Giọt Lệ Quỷ

Chương 11



”Có đông không ?”

“Khách sạn ấy à ?”, Cage đáp lại câu hỏi của Parker trong lúc nhìn lên từ điện thoại di động của mình. “Trời ạ, có chứ. Người của ta nói rằng quầy bar ở sảnh dây chật người. Rồi các phòng tiệc dưới tầng một thì đang có tới bốn bữa tiệc mừng năm mới. Rất nhiều công ty đã đóng cửa sớm. Chắc phải có đến cả ngàn người ở đó.”

Parker thoáng nghĩ một khẩu súng tự động có thể làm gì trong khoảng không gian kín như phòng tiệc.

Tobe Geller đã bắt tần số radio hoạt động của đội tác chiến qua loa. Trong phòng thí nghiệm, cả đội có thể nghe được tiếng Jerry Baker. “Đây là Chỉ huy số hai của Năm mới gửi tới tất cả các đơn vị. Mã mười hai tại Four Seasons trên phố M. Mã mười hai. Nghi phạm đang có mặt tại hiện trường, không có mô tả nhân dạng. Nghi ngờ có trang bị một khẩu súng tự động Uzi và ống giảm thanh. Các bạn được bật đèn xanh. Nhắc lại, các bạn được bật đèn xanh””.

Có nghĩa là họ được thoải mái bắn mà không cần yêu cầu đầu hàng trước.

Vài phút nữa, hàng tá cảnh sát sẽ tràn vào trong khách sạn. Họ có bắt được Digger không ? Kể cả là không, Parker cho rằng họ cũng sẽ làm hắn hoảng sợ mà bỏ chạy trước khi kịp làm hại người nào.

Nhưng cũng có thể họ sẽ bắt được hắn. Bắt hoặc giết, nếu hắn kháng cự. Và cơn ác mộng này sẽ kết thúc; Parker có thể về nhà với các con.

Giờ chúng đang làm gì nhỉ ? Anh tự hỏi.

Con trai anh có còn phiền muộn vì Người chèo thuyền ?

Ôi, Robby, làm sao ba có thế bảo con đừng lo ? Người chèo thuyền đã chết nhiều năm nay rồi. Nhưng hãy nhìn này, ngay đêm nay, chúng ta lại có một gã khác, thậm chí còn tệ hơn. Bọn ma quỷ là thế, con ạ. Chúng luôn đội mồ sống dậy hết lần này đến lần khác và không có cách nào ngăn cản được chúng…

Radio không phát ra tiếng động nào.

Chờ đợi là việc khó khăn nhất. Đó là điều Parker đã quên mất trong suốt những năm tháng về hưu của mình. Bạn chẳng bao giờ quen được với việc đợi chờ.

“Chiếc xe đầu tiên vừa mới tới nơi”, Cage gọi trong lúc đang nghe điện thoại.

Parker lại cúi mình trên bức thư.

Thị trưởng Kennedy..

Kết thúc là đêm. Digger đang chạy rông và hông có cách nào ngăn cản được hắn.

Rồi anh liếc nhìn chiếc phong bì.

Anh đang nhìn vào những vết mờ của dư chất để lại trên giấy. Nhìn vào biểu đồ ESDA một lần nữa, hình ảnh mờ mờ của những chữ cái bị hằn lên: t-e-l.

Những câu nói của Rhyme vọng lại.

Nhưng chiếc phong bì lại kể cho chúng ta một câu chuyện khác.

Gã không đơn giản như chúng ta thoạt nghĩ…

Parker cũng nghe thấy chính mình nói lúc nãy, anh đã bảo với Lukas rằng hồ sơ ngôn ngữ tâm lý của Quantico là sai, tên nghi phạm thực ra là một kẻ cực kỳ thông minh.

Đầu anh ngẩng phắt lên. Anh nhìn Lukas.

“Sao ?”, cô hỏi, giật mình vì biểu hiện của anh.

Anh nói giọng điềm đạm, “Chúng ta đã sai. Hiểu lầm rồi. Digger sẽ không tấn công Four Seasons”.

Những người khác trong phòng đông cứng, nhìn chằm chằm vào anh.

“Ngăn đội phản ứng lại. Cảnh sát, đặc vụ… bất kể họ đang ở đâu… hãy ngăn họ lại.”

“Anh đang nói cái gì thế ?”, Lukas hỏi.

“Bức thư… nó đang lừa chúng ta.”

Cage và Lukas nhìn nhau.

“Nó đang dẫn chúng ta rời xa địa điểm thực.”

“Nó đang ?”, c. p. Ardell hoang mang hỏi. Nhìn vào Lukas. “Anh ta nói gì thế ?”

Parker lờ c. p. đi và kêu lên, “Ngăn họ lại !”.

Cage giơ điện thoại. Lukas ra hiệu bằng tay với ông.

“Làm ngay đi !”, Parker hét lên. “Các đội phản ứng nhanh phải tiếp tục di chuyển. Chúng ta không thể nhốt họ tại khách sạn.”

Hardy nói, “Parker, hắn ở đó mà. Họ đã tìm được vỏ đạn. Không thể trùng hợp được”.

“Tất nhiên đó không phải là trùng hợp. Digger đã bỏ chúng lại đó. Rồi hắn đến một nơi khác, mục tiêu thực sự. Một nơi nào đó không phải là khách sạn”. Anh nhìn sang Cage. “Ngăn các xe lại ngay !”

“Không”, Lukas nói. Lúc này mặt cô đã bừng bừng giận dữ

Nhưng Parker vẫn nói tiếp bên trên bức thư. “Quá thông minh khi làm như vô tình để lại chỉ dẫn tới một khách sạn. Nó cố tình lừa chúng ta bằng các manh mối trên phong bì. Tương tự như vậy với các chữ cái ẩn. Chữ t-e-l.”

“Chúng ta chỉ suýt soát tìm ra các chữ cái ẩn”, Lukas đốp lại.

“Thậm chí nếu anh không giúp thì chúng tôi còn chẳng tìm được.”

“Nó biết..” Dường như việc nhân cách hóa bức thư khiến họ thấy khó chịu. Anh nói, “Tên nghi phạm biết gã phải đương đầu với những ai. Có nhớ tới hồ sơ liên quan đến ngành ngôn ngữ học của tôi không ?”. Anh gõ vào bức ảnh của nghi phạm đã chết.

“Gã rất thông minh. Gã là một nhà chiến lược. Gã phải làm cho các bằng chứng thật khó thấy. Nếu không chúng ta sẽ không tin. Không, không, chúng ta phải ngăn các đội tác chiến lại. Bất kể họ đang ở đâu. Họ phải chờ đến khi chúng ta tìm ra được mục tiêu thực sự”.

“Chờ ư ?”, Hardy nói một cách chán nản, giơ hai tay lên.

c. p. thì thào, “Chỉ còn năm phút nữa là đến bốn giờ”.

Cage nhún vai, liếc nhìn Lukas. Đây là quyết định của cô.

“Cô phải làm”, Parker quát

Anh trông thấy Lukas ngước đôi mắt sắt đá lên chiếc đồng hồ treo tường. Kim phút nhảy thêm một nấc nữa.

***

Khách sạn đẹp hơn chỗ này.

Digger nhìn quanh và có điều gì đó trong nhà hát này làm hắn không hề thích thú.

Chiếc túi cún con có vẻ… có vẻ hợp lý khi hắn đang ở trong một khách sạn đẹp đẽ.

Ở đây thì không.

Đây là… đây là… click… Nhà hát Mason, ngay phía đông Georgetown. Digger đang ở trong sảnh nhà hát và hắn nhìn vào những bức phù điêu bằng gỗ. Hắn trông thấy hoa không phải màu vàng hay đỏ mà là màu gỗ, thâm xì như màu máu. Ồ, còn cái gì thế kia ? Rắn. Rắn tạc trong gỗ. Còn phụ nữ thì ngực bự như ngực Pamela.

Hừm.

Nhưng không có các con vật.

Không có chó con. Không, không.

Hắn đi vào trong nhà hát mà không có ai ngăn cản. Buổi biểu diễn đã gần kết thúc. Anh có thể đi bộ vào trong hầu hết các rạp hát lúc gần cuối buổi mà chẳng ai để ý đến, người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều đã nói. Họ sẽ nghĩ anh tới đón ai đấy.

Tất cả những người chỉ chỗ ngồi ở đây đều lờ tịt hắn. Họ chỉ đang nói về thể thao, các nhà hàng và những bữa tiệc mừng năm mới.

Đại loại như vậy.

Đã gần bốn giờ.

Digger đã không còn đi nghe hòa nhạc hay xem kịch vài năm rồi. Pamela và hắn đến… click… một nơi nào đó để nghe nhạc. Không phải xem kịch. Không phải một vở ba lê. Cái gì nhỉ ? Nơi mà người ta nhảy nhót. Nghe nhạc… Những người đội mũ buồn cười cứ như là cao bồi. Chơi guitar, ca hát. Digger nhớ một bản nhạc. Hắn ngâm nga với chính mình.

Khi tôi cố yêu em ít đi, tôi chỉ càng yêu em nhiều hơn.

Nhưng hôm nay không có ai hát cả. Buổi diễn tối nay là một vở ba lê. Một vở matinée .

Có vần, có nhịp cơ đấy, hắn nghĩ. Buồn cười. Ba lê… matinée

Digger nhìn bức ảnh quảng cáo trên tường. Một bức tranh đáng sợ mà hắn không hề thích. Còn đáng sợ hơn cả bức tranh Cổng vào địa ngục. Đó là hình ảnh một anh lính có quai hàm khổng lồ đang đội chiếc mũ màu xanh dương. Kỳ quặc. Không… click… không, không, tôi không thích thế chút nào.

Hắn bước qua sảnh trong lúc nghĩ rằng Pamela thà xem đàn ông đội mũ cao bồi còn hơn trông thấy những tay lính có quai hàm to bự thế này. Nàng ăn mặc chải chuốt với tông màu tươi sáng như hoa để đi xem những anh chàng đội mũ cao bồi hát. Bạn của Digger, anh chàng William ấy, đôi khi cũng đội mũ như thế. Tất cả bọn họ cùng đi chơi với nhau. Hắn nghĩ họ đã rất vui nhưng không chắc lắm.

Digger lẻn vào quầy bar của sảnh, lúc này đã đóng cửa, và tìm được cửa cho nhân viên, hắn đi qua đó và lần bước lên cầu thang có mùi như nước soda bị đánh đổ. Băng qua những chiếc hộp các tông đựng kính nhựa và khăn giấy, kẹo dẻo Gummi Bear cùng Twizzler.

Tôi chỉ càng yêu em nhiều hơn…

Trên gác, trước cánh cửa có ghi chữ Ban công, Digger bước vào hành lang và từ từ đi trên tấm thảm dày.

“Hãy tới lô số năm mươi tám”, người chỉ dạy hắn mọi điều nói – “Tôi đã mua tất cả các ghế nên lô đó trống không. Nó nằm trên ban công. Ở phía tay phải của móng ngựa.”

“Móng ngựa ?”, Digger hỏi lại. Sao anh ta lại nói là móng ngựa ?

“Ban công ấy có hình như một cái móng ngựa. Hãy vào trong lô.”

“Tôi sẽ vào…” Click. “… vào một lô. Lô là gì ?”

“Nó nằm sau những tấm rèm ấy. Một căn phòng nhỏ nhìn xuống sân khấu.”

“Ồ”

Đã sắp bốn giờ chiều, Digger bước từ từ về phía cái lô và không một ai để ý đến hắn.

Một gia đình đang đi qua quầy bán đồ ăn vặt; người cha nhìn đồng hồ. Họ về sớm. Người đang giúp con gái mặc áo khoác trong lúc cả nhà cùng bước đi và hai vợ chồng đều có vẻ buồn bực. Trên tóc của cô bé có cài một bông hoa nhưng không phải màu vàng hay đỏ, mà là màu trắng. Đứa con thứ hai, một cậu bé chỉ khoảng năm tuổi, thì liếc vào quầy bánh kẹo và dừng bước. Nó khiến Digger nhớ đên thằng bé trong khách sạn xinh đẹp lúc trước. “Không, họ đóng cửa rồi”, người cha nói. “Đi thôi. Chúng ta lỡ mất bữa tối đặt trước bây giờ.”

Và rồi trông thằng bé như sắp khóc đến nơi, nó bị bố lôi đi mà chẳng có kẹo dẻo Gummi hay Twizzler nào cả.

Digger chỉ còn lại một mình trên hành lang. Hắn nghĩ mình cảm thấy buồn thay cho thằng nhỏ nhưng hắn không chắc lắm. Hắn đi sang một bên của móng ngựa. Một cô gái trẻ mặc sơ mi trắng đang bước về phía hắn. Cô ta cầm chiếc đèn pin.

“Chào anh”, cô ta nói. “Anh bị lạc à ?”

Cô ta nhìn vào mặt hắn.

Digger gí một bên túi vào ngực cô ta.

“Cái gì..cô ta chực hỏi.

Phụt, phụt…

Hắn bắn cô ta hai phát và khi cô ta ngã xuống thảm, hắn liền tóm tóc rồi lôi ngược cô ta vào trong lô bỏ trống.

Chà chà, việc này.,. click… việc này vui đấy. Hừm.

Hắn nhìn xuống nhà hát. Digger không cười nhưng lúc này hắn xác định là mình cũng khá thích nơi đây. Gỗ tối màu, hoa, thạch cao, màu vàng và chiếc đèn chùm. Hừm. Nhìn nó mà xem. Còn đẹp hơn cả khách sạn lúc trước. Mặc dù hắn nghĩ nơi này không phải chỗ tốt nhất để ngắm bắn. Tường bê tông hoặc tường gạch sẽ tốt hơn; như thế những viên đạn sẽ bị bật trở lại và các đầu nhọn sẽ bắn tứ tung bên trong rạp hát gây tổn hại nhiều hơn.

Hắn ngắm nghía những con người đang nhảy nhót trên sân khấu. Lắng nghe tiếng nhạc từ dàn giao hưởng. Nhưng hắn không thực sự nghe thấy họ mà vẫn đang ngâm nga với chính mình. Không thể rủ bỏ bài hát khỏi bộ não.

Tôi nhìn vào tương lai, tôi tự hỏi trước mắt là gì ? Tôi nghĩ về cuộc sống của chúng tôi, và tôi càng yêu em nhiều hơn.

Digger đẩy thi thể cô gái về phía tấm rèm nhung. Hắn thấy nóng và phải cởi áo khoác, mặc dù người chỉ dạy hắn mọi điều không bảo hẳn làm thế. Nhưng hắn cảm thấy khá hơn.

Hắn thò tay vào chiếc túi hình chó con và cuộn ngón tay quanh báng súng. Cầm ống giảm thanh bằng bàn tay trái.

Hắn nhìn xuống đám đông. Nhìn những cô bé mặc váy sa tin hồng, các cậu bé mặc áo khoác xanh lơ, những người phụ nữ hở khe chữ V nơi cổ, những ông hói và cả những chàng trai tóc dày mượt. Mọi người đều chĩa ống nhòm nhỏ xíu lên đám người trên sân khấu. Ở giữa trần nhà hát là chiếc đèn chùm khổng lồ, chứa hàng triệu ngọn đèn. Bản thân trần nhà thì được tô vẽ bằng những vị thiên thần béo núc đang bay qua những đám mây vàng. Y như Em bé Năm mới…

Trong rạp không có nhiều cửa lắm và thế thật tốt. Thậm chí, nếu hắn có không bắn chết được quá ba, bốn mươi người, thì những người khác cũng sẽ chểt trong lúc xô đẩy ở cửa ra vào. Thế là tốt.

Thế là tốt..

Bốn giờ. Đồng hồ của hẳn kêu bip. Hẳn bước lùi lại tóm chặt ống giảm thanh qua lớp túi nhàu nhĩ, liếc nhìn khuôn mặt những chú cún con. Một đeo nơ màu hồng, một đeo nơ màu xanh. Nhưng không có nơ vàng hay nơ đỏ, Digger nghĩ thế trong lúc bắt đầu bóp cò.

Rồi hắn nghe thấy một giọng nói.

Nó ở đằng sau hắn, trên hành lang, phía bên kia bức màn nhung xinh đẹp. “Lạy Chúa tôi”, giọng người đàn ông thì thào. “Chúng ta bắt được hắn rồi ! Hắn đang ở đây.” Và người đàn ông kéo rèm sang một bên trong lúc tay nâng khẩu súng ngắn màu đen.

Nhưng Digger kịp nghe thấy anh ta và lăn mình sang phía bức tường, do đó viên đặc vụ đã bắn trượt. Digger suýt cắt đôi người anh ta bằng loạt đạn kéo dài một giây từ khẩu Uzi. Một đặc vụ khác ngay đằng sau người đầu tiên cũng bị thương vì loạt đạn ấy. Anh ta nhìn vào mặt Digger và Digger nhớ ra mình phải làm gì. Nên hắn cũng giết anh ta luôn.

Digger không hoảng loạn. Hắn không bao giờ hoảng loạn. Thậm chí nỗi sợ hãi còn chẳng bằng một hạt bụi đối với hắn. Nhưng hắn biết có những chuyện là tốt trong khi những chuyện khác lại là xấu, không làm theo những gì mình được bảo chính là chuyện xấu. Hắn muốn bắn vào đám đông nhưng không thể. Thêm nhiều đặc vụ khác đang ùa vào ban công. Các đặc vụ này mặc áo gió của FBI và áo khoác chống đạn, một vài người đội mũ, còn vài người khác mang những khẩu súng máy có khả năng bắn nhanh như khẩu Uzi của hắn.

Một tá đặc vụ, hai tá. Vài người rẽ ở khúc quanh và chạm phải thi thể của đồng đội. Digger giơ chiếc túi qua tấm màn, chĩa về phía sảnh, khẽ chúc mũi súng xuống một giây. Tiếng kính vỡ, gương vỡ, kẹo Twizzler và Gummi Bear bay trong không trung.

Hắn phải… click… phải bắn vào khán giả. Đó là việc hắn phải làm…

Phải làm… Hắn…

Trong một phút, đầu óc hắn trống rỗng.

Hắn phải… click.

Thêm đặc vụ, thêm cảnh sát. Tiếng hò hét

Quá nhiều sự hỗn loạn… Hàng tá đặc vụ sẽ sớm vào trong hành lang bên ngoài lô, họ sẽ ném lựu đạn vào hắn, khống chế hắn, có khi còn bắn chết hắn; những viên đạn đỏ sẽ không nảy đi nảy lại mà sẽ xuyên thẳng vào tim hắn và khiến nó ngừng đập.

Hoặc họ sẽ đưa hắn vô Connecticut và ném hắn trở lại cửa địa ngục. Lần này, hắn sẽ ở đó vĩnh viễn và sẽ chẳng bao giờ gặp lại người chỉ dạy hắn mọi điều.

Hắn thấy nhiều người nhảy từ ban công xuống đám đông bên đưới. Khoảng cách không xa mấy.

Tiếng la hét các đặc vụ và cảnh sảt.

Họ ở khắp mọi nơi.

Digger tháo ống giảm thanh và nhắm bắn chiếc đèn chùm. Hắn bóp cò. Một loạt tiếng sung vang lên. Đạn cắt đứt dây treo, kết cấu gồm thủy tinh và kim loại khổng lồ ấy rơi ngay xuống sàn, đè nát những con người bên dưới. Ngàn lẻ một tiếng thét. Ai nấy đều hoảng loạn.

Digger nhẹ nhàng nhảy qua ban công và rơi trúng vai một người đàn ông to béo ở dưới hắn khoảng bốn mét rưỡi. Cả hai ngã ra nhưng Digger lập tức bật dậy. Rồi hắn bị đám đông đùn đẩy ra cửa thoát hiểm, tay vẫn ôm chặt túi mua hàng.

Ra ngoài lăn mình vào không khí mát lạnh.

Hắn bị lóa mắt vì đèn rọi cùng đèn nhấp nháy của năm, sáu mươi chiếc xe cảnh sát lẫn xe tải. Nhưng bên ngoài này lại chẳng có mấy cảnh sát hay đặc vụ liên bang. Hầu hết họ đều đang ở trong nhà hát, hắn đoán vậy.

Hắn đi bộ cùng một cặp trung tuổi qua con hẻm dẫn ra khỏi nhà hát. Hăn đi phía sau; họ chẳng hề để ý đến hắn. Hắn tự hỏi mình có nên bắn họ luôn không, nhưng như thế có nghĩa là lại phải lắp ống giảm thanh, mà đường ren của nó thì rất khó lắp thẳng hàng.

Hơn nữa, họ đâu có nhìn vào mặt hắn, vậy nên hắn không cần giết họ. Hắn rẽ vào một con hẻm khác và trong vòng năm phút đã đi dọc một khu phố dân cư.

Chiếc túi được kẹp gọn gàng dưới cánh tay áo khoác màu xanh hay màu đen của hắn.

Mũ lưỡi trai tối màu trùm qua tai hắn.

Tôi sẽ yêu em dù ốm đau hay nghèo khổ.

Digger ngân nga hát.

Thậm chí khi em cách xa vạn dặm, tôi còn yêu em nhiều hơn..

***

“Trời ơi, Parker”, Len Hardy nói và lắc đầu với vẻ thán phục đầy tự nhiên. “Tốt lắm ! Anh tóm được hắn rồi.”

c. p. Ardell cũng có ý tương tự khi anh nói, “Không dây được vào tên này đâu, không làm được, không có cách nào.”

Margaret Lukas thì chẳng nói gì với Parker vì còn đang bận nghe điện thoại. Khuôn mặt vẫn vô cảm nhưng cô liếc nhìn anh và gật đầu. Đó là kiểu cảm ơn của cô.

Song Parker Kincaid không cần lòng biết ơn. Anh cần thực tế. Anh muốn biết trận bắn giết tồi tệ đến đâu.

Và liệu trong đám thi thể có bao gồm cả Digger hay không.

Loa bộ đàm liên tục phát ra tiếng lạch tạch vì tần số của Jerry Baker và đội cấp cứu bị lẫn vào nhau. Parker hầu như không hiểu họ đang nói gì.

Lukas nghiêng đầu nghe điện thoại. Rồi nhìn lên và nói, “Hai đặc vụ đã chết, hai đặc vụ khác bị thương. Một người chỉ chỗ ngồi bị giết, một khán giả nam chết vì bị đèn chùm đè, một tá khác bị thương, vài người trong tình trạng nguy kịch. Đám đôông hoảng loạn xô đẩy khiến mấy đứa bé bị thương khá nặng. Bị giẫm đạp. Nhưng chúng sẽ sống sót”.

Chúng sẽ sống, Parker u ám nghĩ. Nhưng cuộc đời chúng sẽ chẳng bao giờ như cũ được nữa.

Ba ơi, kể cho con nghe về Người chèo thuyền đi…

Parker hỏi, “Hắn thoát rồi à ?”.

“Phải”, Lukas nói và thở dài.

“Mô tả ?”

Cô lắc đầu và nhìn Cage, ông ta cũng đang nghe điện thoại. “Không ai nhìn thấy cái chết tiệt gì cả. À, có hai người nhìn được. Hai người của ta. Nhưng họ chính là đối tượng bị hắn giết hại.”

Parker nhắm mắt và tựa đầu trên lưng ghế màu xám. Chắc vẫn là chiếc ghế mà anh đã yêu cầu từ nhiều năm trước; trên đó có một thứ mùi ẩm mốc, mùi nhựa đặc trưng khiến ký ức trỗi dậy, một trong rất nhiều ký ức đang trỗi dậy đêm nay.

Những ký ức anh không hề muốn có.

“Pháp y thì sao ?”, anh hỏi.

“Đội PERT đang đến đó cùng chiếc kính hiển vi”, Cage nói. “Nhưng tôi không hiểu tại sao hắn nã đạn từ một khẩu súng tự động mà chẳng có lấy một vỏ đạn.”

Parker nói, “Ôi, hắn đặt khẩu súng vào trong túi hay gì đó. Túi giữ lại vỏ đạn”.

“Làm sao anh biết chuyện đó ?”, Hardy hỏi.

“Tôi không biết. Nhưng nếu là hắn thì tôi sẽ làm vậy. Có ai ở khách sạn nhìn thấy hắn lúc thả vỏ đạn không.”

“Không”, Cage lẩm bẩm. “Và họ đang thẩm vấn tất cả mọi người ở đó. Một thằng bé bảo rằng mình trông thấy ông ba bị. Nhưng nó chẳng nhớ chút gì về hắn cả.”

Ông ba bị, Parker nghĩ một cách sầu não. Tuyệt thế cơ đấy !

Rồi anh nhớ lại toàn cảnh: cái cách mà bức tranh đã được hoàn thiện.

Rằng Lukas rốt cuộc đã đồng ý với Parker và nói lạnh như băng, “Được rồi, được rồi, chúng ta sẽ dừng đội phản ứng lại. Nhưng Chúa cứu giúp tôi nếu anh sai, Kincaid”. Cô ra lệnh cho toàn đội giữ nguyên vị trí. Họ dành vài phút tiếp theo để điên cuồng dự đoán nơi Digger có thể nhắm đến. Parker lập luận rằng hắn để lại vỏ đạn ở khách sạn trước bốn giờ không lâu, vậy là hắn chỉ có tối đa mười phút để đến mục tiêu thật. Tên giết người không thể trông cậy vào việc gọi taxi trong buổi chiều cuối năm như thế này, còn xe buýt của Đặc khu thì hết sức khó đoán; hắn sẽ phải đi bộ. Điều đó có nghĩa là phạm vi chỉ trong vòng năm dãy nhà mà thôi.

Parker cùng toàn đội cúi rạp người bên một tấm bản đồ Georgetown.

Đột nhiên anh nhìn đồng hồ và nói, “Hôm nay, các rạp hát có chiếu suất buổi trưa không ?”.

Lukas nắm lấy cánh tay anh. “Có, sáng nay, tôi đã trông thấy quảng cáo trên tờ Post.”

Tobe Geller vốn là fan âm nhạc và anh ta nhắc tới Nhà hát Mason, cách khách sạn Four Seasons chỉ năm phút đi bộ.

Parker mở một tờ Washington Post và phát hiện ra có buổi biểu diễn vở Kẹp hạt dẻ bắt đầu lúc hai giờ chiều và kết thúc tầm bốn giờ. Một nhà hát đầy chật người chính là mục tiêu hoàn hảo cho Digger. Anh đã yêu cầu Lukas gọi Jerry Baker và bảo anh ta cử toàn đội tới đấy.

‘Tất cả à ?”

Chúa giúp anh nếu anh sai, Kincaid…

Nhưng anh đã không sai. Có điều, anh mạo hiểm biết bao. Và dù anh đã cứu được nhiều mạng người, song những người khác vẫn chết. Còn tên sát thủ thì đã trốn thoát.

Parker liếc nhìn bức thư tống tiền. Kẻ viết nó tuy đã chết nhưng bản thân nó thì như đang còn sống. Dường như nó đang nhạo báng anh. Anh cảm thấy cơn thôi thúc điên cuồng muốn tóm lấy que dò kiểm tra mà đâm thẳng vào giữa bức thư.

Điện thoại của Cage kêu lần nữa và ông ta mở máy nghe. Nói chuyện vài phút, dù tin tức ông nghe được là gì, có vẻ như nó rất đáng khích lệ nếu căn cứ vào khuôn mặt ông. Rồi ông cúp máy. “Đó là nhà tâm lý học. Dạy môn Tâm lý tội phạm ở Georgetown. Ông ta bảo có chút thông tin về cái tên đó.”

“Digger à ?”, Parker hỏi.

“Ừ. Ông ta đang trên đường sang.”

“Tốt lắm”, Lukas nói.

Cage hỏi, “Tiếp theo là gì ?”.

Lukas do dự một phút rồi hỏi Parker, “Anh nghĩ sao ? Không phải chỉ trong phạm vi tài liệu đâu”.

Anh nói, “À, tôi sẽ tìm hiểu xem có phải cái lô hắn đứng bắn trống người không và nếu đúng như vậy, có phải tên nghi phạm đã mua hết toàn bộ cái lô đó, để tên Digger có điểm bắn tốt nhất ? Rồi tôi sẽ tìm xem gã có dùng thẻ tín dụng không”.

Lukas gật đầu với c. p., anh mở máy gọi Jerry Baker và trực tiếp hỏi những câu trên. Anh chờ một lát rồi lắng nghe câu trả lời. Sau đó, c p. tắt máy. “Giỏi đấy !” Anh ta đảo mắt.

“Nhưng”, Parker dự đoán thành tiếng, “nghi phạm đã mua vé từ hai tuần trước và trả tiền mặt”.

“Ba tuần trước”, viên đặc vụ lẩm bẩm, đưa bàn tay chai sần lên xoa đỉnh đầu bóng loáng. “Và trả bằng tiền mặt.”

“Quỷ thật”, Parker thất vọng thốt ra. Không có gì để làm ngoài việc tiếp tục. Anh quay lại với đoạn ghi chép các nhận xét của Lincoln Rhyme. “Chúng ta cần mấy tấm bản đồ. Những cái tốt chứ không phải thế này.” Anh gõ vào bản đồ thành phố mà họ dùng để cố tìm xem Digger đi đâu từ chỗ khách sạn Four Seasons. Parker nói tiếp, “Tôi muốn tìm xem dấu vết trên thư đến từ đâu. Thu hẹp nơi ở của tên nghi phạm”.

Lukas gật đầu với Hardy. “Nếu làm được điều đó, chúng ta sẽ cho đội của Jerry cùng những người ở Sở cảnh sát Đặc khu đi lùng. Phát đi ảnh của nghi phạm và xem có ai từng trông thấy gã ở một ngôi nhà hay căn hộ nào không”. Cô đưa cho Geller bức ảnh chụp nghi phạm trong nhà xác. “Tobe, in cái này ra một trăm bản.”

“Được.”

Parker nhìn qua danh sách các dư chất Rhyme đã xác định được. Đá granite, đất sét, bụi gạch, lun huỳnh, tro… Những vật chất này từ đâu ra nhỉ ?

Cậu văn thư trẻ khi nãy đã mang thư lên cho họ, Parker nhớ lại tên cậu ta là Timothy, xuất hiện ở ngưỡng cửa.

“Đặc vụ Lukas ?”

“Vââng ?”

“Có vài chuyện cô cần biết. Đầu tiên là về Moss ?”

Gary Moss. Parker nhớ lại bản tin về hai đứa con suýt chết cháy của ông ta.

“Ông ta hơi hoảng loạn. Ông ta trông thấy người lao công và tưởng đó là sát thủ”.

Lukas cau mày. “Đó là ai ? Một trong những người của ta à ?”

“Vâng. Một nhân viên lao công. Chúng tôi đã kiểm tra. Nhưng Moss hoàn toàn bị hoang tưởng. Ông ta muốn chúng tôi đưa ông ta ra khỏi thành phố. Ông ta nghĩ mình sẽ được an toàn hơn.”

“Chúng ta không thể đưa ông ta đi lúc này. Hiện nay, ông ta không phải ưu tiên hàng đầu.”

“Tôi chỉ nghĩ là cần phải báo cho cô biết”, Timothy trả lời.

Cô nhìn quanh có vẻ như đang cân nhắc. Cô nói với Len Hardy, “Thanh tra, anh có phiền đi an ủi ông ta một lát không”.

“Tôi à ?”

“Được chứ ?”

Hardy không vui. Đây lại là một cái tát khác vào mặt. Parker nhớ rằng phần khó khăn nhất trong công việc của anh khi còn điều hành văn phòng không phải đương đầu với những tài liệu khó nhằn, mà là với tâm tính của các nhân viên.

“Tôi đoán là được”, Hardy nói.

“Cảm ơn anh.” Lukas mỉm cười với anh ta. Rồi cô nói với Timothy, “Cậu bảo còn chuyện khác nữa ?”.

“Đội an ninh muốn tôi nói cho cô biết. Có một anh chàng ở dưới nhà ? Một vị khách.”

“Và ?”

“Anh ta bảo anh ta biết chút gì đó về kẻ giết người ở Metro.”

Parker nhớ rằng bất kể khi nào một vụ án lớn như thế này xảy ra, bọn thần kinh ở khắp nơi đều bắt đầu bò ra khỏi hang ổ: Đôi khi để thú tội, đôi khi giúp điều tra. Ở gần cửa chính của trụ sở phân cục thường có tới vài “Phòng Tiếp tân” cho những kẻ như vậy. Khi ai đó nói là có thông tin về vụ án ghé qua trụ sở FBI, các công dân gương mẫu ấy được đưa vào một trong những phòng tiếp khách và được các chuyên viên thẩm vấn tra hỏi.

“Đáng tin cậy không ?”, Lukas hỏi.

“Anh ta tuyên bố mình là phóng viên, đang viết về một loạt các vụ án mạng chưa được giải quyết. Bằng lái xe và số an sinh xã hội đã được kiểm tra. Chưa nhận trát bao giờ. Họ còn chưa kiểm tra đến giai đoạn hai.”

“Anh ta nói gì về Digger ?”

“Tất cả những gì anh ta nói là hắn từng gây án rồi, ở những thành phố khác.”

“Ở thành phố khác à ?”, c. p. Ardell hỏi.

“Anh ta bảo vậy.”

Lukas nhìn Parker, anh nói, “Tôi nghĩ tốt hơn nên nói chuyện với anh ta”.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.