có thể hình dung ra cảnh săn lùng điên cuồng bên trong.

Một dãy taxi đậu trên đường Hyatt. Tôi trèo vào chiếc đầu tiên trong dãy, Rachel vào theo tôi.

“Người Mỹ à?” lái xe hỏi.

“Người Mỹ. Tôi cần một tiệm Internet.”

Người lái xe dường như suy nghĩ lung lắm. “Ông cần máy tính à?”

“Phải.”

“Trong khách sạn Hyatt có máy tính đấy. Cứ trả tiền nửa giờ.”

“Tôi cần một nơi công cộng. Tôi không thích khách sạn này.”

“Ở Jerusalem không có nhiều tiệm net lắm đâu. Ở Strudel có máy tính, nhưng bây giờ có lẽ họ chưa mở cửa.”

“Đưa chúng tôi đến đấy.”

Tay lái xe đề máy và đưa chúng tôi đến Ha Universita. Tôi thấy xe cảnh sát đậu san sát phía bên trái. “Đây là đâu?”

“Trụ sở Cảnh sát Quốc gia. Tôi hy vọng ông không muốn vào đấy.”

“Đến Strudel. Nhanh lên. Tôi có việc quan trọng.”

“Vâng, thưa ông. Chậm nhất là mười phút nữa.”

White Sands

Một người lính mặc đồng phục lái xe cho Ravi Nara ra đường băng. Đêm sa mạc dài vô tận đã có lúc làm cho Ravi khó chịu, nhưng đêm nay y thấy thoải mái. Khi chiếc xe Jeep đến gần đường băng, một chiếc Learjet chạy tới chạy lui quanh kho chứa máy bay, rồi đậu bên cạnh chiếc Gullstream 5 của Godin. Chiếc Lear màu đen và không có nhãn mác gì. Khi cửa xe mở, John Skow cúi người bước ra.

“Tôi cố liên lạc với anh mãi mà không được!” tay NSA kêu to. “Điện thoại của anh sao thế?”

Ravi liếc nhìn người lính hộ tống mình, nhưng anh ta có vẻ không quan tâm đến cuộc nói chuyện. “Tôi đang lên đường đi Jerusalem.”

Skow nắm cánh tay Ravi lôi y ra xa người lính khoảng mười bước. “Anh nói cái quái quỷ gì thế?”

“Peter cử tôi đi Jerusalem.”

“Ông ta còn sống à?”

“Còn.”

Sợ hãi và giận dữ khiến khuôn mặt Skow méo xệch. “Anh đã thử chưa?”

“Rồi. Mẹ kiếp!”

“Tại sao Peter cử anh đi Jerusalem?”

“Để đảm bảo cho Tennant chết.”

Skow ngật đầu ra sau như người ta cầu Chúa phù hộ. “Quên chuyện đó đi. Anh sẽ không đi đâu cả. Tennant đã chuồn khỏi bệnh viện Hadassah rồi.”

“Nhưng… họ nói hắn đang bị hôn mê alpha.”

“Chắc hẳn hắn đã qua khỏi rồi. Rõ ràng không phải Rachel Weiss chữa cho hắn.”

Ravi không thể nào tin nổi. “Có lẽ có ai đó đã làm được.”

“Trời ơi là trời,” Skow thở. “Bọn Israel. Chúng sẵn sàng làm tất cả để sở hữu công nghệ Trinity.”

Ravi không muốn nghĩ đến Trinity. “Anh có biết Geli Bauer đang ở đâu không, John?”

Skow tò mò nhìn y. “Tất nhiên. Bệnh viện Walter Reed chứ đâu.”

Ravi lắc đầu, dạ dày nôn nao. “Thế mà tôi đã nghĩ anh phải khá hơn. “

“Anh đang nói cái gì vậy?”

“Geli đang ở đây, bảo vệ Peter.”

Mặt Skow trắng bệch.

“Sao anh lại không biết?”

“Con chó cái ấy gọi di động cho tôi cả ngày, nói rằng các bác sĩ ở Walter Reed rất giỏi.”

“Anh đã nói với tôi rằng cô ta ở về phe mình.”

“Nó nói thế đấy. Tôi phải gọi điện cho cha nó bây giờ.”

Người lính lái xe cho Ravi bước lại gần. “Bác sĩ Nara, đã đến giờ ông lên máy bay.”

Skow nói với người lính bằng giọng ra lệnh. “Hạ sĩ, tôi phải đưa bác sĩ Nara quay trở lại để gặp ngài Godin. Tình hình ở Israel đã thay đổi.”

Ravi không có ý định ở lại New Mehico. “Tôi sẽ bay sang Jerusalem, John. Tennant và Weiss có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Peter muốn làm ra vẻ ông ta đã xoay xở mọi cách trong phạm vi quyền lực của mình để cứu Tennant, và tôi cho là ông ta đúng.”

“Tôi biết anh thích đi Jerusalem,” Skow nắm chặt cánh tay Ravi, nói. “Nhưng vấn đề là, ở đây cần anh.”

“Peter đã có bác sĩ mới rồi.”

“Nhưng ông ấy cần anh.”

Ravi nhìn người hộ tống. “Tôi sẵn sàng lên máy bay.”

Người lính bước tới trước, nhưng cái trừng mắt đầy uy lực của Skow đã chặn anh ta lại. “Hạ sĩ, tôi đến đây bằng mệnh lệnh trực tiếp của tổng thống. Chỉ huy của anh, tướng Bauer hoàn toàn biết rõ sứ mệnh của tôi. Tôi cần hai phút với người này. Sau đó chúng tôi sẽ đến gặp Godin. Bước lùi lại. Cách tôi hai mươi mét.”

Người hạ sĩ tuân lệnh.

Ravi định vùng ra, nhưng bàn tay Skow giữ chặt như gọng kìm. “Anh đã khai ra tôi, phải không. Đồ chó đẻ.”

“Tôi không nói gì với họ cả. Nhưng điều đó cũng chẳng giúp gì được cho anh. Họ đã biết quá nhiều. Lẽ ra tôi đã chết rồi, nếu như Peter không lên cơn nguy kịch.”

Skow nhìn quanh đường băng như sợ người lính kia có thể tấn công gã bất cứ lúc nào. “Nghe đây Ravi. Dù anh có chạy sang Jerusalem cũng không thoát đâu. Tổng thống đang tin vào kịch bản của chúng ta, nhưng nếu Godin còn sống mà thanh minh thanh nga, thì chúng ta chỉ có đường chết thôi. Vậy nên anh còn có việc phải làm đấy.”

Ravi cảm thấy nỗi sợ cồn cào trong bụng y. “Anh điên rồi! Bọn họ sẽ không bao giờ để tôi đến gần Peter nữa. Và nếu tôi ở lại đây, Geli sẽ giết tôi.”

Skow lắc y như một đứa trẻ. “Bình tĩnh đi, giời ạ. Anh hãy nấp trong văn phòng của tôi trong khi tôi nói rõ mọi chuyện.”

“Nói rõ mọi chuyện? Với Godin?”

Skow mỉm cười. “Anh quên rằng chuyên môn của tôi là chiến tranh thông tin à?”

Gã dẫn Ravi đến chỗ xe Jeep và ra hiệu cho viên hạ sĩ vào ngồi sau tay lái.

“Nhưng họ nghi ngờ anh rồi,” Ravi nói. “Anh sẽ nói gì với họ?”

Skow mỉm cười giảo hoạt. “Tôi là cáo già trong chuyện sinh tồn Ravi ạ. Đến Geli cũng còn phải học tôi đấy.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.