Dòng Sông Kỳ Bí

Chương 6: Con mòng biển bị gãy cổ



Ngày Chủ nhật của Sean Devine – ngày đầu tiên đi làm trở lại sau một tuần bị đình chỉ công tác bắt đầu bằng việc anh bị lôi ra khỏi giấc chiêm bao của mình một cách đột ngột và tàn nhẫn bởi tiếng chuông đồng hồ báo thức và một cơn co giật, giống như một đứa trẻ vừa chui ra khỏi bụng mẹ và không bao giờ có thể quay trở lại nữa. Anh không nhớ rõ mình đã mơ thấy gì ngoài một vài chi tiết vụn vặt, chả có gì liên quan và anh có cảm giác rằng giấc mơ đó, bản thân nó cũng không tuân theo một trình tự nào cả. Và cái bố cục rối rắm đó giống như một lưỡi dao nhọn thọc vào gáy anh khiến anh cảm thấy sùng sục cả buổi sáng.

Vợ anh, Lauren, đã xuất hiện trong giấc mơ và anh vẫn còn cảm thấy mùi vị da thịt cô phảng phất đâu đây. Tóc cô rối bời màu cát ẩm, sẫm hơn và dài hơn ngoài đời, và cô chỉ mặc độc một chiếc áo bơi màu trắng ướt át. Da cô rám nắng và những vệt cát mảnh lấp lánh trên mắt cá và mu bàn chân của cô. Cô có mùi vị của biển và mặt trời, cô ngồi đó trong lòng Sean và hôn lên mũi anh, những ngón tay thon dài vuốt ve cổ anh. Họ đang ngồi ở hiên trước một ngôi nhà trên bãi biển và Sean có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ nhưng không nhìn thấy đại dương. Nơi đáng lẽ là biển lại chỉ là một màn hình vô tuyến trống trải với kích thước to như một sân bóng. Khi nhìn vào giữa màn hình ấy, anh chỉ thấy mỗi hình ảnh mình phản chiếu trong đó mà không thấy Lauren, như thể anh đang ngồi đó ôm lấy không khí.

Nhưng rõ ràng trong tay anh là cơ thể cô, là da thịt ấm áp.

Hình ảnh kể tiếp anh nhớ được là anh đứng trên mái nhà với một chiếc chong chóng dự báo thời tiết trơn nhẵn. Anh tóm chặt lấy nó và phía dưới anh, ngay chân ngôi nhà, một cái lỗ đen khổng lồ đang há miệng, dưới đáy là một chiếc thuyền buồm lật ngược. Và rồi anh trần truồng trên giường với một phụ nữ mà anh chưa bao giờ gặp, cảm nhận được sự gần gũi của cô ta, đồng thời trong lúc đó, với một chút logic thường thấy trong mơ, Lauren ngồi trong một căn phòng khác của ngôi nhà, quan sát họ bằng máy ghi hình, một con mòng biển lao qua cửa sổ, những mảnh kính vỡ bắn tung toé lên giường như muôn vàn viên đá vụn và Sean đứng đó, lúc này quần áo đã chỉnh tề trở lại.

Con mòng biển thở hắt ra và bảo, “Cổ tôi đau quá,” nhưng Sean đã tỉnh dậy trước khi kịp nói, “Là vì nó đã bị gãy.”

Anh thức dậy với giấc mơ đang thoát ra như một thứ chất thải đặc quánh sau sọ anh, cặn bã của chúng bám vào quầng mắt và đọng lại trên lưỡi anh. Anh vẫn nhắm mắt khi chuông đồng hồ reo vang, hy vọng rằng đây chỉ là một cơn chiêm bao khác và anh thật ra vẫn đang ngủ, rằng đồng hồ báo thức chỉ kêu bíp bíp ở trong đầu anh mà thôi.

Cuối cùng anh mở mắt, cảm giác về cơ thể rắn chắc của người phụ nữ lạ mặt và hương vị của biển trên da thịt Lauren vẫn bám trong đầu và anh nhận ra rằng đó không phải là một giấc mơ, không phải là một bộ phim, cũng không phải là một bản tình ca u uất.

Đó là những tấm ga giường, căn phòng ngủ và cái giường này. Đó là lon bia rỗng trên bệ cửa sổ, là ánh mặt trời đang chiếu vào mắt anh, là cái đồng hồ báo thức đang không ngừng kêu bíp bíp bên cạnh giường. Là cái vòi nước đang nhỏ giọt mà anh vẫn quên chưa siết lại. Là chính cuộc đời anh, là những vấn đề của bản thân anh.

Anh tắt đồng hồ báo thức nhưng không rời giường ngay. Anh vẫn chưa dám ngồi dậy vì sợ đầu óc vẫn còn lâng lâng do dư vị khó chịu của rượu để lại. Nếu đầu óc vẫn còn ngầy ngật chỉ sợ ngày đầu tiên đi làm trở lại hẳn sẽ dài ra gấp đôi, nhất là ngày đầu tiên đi làm sau khi bị đình chỉ công tác, với tất cả những thứ rác rưởi mà anh sẽ phải tiêu hoá, tất cả những câu nói đùa về mình mà anh sẽ phải nghe thì quả thật, đó sẽ là một ngày lê thê, khủng khiếp.

Anh nằm đó lắng nghe những tiếng động vang lên ngoài phố, tiếng động của những tên nghiện ở nhà bên cạnh lúc nào cũng bật vô tuyến ầm ĩ từ khi phát bộ phim Letterman vào buổi sáng tới phim Seasame Street vào buổi tối, tiếng ồn của chiếc quạt trần trên đầu anh, của lò vi sóng, của thiết bị chống cháy và tiếng tủ lạnh kêu rù rù. Tiếng động của những chiếc máy vi tính đang chạy. Của máy điện thoại di động và máy tính di động PalmPilot, tiếng động trong bếp, trong phòng khách, những tiếng bíp bíp bíp không ngừng vang lên từ dưới phố, từ tận đồn cảnh sát và từ những toà nhà trên phố Faneuil Heights và từ khu Hạ của East Bucky.

Theo thời đại này, mọi thứ đều phát ra tiếng động. Cái gì cũng nhanh gọn, thuận tiện, được thiết kế để dễ dàng di chuyển. Tất cả mọi người đều tỏ ra thích hợp với thế giới này, chuyển động cùng nó, phát triển cùng nó.

Từ khi nào mọi chuyện bắt đầu diễn ra như thế?

Đó là tất cả những gì anh muốn biết, thật vậy. Từ khi nào tất cả mọi người đều tăng tốc độ, bỏ anh lại sau, ngóng theo lưng họ?

Anh nhắm mắt lại.

Từ khi Lauren bỏ đi.

Đúng là từ khi đó.

Brendan Harris nhìn chiếc điện thoại thầm mong nó rung chuông. Cậu lại nhìn đồng hồ đeo tay. Đã trễ hai tiếng rồi. Cũng không quá ngạc nhiên vì Katie vốn không phải là người đúng giờ nhưng ngày hôm nay là một ngày đặc biệt. Brendan chỉ muốn khởi hành ngay lập tức. Cô ấy ở đâu cơ chứ nếu không phải chỗ làm? Kế hoạch của bọn họ là Katie sẽ gọi điện cho Brendan trong giờ làm, tới dự lễ ban thành thể của em gái rồi đi gặp cậu. Nhưng cô ấy không tới chỗ làm. Cũng không gọi điện.

Cậu lại không thể gọi cho cô ấy.

Đây cũng là một trong những trở ngại mà họ phải đối mặt kể từ khi hẹn hò với nhau. Katie thường ở ba nơi – một là chỗ của Bobby O’Donnell hồi cô và Brendan mới quen nhau, hai là ở nhà, trong căn hộ nơi cô đã lớn lên cùng với cha, mẹ kế và hai em gái cùng cha khác mẹ trên đại lội Buckingham và ba là tại căn hộ của các ông cậu điên rồ và đáng sợ của cô ở tầng trên, hai trong số bọn họ là Nick và Val mà sự biến thái và tàn bạo đã trở thành huyền thoại. Và rồi lại còn cha cô nữa, Jimmy Marcus, người ghét cay ghét đắng Brendan mà cả Katie và cậu đều không rõ là vì sao. Nhưng Katie biết rõ một điều rằng bao năm nay cha cô vẫn luôn nhắc nhở cô phải tránh xa những người nhà Harris: nếu mày dẫn một thằng nhà đó về đây, tao sẽ từ mày.

Theo Katie, thường ngày cha cô là một người rất có lý lẽ, nhưng có một đêm, cô vừa khóc vừa bảo Brendan rằng, “Hễ nhắc tới anh là ông ấy lại lên cơn thần kinh. Đúng là thần kinh. Một tối ông ấy uống rượu, ý em là ông ấy bị say, cứ lải nhải nói về mẹ em, rằng bà ấy rất yêu em, này nọ, và rồi ông ấy đột nhiên bảo, ‘Bọn nhà Harris khốn kiếp đó, Katie, đúng là một lũ cặn bã.’”

Cặn bã. Âm thanh của hai từ đó đè nặng lên ngực Brendan.

“Con hãy tránh xa bọn chúng ra. Đó là điều duy nhất trên đời bố yêu cầu con, Katie. Làm ơn hãy nghe lời bố.”

“Vậy làm sao bây giờ?” Brendan nói. “Em chia tay với anh sao?”

Cô lăn vào vòng tay anh, mỉm cười buồn bã. “Anh còn không biết ư?”

Thật lòng, Brendan không biết phải làm sao. Với cậu, Katie là tất cả. Một nữ thần. Còn Brendan, chỉ là Brendan.

“Không. Anh không biết.”

“Anh là một người tử tế.”

“Vậy sao?”

Cô gật đầu. “Em nhìn cách anh đối xử với Ray và với mẹ anh, với bất kỳ ai anh gặp trên phố, anh cũng đều tử tế với họ, Brendan.”

“Có rất nhiều người cũng tử tế như vậy mà.”

Cô lắc đầu. “Có nhiều người rất dễ chịu. Nhưng không giống với anh.”

Nghĩ tới điều đó, Brendan cũng đành phải thừa nhận rằng, từ trước tới giờ, cậu chưa từng gặp một ai mà không quý mến cậu – không phải là thứ tình cảm tôn sùng gì mà chỉ là sự quý mến đơn thuần, “Thằng bé Harris này thì được.” Cậu cũng không hề có kẻ thù, chưa từng tham gia bất kỳ cuộc ẩu đả nào kể từ khi học tiểu học, và không nhớ nổi lần cuối cùng bị người khác nặng lời là khi nào nữa. Có lẽ là bởi vì cậu đúng là tử tế. Và có lẽ, giống như Katie nói, sự tử tế ấy thật hiếm hoi. Hay có lẽ chỉ vì cậu không phải loại người muốn chọc giận người khác.

Ngoại trừ cha của Katie. Đây đúng là một điều kỳ bí. Không thể nào phủ nhận được một thực tế là ông ta rất ghét cậu. Mới nửa tiếng trước thôi, Brendan đã cảm nhận được điều đó khi ở trong cửa hàng của Jimmy Marcus, một sự thù ghét sâu sắc, âm ỉ toát ra từ người đàn ông đó như một thứ virus lây nhiễm. Khiến cậu mất hết cả dũng khí. Cậu nói lắp cũng là vì thế. Cậu không dám nhìn Ray suốt chặng đường về vì sự thù ghét ấy khiến cậu cảm thấy mình vô cùng dơ bẩn, tóc cậu giống như đang đầy chấy rận, và răng cậu thì đầy vết ố. Và tính vô lý của câu chuyện này – vì cậu chưa từng làm gì ảnh hưởng tới ông ta, tệ hơn nữa, còn gần như chả quen biết gì – cũng không làm cậu cảm thấy dễ chịu hơn. Brendan quan sát Jimmy Marcus và thấy người đàn ông nhìn lại mình là một kẻ có chứng kiến cậu gặp hoả hoạn cũng sẽ chẳng thèm tốn một bãi nước đái.

Brendan cũng không thể gọi vào một trong hai số điện thoại của Katie vì sợ ai đó ở đầu dây bên kia có thể nhận ra số điện thoại của cậu và nghi ngờ không biết tên Brendan Harris đáng ghét kia gọi điện cho Katie có mưu đồ gì. Dễ tới hàng triệu lần cậu đã suýt làm vậy nhưng chỉ nghĩ tới ông Marcus, Bobby O’Donnell hay một trong những ông cậu thần kinh nhà Savage trả lời ở đầu dây bên kia là cậu đã toát mồ hôi mà đặt điện thoại trở lại.

Brendan cũng không biết phải sợ ai hơn nữa. Ông Marcus chỉ là một người bình thường, chủ một cửa hàng tạp hoá ở góc phố mà Brendan vẫn tới mua hàng bao năm nay, nhưng ở con người này có một cái gì đó – không chỉ là sự thù ghét ra mặt đối với Brendan – khiến người khác cảm thấy bất an, một khả năng nào đó mà Brendan cũng không rõ nữa, khiến người khác phải hạ thấp giọng trước ông ta và không dám nhìn thẳng vào mắt. Bobby O’Donnell là một trong những kẻ không ai biết chính xác hắn làm gì để kiếm sống nhưng hễ thấy hắn thì tốt nhất là tránh sang đường khác mà đi, còn anh em nhà Savage thì đúng là thuộc về một hành tinh khác nếu so sánh với những người bình thường có hành vi đúng đắn. Vì đó là những kẻ điên nhất, rồ nhất, ngoan cố nhất và quá khích nhất trong lịch sử khu Hạ. Anh em nhà Savage có thể nhìn thấu đối phương từ ngàn dặm và nóng tính như lửa, nếu liệt kê những lý do khiến họ nổi giận thì chắc phải chép ra một quyển dày như Kinh Cựu ước. Cha họ, một tên đần độn, bệnh hoạn đã hợp pháp cùng với bà mẹ gầy gò và mẫu mực của họ sản sinh ra hết đứa con này tới đứa con khác, mỗi đứa chỉ cách nhau mười một tháng cứ như một dây chuyền sản xuất súng thần công về đêm. Anh em nhà ấy lớn lên trong cảnh chật chội, dơ dáy và bức bối của một phòng ngủ bé như cái máy radio Nhật bên cạnh đường tàu trên cao lúc đó đang hoạt động hết tốc lực ở khu Hạ, che khuất cả mặt trời, trước khi bị dỡ bỏ hồi Brendan còn nhỏ. Trong căn hộ của họ, sàn nhà dốc hẳn về phía Đông, và những đoàn tàu rùng rùng đi qua cửa sổ hai một trên hai tư tiếng đồng hồ mỗi ngày và mỗi ngày như thế lại khiến toà nhà ba tầng cũ nát đó lung lay, rung bần bật tới mức phần lớn thời gian, bọn họ bị rơi ra khỏi giường và nằm chồng chất lớn nhau tới khi tỉnh dậy, chào đón buổi sáng trong tâm trạng cáu kỉnh giống như lũ chuột cống rúc ở bến tàu, đánh nhau chí choé để chui ra khỏi đống nệm người và bắt đầu một ngày mới.

Lúc còn nhỏ, đối với bên ngoài, họ không được coi là những cá thể. Chúng chỉ là bọn Savage, một lứa, một đàn, một tập hợp chân tay, đầu gối, nách và tóc rối di chuyển trong một đám bụi giống như con gấu quỷ Tasmania. Người khác nhìn thấy đám bụi ấy lại gần thì nhanh chân mà tránh sang một bên hy vọng chúng tìm thấy ai đó để hành hạ trước khi nhìn thấy mình, nhưng đôi khi nó chỉ đơn giản thổi ào qua vì đang bận rộn với những nỗi ám ảnh bệnh hoạn của chính mình.

Tệ nhất là từ khi Brendan bắt đầu giấu giếm hẹn hò với Katie, cậu vẫn không dám chắc thực sự bọn họ tổng cộng có hết thảy bao nhiêu người dù cậu cũng sinh ra và lớn lên ở khu Hạ. Thế nên Katie đã phải liệt kê ra cho cậu: Nick là anh cả, từ sáu năm trước đã đi tù ở Walpole, thời hạn ít nhất là mười năm, kế đó là Val, và theo Katie là người tình cảm nhất, rồi tới Chuck, Kevin, Al (người hay bị nhầm với Val), Gerard, cũng vừa mãn hạn tù ở Walpole, và cuối cùng là Scott, cậu bé út và con cưng của mẹ họ khi bà còn sống, cũng là người duy nhất có bằng đại học và không sống ở nhà trong các căn hộ ở tầng một và tầng ba thuộc toà nhà mà các anh trai mình chiếm lĩnh sau khi doạ những người thuê nhà khác sợ tới mức phải dạt sang bang khác.

“Em biết là họ có nhiều tai tiếng,” Katie nói với Brendan, “nhưng họ thực sự là những người rất dễ chịu. Ngoại trừ Scott. Thật khó thân thiện với cậu ấy.”

Scott. Người “bình thường” nhất ở nhà đó.

Brendan lại nhìn đồng hồ đeo tay rồi đồng hồ bên cạnh giường. Lại nhìn điện thoại.

Cậu nhìn lên giường mình, mới đêm nào cậu còn nằm đó chìm vào giấc ngủ, mắt nhìn vào gáy Katie, thầm đếm những sợi tóc vàng mảnh mai trên đó, tay choàng lên hông cô, lòng bàn tay đặt lên vòm bụng ấm áp, mũi cậu tràn ngập mùi thơm của tóc, của nước hoa, của thứ mồ hôi dìu dịu trên người cô.

Cậu lại nhìn điện thoại.

Gọi đi chứ, quỷ tha ma bắt, gọi đi nào

Mấy đứa trẻ con tìm thấy chiếc xe ô tô. Chúng gọi số 911 và đứa cầm điện thoại nói như sắp hết hơi, hẳn vì phải chứng kiến chuyện gì đó quá giới hạn của nó nên từ ngữ vô cùng lộn xộn.

“Có cái xe ô tô này ở trong có máu và, à, cửa xe mở và à…”

Nhân viên trực tổng đài 911 chen vào và hỏi, “Chiếc xe đó hiện ở đâu?”

“Ở khu Hạ,” thằng bé nói. “Gần công viên Pen. Cháu và bạn cháu phát hiện ra nó.”

“Có biết tên phố không?”

“Phố Sydney,” thằng bé lại nói. “Ở trong xe có máu và cửa mở.”

“Tên cháu là gì, con trai?”

“Ông ấy muốn biết tên cô ta,” thằng bé nói với bạn nó. “Gọi tao là con trai.”

“Con trai?” nhân viên tổng đài hỏi lại. “Ta hỏi tên cháu. Tên cháu là gì?”

“Chúng cháu phải lượn thôi,” thằng bé nói. “Chúc may mắn.”

Thằng bé gác máy và nhân viên tổng đài quan sát trên màn hình vi tính của mình hiện ra số điện thoại gọi tới từ một bốt điện thoại công cộng ở góc phố Kilmer và Nauset ở East Bucky trong khu Hạ, cách cổng ra vào công viên Penitentiary trên phố Sydney khoảng năm trăm mét. Anh ta liền chuyển thông tin sang tổng đài Điều Độ của cảnh sát và họ lập tức cử một xe tuần tra tới phố Sydney.

Một trong những cảnh sát tuần tra gọi về tổng đài xin tăng cường lực lượng, một hoặc hai kỹ thuật viên hiện trường, và, à mà có thể gửi thêm vài nhân viên đội điều tra án mạng. Chỉ là một gợi ý.

“Các anh có tìm thấy xác không? Ba mươi ba? Hết.”

“Chưa tìm thấy. Hết.”

“Ba mươi ba, sao lại phải gọi bên án mạng nếu không có xác chết? Hết.”

“Nhìn cái xe thì biết, tổng đài. Tôi có cảm giác không sớm thì muộn sẽ tìm thấy một cái xác ở quanh đây thôi.”

Sean bắt đầu ngày đầu tiên trở lại làm việc bằng việc đỗ xe ở phố Crescent và đi qua những cột trụ màu xanh phong toả khu vực giao điểm với phố Sydney. Những cột trụ chắn đường có logo của Sở cảnh sát Boston vì họ là những người đầu tiên xuất hiện tại hiện trường nhưng nghe rada liên lạc trên đường lái xe tới đây Sean đoán vụ án này chắc sẽ do Đội điều tra án mạng của cảnh sát bang chỗ bọn anh thụ lý.

Chiếc xe ô tô, như anh hiểu, được phát hiện trên phố Sydney vốn thuộc địa bàn của cảnh sát thành phố nhưng vệt máu lại dẫn tới Công viên Penitentiary, một khu vực bảo hộ thuộc thẩm quyền của Bang. Sean đi dọc theo phố Crescent, bên rìa công viên và điều đầu tiên đập vào mắt anh là một chiếc xe tải của đội giám định hiện trường đang đỗ ở giữa phố.

Khi tới gần hơn thì anh nhìn thấy viên trung sĩ sếp của anh, Whitey Powers, đang đứng cạnh một chiếc xe ô tô với cánh cửa bên lái mở toang. Souza và Connolly, hai người vừa được nhận vào đội điều tra án mạng tuần trước, đang kiểm tra bãi cỏ phía ngoài cổng ra vào công viên, tay cầm hai ly cà phê, hai xe cảnh sát tuần tra và chiếc xe tải của bên giám định hiện trường đỗ bên lề đường rải sỏi, các giám định viên lại gần chiếc xe ô tô nghi vấn, không quên ném cho Souza và Connolly những cái nhìn khó chịu vì họ có thể đã giẫm lên chứng cứ, lại còn vứt bừa nắp đậy cà phê xuống cỏ.

“Ái chà, cậu chàng ngổ ngáo đây rồi.” Whitey Powers nhướng máy vẻ ngạc nhiên. “Người ta đã gọi cậu đi làm rồi cơ à?”

“Vâng,” Sean đáp. “Nhưng tôi không có đồng nghiệp đi cùng, Sarge. Adolph đang nghỉ.”

Whitey Powers gật gù. “Cậu thì vừa bị dính trấu còn cái tên người Đức vô dụng kia thì lại tự dưng lăn ra ốm.” Ông ta choàng lấy vai Sean và bảo, “Cậu sẽ làm việc với tôi, chàng trai. Trong thời gian thử thách của cậu.”

Vậy là Sean đã rõ, Whitey sẽ trông chừng anh tới khi nào các vị bàn giấy kia cho rằng phong độ anh đã trở lại, đáp ứng được yêu cầu của họ.

“Trông thì có vẻ như một kỳ nghỉ cuối tuần yên tĩnh,” Whitey nói khi dẫn Sean tới trước chiếc xe cửa mở toang. “Cả vùng đêm qua còn im ắng hơn cả một con mèo chết. Chỉ có một vụ đâm nhau ở Parker Hill, một vụ khác ở Bromley Health, rồi một chú sinh viên bị nện chai bia ở Allston. Nhưng không xảy ra tử vong, tất cả đều do cảnh sát thành phố thụ lý. Buồn cười nhất là nạn nhân vụ Parker Hill, cậu biết không? Hắn một mình đi vào khoa cấp cứu của bệnh viện MGH, một con dao thái thịt bò to đùng cắm vào xương quai xanh và hỏi cô y tá trực rằng trong bệnh viện có máy bán Coca-Cola tự động không.”

“Cô ta trả lời hắn chứ?” Sean hỏi.

Whitey mỉm cười. Ông là một trong những nhân viên xuất sắc nhất của đội điều tra án mạng, lúc nào cũng vậy, nên ông rất hay cười. Ông hẳn bị bất ngờ điều động tới đây vì ông vẫn còn đang mặc một chiếc quần thể thao, áo đồng phục khúc côn cầu chắc mượn của con trai và mũ bóng chày đội ngược, dép tông màu xanh nhũ óng ánh, chiếc mề đay cảnh sát màu vàng tròng vào cổ bằng một sợi dây ni lông.

“Áo đẹp đấy,” Sean nói và Whitey lại nở một nụ cười biếng nhác. Chính lúc đó, từ trong công viên, một con chim hoảng hốt bay vụt lên, lượn tròn trên đầu họ và cất lên một tiếng kêu thảm thiết tới mức Sean thấy lạnh cả sống lưng.

“Giời ạ, nửa tiếng trước, tôi còn đang ngồi trong ghế sofa của mình.”

“Xem phim hoạt hình à?”

“Xem đấu vật.” Whitey chỉ ra bãi cỏ dại và công viên Penitentiary ở phía sau. “Tôi chắc là chúng ta sẽ tìm thấy cô ta đâu đó ở đằng kia. Nhưng cậu biết đấy, chúng ta mới bắt đầu việc tìm kiếm nên Friel bảo chúng ta cứ coi đây là một vụ mất tích cho tới khi tìm thấy thi thể nạn nhân.”

Con chim lại bay lượn trên đầu họ, lần này chúi thấp hơn một chút, tiếng rít thảm thiết rùng rợn như tiếng quạ kêu của nó khiến đầu Sean thấy ong ong.

“Vụ này là do chúng ta thụ lý?” Sean hỏi.

Whitey gật đầu. “Trừ phi nạn nhân lại chạy ra được và trốn đâu đó ngoài phố.”

Sean ngẩng đầu nhìn lên. Con chim đó có một cái đầu to, hai chân ngắn, ngực trắng có sọc xám ở giữa. Sean không biết đó là loài chim gì vì anh chẳng mấy khi có thời gian khám phá thiên nhiên và thế giới động vật.

“Một con chim bói cá.” Whitey nói.

“Bốc phét.”

Whitey giơ một tay lên nói, “Thật đấy, thề có Chúa.”

“Hồi bé chắc ông suốt ngày ngồi xem chương trình thế giới động vật chứ gì?”

Con chim lại kêu quang quác lên lần nữa khiến Sean chỉ muốn bắn cho nó một phát.

“Có muốn xem chiếc xe không?” Whitey hỏi.

“Lúc nãy ông có nói là cô ta,” Sean hỏi khi họ chui qua dải băng màu vàng phong toả hiện trường về phía chiếc xe ô tô.

“Bên giám định hiện trường tìm thấy giấy đăng ký xe trong ngăn đựng găng. Chủ nhân của chiếc xe là Katherine Marcus.”

“Mẹ kiếp,” Sean thốt lên.

“Cậu biết cô ta à?”

“Có thể là con gái một người quen.”

“Có thân không?”

Sean lắc đầu. “Không, chỉ là hàng xóm gật đầu chào nhau thôi.”

“Cậu chắc chứ?” Whitey hỏi như thể muốn tìm ra lý do để từ chối vụ án.

“Chắc như đinh đóng cột.” Sean trả lời.

Họ lại gần chiếc xe và Whitey chỉ vào cửa xe đang mở toang, một nữ kỹ thuật viên giám định hiện trường vừa ra khỏi đó, đang vươn vai, ưỡn ngực, tay giơ lên trời, hai bàn tay lồng vào nhau làm một động tác tập thể dục. “Các anh đừng có động vào gì đấy nhé! Ai là người phụ trách ở đây vậy?”

“Là tôi. Công viên vốn thuộc thẩm quyền pháp lý của bang.” Whitey nói.

“Nhưng chiếc xe lại nằm trên địa bàn của cảnh sát thành phố.”

Whitey chỉ vào bãi cỏ đằng trước. “Nhưng máu lại đổ trên đất của chính quyền bang.”

“Tôi cũng chả biết là thế nào nữa,” cô ta khẽ thở dài.

“Phó biện lý đang trên đường tới đây. Ông ta có thể quyết định chuyện đó. Nhưng trong lúc chờ đợi, thì nó vẫn thuộc thẩm quyền của bang.” Whitey nói.

Sean nhìn bãi cỏ phía trước công viên và biết rằng nếu họ có tìm thấy thi thể nạn nhân thì nó hẳn sẽ ở trong khu vực đó. “Chúng ta đã phát hiện được gì rồi?”

Nhân viên giám định hiện trường vừa ngáp vừa trả lời. “Khi chúng tôi tìm thấy xe thì cửa đã mở tung. Chìa khoá vẫn ở trong ổ khởi động, đèn pha vẫn bật. Tới chưa được mười giây thì hết ắc quy, chết máy, cứ như là muốn trêu ngươi.”

Sean để ý thấy có một vệt máu phía trên phần loa âm thanh gắn chìm ở cửa xe. Vài giọt máu đã nhỏ xuống mặt loa, đông cứng và đen lại. Anh ngồi xổm xuống rồi xoay người ra nhìn, phát hiện thêm một cụm máu đen khác trên tay lái. Một vệt máu thứ ba, dài hơn hai vệt trước bám vào bên cạnh lỗ đạn, đường đạn đi xuyên qua lớp vỏ bọc vinyl ở lưng ghế lái xe, ước chừng trúng vào vai của nạn nhân. Sean lại xoay người lần nữa nhìn qua cửa sang bãi cỏ phía bên trái xe rồi ngẩng đầu nhìn ra xung quanh phía bên ngoài cửa xe đang mở và thấy một vết lõm mới nguyên.

Anh ngước lên nhìn Whitey và ông ta gật đầu bảo, “Thủ phạm chắc đứng bên ngoài. Cô Marcus – nếu đúng cô ấy là người đang lái xe – đã tông cửa xe vào hắn. Tên khốn đó nổi giận, rút súng ra bắn, à, mà chỗ này tôi cũng không chắc lắm, vào vai, hay có thể là vào bắp tay? Dù sao đi nữa thì cô gái cũng chạy thoát.” Ông chỉ sang đám cỏ còn đang rạp xuống vì các dấu chân. “Dấu chân trên cỏ dẫn về phía công viên. Vết thương của cô ấy có vẻ không quá nghiêm trọng vì chỉ tìm thấy rất ít vệt máu trong cỏ.”

“Chúng ta đã cử người tìm kiếm trong công viên chưa?”

“Cho tới giờ mới có hai đơn vị.”

“Có khá hơn hai người kia không?” nữ nhân viên giám định hiện trường vừa nói vừa khịt mũi vẻ chê bai.

Sean và Whitey nhìn theo ánh mắt cô ta và thấy Connolly vừa vô tình đánh rơi ly cà phê xuống bãi cỏ và đang đứng đó nguyền rủa chiếc cốc giấy.

“Này,” Whitey lên tiếng, “họ là lính mới, cho họ thở tí đi.”

“Các anh xong chưa, tôi cũng phải lấy thêm mấy dấu tay nữa.”

Sean lùi lại hỏi nhân viên giám định hiện trường, “Ngoài giấy đăng ký xe, cô có tìm thấy thẻ chứng minh nào không?”

“Có. Ví để ở dưới ghế, bằng lái ghi tên Katherine Marcus. Ở ghế sau có một ba lô. Billy đang kiểm tra bên trong.”

Cô ta hất đầu về phía trước, Sean nhìn qua mũi xe và thấy một giám định viên khác đang quỳ ở đằng trước với một chiếc ba lô màu xanh đậm.

“Bằng lái ghi cô ta bao nhiêu tuổi?” Whitey hỏi.

“Mười chín, thưa trung sĩ.”

“Mười chín tuổi,” Whitey nói với Sean. “Và cậu biết người cha? Mẹ kiếp, gã ngốc ấy giờ chắc vẫn chưa hay biết gì, hắn ta hẳn sẽ đau khổ lắm đây.”

Sean quay đầu lại nhìn con chim huyên náo lúc nãy giờ cô độc bay về phía con kênh, vừa bay vừa rít lên, và một vệt nắng dày, gay gắt rạch xuyên qua những đám mây. Sean cảm thấy tiếng rít chói tai của con chim đâm xuyên qua màng nhĩ vào trong óc anh, và trong giây phút, ký ức về cái vẻ cô đơn hoang dại anh nhìn thấy trên khuôn mặt mười một tuổi của Jimmy Marcus khi họ định ăn trộm xe hiện về nóng giãy. Anh có thể cảm nhận được nó ngay lúc này, tại đây, trước bãi cỏ với những vết máu dẫn tới công viên Penitentiary như thể hai mươi lăm năm đã trôi qua chỉ nhanh như một đoạn phim quảng cáo, cảm thấy sự cô đơn cam chịu, vừa bi phẫn vừa cùng quẫn của Jimmy Marcus, giống hệt như một tuỷ cây rỗng trong một thân cây chết. Để thoát khỏi ký ức đó, anh nghĩ tới Lauren, Lauren với mái tóc dài màu cát, người đã ướp đẫm hương vị cho giấc mơ của anh, hương vị của biển. Anh nghĩ tới Lauren và chỉ mong giá như anh có thể quay trở lại địa đạo của giấc mơ ban nãy, chui đầu vào đó và biến mất.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.