Gone Girl - Cô Gái Mất Tích

Chương 13: Nick Dunne



Hai ngày trôi qua

Tôi tỉnh giấc trên chiếc giường kéo trong căn phòng của gia đình Elliott, mệt mỏi rã rời. Nhà tôi vẫn bị tiếp quản nên bố mẹ vợ đã khăng khăng giữ tôi lại qua đêm, với một sự khẩn thiết tương tự như lúc họ chộp lấy tờ hóa đơn bữa tối: lòng mến khách giống như một thế lực dữ dội của tự nhiên vậy. Con phải để chúng ta làm việc này cho con. Và tôi đã để họ làm thế. Cả đêm tôi nằm nghe tiếng ngáy của họ vẳng qua cửa phòng ngủ, một người ngáy đều và sâu như tiếng đốn gỗ dồn dập, người kia thì hổn hển và ngắt quãng như thể đang nằm mơ thấy mình bị chết đuối vậy.

Tôi luôn có thể khóa cơ thể mình như tắt một chiếc đèn. Anh ngủ đây, tôi nói rồi chắp tay kề má như đang cầu nguyện – zzzzzz – rồi chìm vào giấc ngủ sâu giống hệt một đứa trẻ sau khi uống thuốc Nyquil vậy. Trong khi đó, cô vợ mắc chứng mất ngủ của tôi vẫn nhặng xị bên cạnh tôi ở trên giường. Vậy mà đêm qua tôi đã giống Amy, não vẫn hoạt động, cơ thể bồn chồn không yên. Hầu như mọi lúc tôi đều thoải mái với chính bản thân mình. Khi Amy và tôi ngồi trên đi-văng xem tivi, tôi dính chặt vào chiếc ghế như thể sáp nến chảy ra, trong khi vợ tôi ở bên cạnh liên tục xoay mình và đảo vị trí. Có lần tôi hỏi rằng có phải cô ấy mắc một hội chứng hiếu động chân tay không – khi ấy tivi đang phát mẩu quảng cáo về căn bệnh này, nỗi đau đớn hiện rõ trên gương mặt của những diễn viên khi họ rung bắp chân và xoa bóp đùi mình – và Amy đáp: Em có hội chứng hiếu động mọi thứ.

Tôi ngắm nhìn trần nhà trong căn phòng khách sạn chuyển dần từ màu xám sang hồng rồi vàng và cuối cùng nhỏm dậy để đón ánh mặt trời chói lòa, lại rọi thẳng vào tôi từ bên kia sông, nắng nóng bỏng cấp độ ba. Rồi những cái tên bật lên trong đầu tôi – bing! Hilary Handy. Cái tên quá đỗi đáng yêu để có thể bị quy chụp cho hành động quấy nhiễu. Desi Collings, một kẻ từng bị ám ảnh vì Amy, sống cách đây chừng một giờ xe chạy. Tôi đã nhận trách nhiệm về hai người này. Giờ là thời đại tự-mình-làm-lấy: từ việc chăm sóc sức khỏe, bất động sản, đến điều tra như cảnh sát. Cứ tự mình lên mạng mà tìm hiểu mọi vấn đề vì ai cũng trong tình trạng quá tải về công việc và người làm thì lại thiếu. Tôi là một nhà báo cơ mà. Hơn mười năm trời tôi đã kiếm sống bằng việc phỏng vấn mọi người và buộc họ phải bộc lộ về bản thân mình. Tôi có năng lực để thực hiện nhiệm vụ này. Marybeth và Rand cũng tin như vậy. Tôi thấy biết ơn vì họ đã cho tôi thấy rằng tôi vẫn được họ tin tưởng, dù là một người chồng đang phần nào đó bị tình nghi. Hay là tôi đang tự huyễn hoặc bản thân mình khi sử dụng cụm từ phần nào đó nhỉ?

Khách sạn Days Inn đã dành tặng căn phòng khiêu vũ bỏ không để làm trụ sở cho công tác Tìm kiếm Amy Dunne. Một nơi nhếch nhác, đầy những vệt ố bẩn màu nâu và nặng mùi. Nhưng chỉ ngay sau khi bình minh vừa ló rạng, Marybeth đã bắt tay vào việc cải tạo nó, hút bụi và lau chùi, sắp xếp hệ thống bảng niêm yết và máy điện đàm, rồi treo một bức chân dung lớn của Amy lên tường. Bức chân dung Amy với ánh nhìn tự tin, sắc lạnh, một đôi mắt gây ám ảnh người xem – trông nó giống như một bức ảnh trong cuộc vận động tranh cử tổng thống vậy. Trên thực tế, cho đến khi Marybeth hoàn tất công việc thì cả căn phòng đã náo nhiệt hoạt động rồi – niềm hy vọng chứa chan khẩn thiết của một chính trị gia yếu thế và đông đảo những người ủng hộ tâm huyết quyết không từ bỏ.

Hơn mười giờ sáng thì Boney đến, vừa đi vừa nói chuyện điện thoại. Cô ta vỗ nhẹ vào vai tôi rồi bắt đầu loay hoay với chiếc máy in. Những tình nguyện viên ào ào xuất hiện: Go và cả nửa tá bạn bè của người mẹ đã quá cố của tôi. Có năm người phụ nữ khoảng trên dưới bốn mươi tuổi gì đó, tất cả đều mặc quần ống ngắn như thể họ đang diễn tập cho một buổi trình diễn khiêu vũ vậy: hai người trong số bọn họ có dáng vẻ mảnh khảnh, tóc vàng và làn da rám nắng, đang ganh đua nhau để giành vị trí chủ chốt, số còn lại vui vẻ lùi về hàng phía sau. Một nhóm phụ nữ tóc bạc ồn ào, người này đang cố trao đổi với người kia, một vài trong số họ đang nhắn tin nữa, những người cao tuổi đó có một nguồn năng lượng mạnh mẽ đến khó tin, sinh lực trẻ trung dồi dào tới mức người ta phải băn khoăn không hiểu có phải họ đang cố làm trầm trọng thêm vấn đề hay không. Chỉ duy nhất một người đàn ông có mặt – một anh chàng bảnh trai tầm tuổi tôi, ăn mặc lịch thiệp, đi một mình và hoàn toàn không cần có lời giải thích nào cho sự hiện diện của mình. Tôi vừa theo dõi Anh chàng Cô đơn đang ngửi ngửi những chiếc bánh nướng kia, vừa liếc nhìn bức chân dung của Amy.

Boney đã lắp đặt xong máy in, nhón lấy một chiếc bánh xốp nướng – có vẻ như loại có hạt ngũ cốc – rồi bước đến bên cạnh tôi.

“Các vị có để ý theo dõi những ai đến đăng ký làm tình nguyện viên không?” Tôi hỏi. “Ý tôi là, phòng trường hợp có ai đó…”

“Ai đó có vẻ quan tâm tới mức đáng ngờ phải không? Tất nhiên rồi.” Cô ta bẻ đường viền ngoài của chiếc bánh đưa lên miệng, rồi hạ giọng: “Nhưng thành thật mà nói, những tên giết người hàng loạt cũng xem các bộ phim truyền hình giống như chúng ta. Chúng biết rằng chúng ta biết chúng thích được…”

“Tự tham gia vào cuộc điều tra về chính mình.”

“Đúng vậy.” Cô ta gật đầu. “Cho nên giờ bọn chúng cẩn trọng hơn với những việc đại loại như thế này. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ xem xét tất những ai có vẻ khác thường để chắc chắn là bọn họ thật ra, anh biết đấy, chỉ là mấy kẻ trông khác thường thế thôi.”

Tôi nhướng một bên lông mày.

“Giống như, trường hợp cách đây vài năm khi tôi và Gilpin điều tra vụ Kayla Holman. Vụ Kayla Holman ấy?”

Tôi lắc đầu: chẳng có chút khái niệm nào về vụ đó cả.

“Dù sao thì anh sẽ thấy vài kẻ bệnh hoạn hứng thú với những vụ kiểu thế này. Hãy để ý hai người kia nhé…” Boney chỉ tay về phía hai phụ nữ xinh đẹp tầm ngoài bốn mươi. “Trông bọn họ có vẻ giống kiểu đó đấy. Khá sốt sắng với việc an ủi người chồng bất an thì phải.”

“Ồ, thôi nào…”

“Anh sẽ phải ngạc nhiên đấy. Đẹp trai như anh. Chuyện như vậy là bình thường.”

Ngay sau đó một trong hai người phụ nữ, người có mái tóc vàng hơn và nước da rám nắng hơn, quay sang phía chúng tôi. Cô ta vừa nhìn tôi vừa mỉm với điệu bộ duyên dáng và ngượng ngùng nhất, sau đó cúi đầu e lệ như thể một con mèo đang đợi chờ được ve vuốt. “Mặc dù vậy, cô ta sẽ làm việc tận tâm đấy, đó sẽ là một Quý cô tình nguyện viên nhỏ xinh.” Boney nói. “Thế cũng tốt.”

“Vụ Kayla Holman kết cục thế nào?” Tôi hỏi.

Cô ta lắc đầu: không.

Bốn phụ nữ nữa lần lượt bước vào, họ chuyền tay nhau một lọ kem chống nắng rồi bôi vô tội vạ lên cánh tay, vai và mũi. Cả căn phòng sực nức thứ mùi giống mùi dừa.

“Nhân tiện, Nick.” Boney nói. “Còn nhớ khi tôi hỏi anh về việc Amy có người bạn nào trong thị trấn không – thế Noelle Hawthorne thì sao? Anh không hề nhắc đến cô ta. Cô ta đã để lại cho chúng tôi hai tin nhắn.”

Tôi nhìn Boney với ánh mắt trống rỗng.

“Noelle ở cùng khu nhà với anh? Mẹ của ba đứa trẻ sinh ba ấy?”

“Không, họ không phải bạn bè.”

“Ồ, hay thật. Cô ta rõ ràng đã cho rằng bọn họ là bạn.”

“Chuyện đó rất hay xảy ra với Amy.” Tôi nói. “Cô ấy nói chuyện với người ta một lần, và rồi họ cứ đeo bám cô ấy. Thật kỳ dị.”

“Bố mẹ cô ấy cũng nói thế.”

Tôi cân nhắc việc hỏi trực tiếp Boney về Hilary Handy và Desi Collings. Rồi tôi quyết định không làm thế, trông tôi sẽ ổn hơn với vai trò người đảm trách chính trong chuyện này. Tôi muốn Rand và Marybeth thấy tôi với phong thái của một anh hùng hành động. Tôi không thể rũ bỏ cái nhìn đó của Marybeth đối với tôi: Cảnh sát chắc chắn sẽ nghĩ sự việc xảy ra… ở gần nhà.

“Mọi người cho rằng họ hiểu cô ấy vì họ đã đọc những cuốn sách đó.” Tôi nói.

“Tôi có thể hiểu điều này.” Boney gật đầu nói. “Mọi người muốn tin là họ hiểu người khác. Cha mẹ muốn tin là họ hiểu con mình. Các bà vợ muốn tin là họ hiểu chồng mình.”

Một giờ đồng hồ sau đó trung tâm tình nguyện bắt đầu giống với một khu dã ngoại cho gia đình. Mấy cô bạn gái cũ của tôi có ghé qua để chào hỏi và giới thiệu con cái họ. Một trong những người bạn thân nhất của mẹ tôi, bà Vicky, đến cùng với ba cô cháu gái, những cô bé nhút nhát có độ tuổi từ mười đến mười hai và mặc toàn màu hồng.

Những đứa cháu. Mẹ tôi đã nói rất nhiều về những đứa cháu, như thể đó là điều chắc chắn sẽ thành hiện thực. Bất cứ khi nào bà mua một món đồ nội thất mới, bà sẽ giải thích rằng bà thích kiểu dáng đặc biệt đó bởi “nó sẽ thích hợp khi có cháu.” Bà muốn sống để được nhìn mặt các cháu của mình. Tất cả bạn bè của bà đều có thừa thãi những đứa cháu như vậy. Có lần tôi và Amy mời mẹ tôi và Go đến ăn tối để kỷ niệm tuần lễ tưng bừng nhất của Quán Bar. Khi tôi thông báo rằng chúng tôi có một lý do để ăn mừng, mẹ tôi đã đứng bật dậy, òa khóc và ôm chầm lấy Amy, người lúc ấy cũng bắt đầu ứa nước mắt và thì thào trong vòng tay ôm ghì nghẹt thở của mẹ tôi: “Anh ấy đang nói về Quán Bar, anh ấy chỉ đang nói về chuyện của Quán Bar thôi mẹ ạ.” Và sau đó mẹ tôi đã cố hết sức để tỏ ra là bà đang phấn khích cũng vì chuyện ấy: “Còn khối thời gian cho những đứa trẻ mà.” Bà nói với giọng vỗ về hết mực, đến mức Amy lại bắt đầu rơi nước mắt. Điều đó thật lạ kỳ, vì chính Amy đã quyết định là cô ấy không muốn có con, và cô ấy còn lặp đi lặp lại điều này rất nhiều lần. Nhưng những giọt nước mắt ấy đã cho tôi chút hy vọng ngoan cố rằng có thể cô ấy đang suy nghĩ lại. Bởi thực sự không còn nhiều thời gian nữa. Khi chúng tôi chuyển về Carthage thì Amy đã ba mươi bảy rồi. Tháng Mười tới, cô ấy sẽ bước sang tuổi ba mươi chín.

Và rồi tôi nghĩ: Nếu tình hình này cứ kéo dài mãi, chúng tôi sẽ phải tổ chức tiệc sinh nhật giả hay thứ gì đó tương tự thế. Chúng tôi sẽ phải kỷ niệm nó, bằng cách này hay cách khác, một buổi lễ chẳng hạn, để thu hút sự chú ý của các tình nguyện viên và giới truyền thông lần nữa. Tôi sẽ phải vờ như mình đang tràn trề hy vọng.

“Đứa con hoang đã trở về.” Một thứ giọng với âm mũi cất lên, và khi quay lại nhìn, tôi thấy một gã đàn ông gầy gò mặc chiếc áo phông giãn sợi, đang gãi gãi bộ ria mép cong như ghi-đông xe đạp của mình. Cậu bạn cũ của tôi, Stucks Buckley, hay gọi tôi là đứa con hoang, mặc dù cậu ta chẳng biết phát âm từ này thế nào cho đúng, mà cũng chẳng hiểu nghĩa của nó là gì. Tôi cho là cậu ta dùng nó như một từ đồng nghĩa thú vị với từ thằng ngốc. Stucks Buckley, nghe như tên của một vận động viên bóng chày vậy, và đó cũng chính là điều mà đáng ra Stucks đã làm, ngoại trừ việc cậu ta chưa bao giờ có tài năng, mà chỉ có một mơ ước cháy bỏng. Trong thị trấn thì cậu ta là người khá nhất, nhưng thế vẫn chưa đủ. Cú sốc lớn nhất trong đời cậu ta là hồi học cao đẳng, khi bị loại khỏi đội bóng, và sau đó mọi thứ trở nên cực kỳ khốn nạn. Giờ cậu ta là một kẻ nghiện ngập chuyên làm những việc lặt vặt với tính khí nóng nảy thất thường. Cậu ta đã từng ghé Quán Bar một vài lần để cố kiếm công việc gì đó, nhưng rồi cậu ta lắc đầu trước cả đống những việc linh tinh hàng ngày mà tôi đề nghị cậu ta làm, và còn tỏ ra khó chịu trong khi miệng vẫn nhóp nhép nhai kẹo cao su: Thôi nào, anh bạn, cậu có gì khác không, cậu chắc hẳn phải còn việc gì khác nữa chứ.

“Stucks.” Tôi cao giọng chào đón, chờ xem liệu cậu ta có đang trong tâm trạng thân thiện hay không.

“Nghe nói đám cảnh sát đang long trọng làm hỏng bét vụ này.” Cậu ta vừa nói vừa kẹp hai tay dưới nách.

“Nói thế bây giờ vẫn còn hơi sớm.”

“Thôi nào, anh bạn, với mấy cái trò tìm kiếm ẻo lả như thế này sao? Tôi thấy đến tìm con chó của ông thị trưởng người ta còn bỏ nhiều công sức hơn thế.” Khuôn mặt Stucks bị cháy nắng, tôi có thể cảm nhận được cả hơi nóng tỏa ra khi cậu ta ngả người lại gần hơn và phả vào mặt tôi một hơi thở đặc mùi Listerine và sợi thuốc lá. “Tại sao họ không bố ráp vài tên nào đó nhỉ? Có cả đống người ở cái thành phố này để lựa mà bọn cớm không túm được một đứa nào à? Không một ai sao? Tụi Blue Book chẳng hạn? Tôi đã hỏi ả thanh tra đó như vậy đấy: Tụi Blue Book thì thế nào? Ả ta thậm chí còn không thèm đáp lời tôi.”

“Tụi Blue Book là sao? Một băng đảng à?”

“Tất cả những kẻ bị đuổi việc khỏi nhà máy Blue Book hồi mùa đông năm ngoái ấy. Không được bồi thường, không gì cả. Cậu có thấy một vài tên trong đám người vô gia cư, vác theo mấy cái túi tỏ vẻ vô cùng khó chịu và cứ quanh quẩn trong thành phố đó không? Dễ là bọn Blue Book lắm đấy.”

“Tôi vẫn chưa hiểu ý cậu: Nhà máy Blue Book?”

“Cậu cũng biết đấy: Xưởng in River Valley đó. Ở ngoại vi thành phố ấy? Họ in những quyển sổ màu xanh mà cậu từng dùng cho việc viết luận và mấy thứ quái quỷ hồi học đại học còn gì.”

“Ồ. Tôi không biết chuyện đó.”

“Giờ thì các trường đại học đều dùng máy vi tính cả rồi, đâu mà chẳng thế, cho nên – phiuuu! – chào nhé, các giai Blue Book.”

“Trời ạ, cả cái thị trấn này sắp đóng cửa đến nơi rồi.” Tôi lẩm bẩm.

“Đám Blue Book ấy, chúng nó uống rượu, dùng ma túy và quấy rối mọi người. Ý tôi là, chúng vẫn làm thế từ trước rồi, nhưng chúng luôn phải tạm dừng để trở lại làm việc vào ngày thứ Hai. Còn giờ thì chúng như phát cuồng.”

Stucks ngoác miệng cười với tôi, khoe hàm răng sứt mẻ. Tóc cậu ta lốm đốm những vệt sơn, đó là công việc mùa hè của Stucks kể từ thời trung học: sơn nhà. Tôi có chuyên môn trong những công việc có tính sạch sẽ, cậu ta sẽ nói vậy, và chờ đến khi người ta hiểu được câu đùa của mình. Nếu họ không cười, cậu ta sẽ giải thích.

“Thế tụi cớm đã tìm đến chỗ trung tâm thương mại chưa?” Stucks hỏi. Tôi lúng túng nhún vai.

“Chết tiệt, anh bạn, chẳng phải cậu từng là nhà báo hay sao?” Stucks luôn có vẻ tức giận với nghề nghiệp trước đây của tôi, như thể nó là một sự dối trá đã tồn tại từ lâu rồi. “Đám Blue Book ấy, bọn chúng lập ra một khu buôn bán nhộn nhịp ngay trong trung tâm thương mại. Chúng ngồi chồm hỗm ở đó, mua bán ma túy. Cảnh sát cứ đuổi chúng đi thì ngay hôm sau chúng lại quay trở lại. Dù sao đó cũng là những gì tôi đã nói với quý cô thanh tra kia: Lục soát cái trung tâm thương mại khốn kiếp ấy đi. Bởi vì một tháng trước đây, mấy thằng trong số bọn chúng đã hãm hiếp tập thể một cô gái. Ý tôi là, khi đã có một đám đàn ông bất đắc chí tụ tập với nhau, sẽ chẳng có gì tốt đẹp xảy đến với bất kể phụ nữ nào đi ngang qua bọn chúng cả.”

Trên đường lái xe đến khu vực tìm kiếm buổi chiều, tôi gọi điện cho Boney, và bắt đầu nói ngay khi cô ta bắt máy.

“Tại sao khu trung tâm thương mại vẫn chưa được điều tra vậy?”

“Khu đó sẽ được điều tra, Nick. Chúng tôi đã cắt cử người, hiện đang trên đường tới đó.”

“Ồ. Tốt rồi. Bởi anh bạn của tôi…”

“Stucks hả, tôi hiểu, tôi có biết anh ta.”

“Cậu ta đã nói về chuyện…”

“Đám Blue Book phải không, tôi có biết. Hãy tin ở chúng tôi, Nick, chúng tôi hiểu tình hình. Chúng tôi cũng mong muốn tìm được Amy như anh vậy.”

“Vậy tốt rồi. Cảm ơn.”

Tinh thần chính trực của tôi tụt dốc không phanh. Tôi uống liền một hơi cà phê trong chiếc cốc nhựa lớn và lái xe về khu vực được chỉ định. Ba địa điểm sẽ được tìm kiếm trong chiều nay: khu vực hạ thủy Gully (mà giờ được hiểu là Nơi Nick Đã Đến Vào Buổi Sáng Hôm Đó Mà Không Có Ai Chứng Kiến), khu rừng Thung lũng Cối xay (một nơi chẳng hề xứng với tên gọi, người ta có thể thấy rất nhiều nhà hàng phục vụ đồ ăn nhanh thấp thoáng sau hàng cây), và Công viên Wolky, một khu bảo tồn tự nhiên với những đường mòn đi bộ leo núi và cưỡi ngựa. Tôi được giao nhiệm vụ đến Công viên Wolky.

Khi tôi đến nơi, một sĩ quan cảnh sát đang chỉ huy một nhóm khoảng mười hai người, ai nấy chân cẳng đều rắn chắc, mặc quần soóc bó, đeo kính mát và đội mũ, cùng với thứ oxit kẽm đó, thành phần của kem chống nắng, dính trên đầu mũi. Toàn cảnh trông như thể một buổi cắm trại ngoài trời.

Hai tổ công tác truyền hình khác nhau đang quay phim cho đài địa phương. Đó là dịp Quốc khánh 4 tháng 7 cuối tuần, Amy chắc hẳn sẽ bị chen lấn giữa hội chợ thông tin của bang và các cuộc thi nướng thịt. Một tay phóng viên mới vào nghề không ngừng vo ve quanh tôi, dồn dập đặt cho tôi những câu hỏi vô nghĩa, toàn thân tôi lập tức trở nên đơ cứng, thái độ lạnh lùng trước sự chú ý đó, còn khuôn mặt “lo âu” của tôi trông thật giả tạo. Một mùi ngai ngái của phân ngựa thoảng lên trong không khí.

Đám phóng viên nhanh chóng bỏ đi cùng các tình nguyện viên theo lối đường mòn. (Nhà báo kiểu gì mà coi người chồng bị tình nghi là đối tượng để khai thác thông tin rồi lại bỏ đi như thế chứ? Đúng là thứ nhà báo kém cỏi với mức lương mạt hạng, rơi rớt lại sau khi tất cả những nhà báo chân chính đã bị sa thải.) Một tay cớm trẻ mặc cảnh phục yêu cầu tôi đứng lại – ngay tại đó, chính lối dẫn vào những đường mòn khác nhau ấy, ở gần một bảng thông báo có dán chằng chịt những tờ bướm cũ rích, trong đó có cả thông tin tìm người mất tích là Amy, vợ tôi, với ánh mắt chăm chăm trên bức ảnh. Ngày hôm nay cô ấy đã đeo bám tôi đến khắp mọi nơi.

“Tôi nên làm gì bây giờ?” Tôi hỏi viên sĩ quan. “Ở đây tôi thấy mình như thằng ngốc vậy. Tôi cần phải làm một việc gì đó.” Đâu đấy trong khu rừng, tiếng hí của một con ngựa cất lên nghe thật thảm thương.

“Chúng tôi thực sự cần anh có mặt ở đây, Nick. Chỉ cần tỏ ra thân thiện và cổ vũ tinh thần là được rồi.” Anh ta vừa nói vừa chỉ tay vào chiếc bình thủy tinh màu cam chói lọi ngay cạnh tôi. “Rồi mời nước. Và để ý bất cứ ai xuất hiện trong khu vực của tôi.” Anh ta quay người và đi về phía chuồng ngựa. Tôi chợt nghĩ bọn họ đang cố tình ngăn tôi xuất hiện ở bất kỳ khu vực nào có khả năng là hiện trường phạm tội. Tôi không chắc hành động này là có ý gì.

Trong lúc tôi đang đứng vẩn vơ, làm ra vẻ bận rộn với chiếc thùng làm lạnh, thì một chiếc SUV màu đỏ bóng loáng như sơn móng tay muộn màng lăn bánh vào. Một nhóm phụ nữ tầm bốn mươi gì đó ở trụ sở chính từ trong xe bước ra. Người phụ nữ đẹp nhất, được Boney phong là cổ động viên nhiệt tình, đang túm cao mái tóc lên theo kiểu đuôi ngựa để một trong số những cô bạn xịt giúp thuốc chống sâu bọ lên gáy cho mình. Người phụ nữ đó cẩn thận xua tay trước đám hơi xịt. Cô ta liếc ngang nhìn sang phía tôi, rồi sau đó tách khỏi nhóm bạn, chậm rãi bước tới với mái tóc buông xõa trên vai cùng nụ cười đầy vẻ cảm thông và đau buồn hiện trên gương mặt, nụ cười kiểu Tôi rất lấy làm tiếc. Cô ta có đôi mắt nai to tròn màu nâu, chiếc áo màu hồng chỉ dài vừa tới cạp chiếc quần soóc màu trắng bằng chất vải nhăn. Chân đi xăng-đan cao gót, tóc uốn gợn sóng và tai đeo đôi khuyên vòng bằng vàng. Tôi thầm nghĩ Người ta sẽ không ăn mặc như thế này để đi tìm người mất tích.

Làm ơn đừng bắt chuyện với tôi, thưa cô.

“Chào, Nick, tôi là Shawna Kelly. Tôi rất lấy làm tiếc.” Cô ta nói với âm lượng lớn quá mức cần thiết, giọng hơi the thé kiểu tiếng một con lừa kêu đầy phấn khích. Cô ta chìa tay ra, và tôi cảm thấy hơi chột dạ khi trông thấy đám bạn của Shawna vừa thong thả bước trên con đường mòn, vừa gieo về phía chúng tôi những cái nhìn ngụ ý của hội con gái.

Tôi trả lễ cô ta những gì mà tôi có: lời cảm tạ, nước uống, cái bặm môi lúng túng. Shawna không tỏ vẻ gì sẽ rời đi, ngay cả khi tôi đã hướng ánh nhìn chăm chăm của

mình về phía trước, phía con đường mòn nơi nhóm bạn cô ta đã khuất dạng.

“Tôi mong là anh có bạn bè hoặc họ hàng để chăm sóc cho mình trong lúc này, Nick ạ.” Cô ta vừa nói vừa đập mạnh một con ruồi trâu. “Đàn ông rất hay quên tự chăm sóc bản thân. Những gì anh cần là thức ăn dễ tiêu hóa.”

“Chúng tôi chủ yếu ăn món thịt nguội với phô mai thôi – cô biết đấy, vừa nhanh gọn, vừa dễ làm.” Tôi có thể cảm thấy mùi vị xúc xích Ý vẫn đọng lại ở cổ họng, và hơi men tiêu hóa thức ăn trong dạ dày đang đẩy lên. Tôi chợt nhận ra là từ sáng đến giờ mình vẫn chưa đánh răng.

“Ồ, tội nghiệp anh chưa. Chà, thịt nguội kèm phô mai, món đó không ổn đâu.” Cô ta lắc lắc đầu, đôi vòng đeo tai lấp loáng dưới ánh nắng. “Anh cần phải giữ sức. Hiện giờ thì anh may mắn đấy, vì tôi đã làm một chiếc bánh Frito nhân thịt gà bình thường. Anh biết không? Tôi sẽ gói lại và gửi nó tại trung tâm tình nguyện vào ngày mai. Anh chỉ việc hâm nóng bằng lò vi sóng bất cứ khi nào anh muốn một bữa tối nóng sốt ngon lành.”

“Ồ, nghe có vẻ phiền hà quá, thật đấy. Chúng tôi ổn mà. Chúng tôi thật sự vẫn ổn.”

“Anh sẽ còn ổn hơn sau khi ăn một bữa tử tế.” Cô ta vừa nói vừa vỗ nhẹ vào cánh tay tôi.

Im lặng. Rồi cô ta thử tấn công ở góc độ khác.

“Tôi thực sự hy vọng việc này sẽ không dính líu gì… đến những kẻ vô gia cư đó.” Cô ta nói. “Tôi thề là mình đã đệ đơn kiện hết lần này đến lần khác. Tháng trước, có một tên đã đột nhập vào vườn nhà tôi. Vì bộ phận cảm biến của nhà tôi phát tín hiệu báo động nên tôi đã lén nhìn ra ngoài, và thấy hắn ta đang ở đó, quỳ mọp trên bùn đất, ngấu nghiến ăn cà chua. Hắn ta gặm chúng rau ráu như gặm táo, mặt và áo bê bết nước và hạt cà chua. Tôi cố gắng đuổi hắn ta đi nhưng hắn còn cố lấy thêm ít nhất hai mươi quả nữa trước khi bỏ chạy. Dù gì thì đám người ấy cũng lâm vào cảnh khốn cùng rồi, những tên Blue Book đó. Vì chúng có tay nghề gì khác đâu.”

Bỗng nhiên tôi cảm thấy một mối liên hệ mật thiết giữa mình với đội quân những người đàn ông Blue Book đó. Tôi hình dung mình đang tiến vào giữa khu vực đóng quân đầy cay đắng của bọn họ, tay vẫy lá cờ trắng: Tôi là anh em của các bạn, tôi cũng từng làm việc trong ngành xuất bản. Máy vi tính cũng đã cướp mất việc làm của tôi.

“Đừng nói với tôi là anh quá trẻ để có thể nhớ ra những quyển sổ màu xanh đó nhé, Nick.” Shawna vẫn đang nói. Cô ta huých một cái vào cạnh sườn tôi làm tôi nhảy dựng lên quá mức cần thiết.

“Tôi già quá rồi, cô mà không nhắc thì tôi đã quên mất mấy quyển sổ màu xanh đó đấy.”

Cô ta cười: “Anh bao nhiêu tuổi, ba mốt hay ba hai vậy?”

“Sao không thử đoán là ba mươi tư nhỉ?”

“Một đứa trẻ.”

Ngay lúc đó thì một nhóm ba phụ nữ lớn tuổi đầy nhiệt huyết cũng vừa đến. Họ nặng nề bước về phía chúng tôi, một người trong số họ đang nói chuyện điện thoại. Tất cả đều mặc váy xòe, dài quá gối, được may bằng chất vải bố dày dặn. Những đôi giày Keds và áo chơi gôn cộc tay để lộ ra những bắp tay lỏng lẻo. Họ gật đầu chào tôi một cách trọng thị, rồi đưa ánh mắt có ý chê trách khi nhìn thấy Shawna. Trông chúng tôi như thể một cặp đôi đang tổ chức tiệc thịt nướng ở sân sau nhà mình vậy. Trông thật không đúng đắn chút nào.

Làm ơn đi đi, Shawna. Tôi thầm nghĩ.

“Dù sao thì mấy gã vô gia cư đó, bọn họ có thể rất hung hăng, như đe dọa phụ nữ chẳng hạn.” Shawna nói. “Tôi đã đề cập điểm này với Thanh tra Boney, nhưng tôi có cảm giác là cô ta không ưa tôi lắm.”

“Sao cô lại nói vậy?” Tôi biết cô ta sắp sửa nói những gì, một thứ kinh thánh của tất cả những phụ nữ quyến rũ.

“Phụ nữ có vẻ không ưa tôi cho lắm.” Cô ta nhún vai. “Cũng chẳng biết làm thế nào khác được. Amy đã… Amy có nhiều bạn bè ở thành phố này không?”

Một vài phụ nữ – bạn của mẹ tôi và bạn của Go – đã mời Amy tham gia vào các câu lạc bộ sách hay các buổi tiệc của Amway, hoặc đêm của những cô gái được tổ chức tại nhà hàng Chili’s. Dễ đoán được là Amy từ chối hầu hết, trừ một vài sự kiện cô ấy đã tham dự và không hề thấy thích: “Bọn em đã gọi cả triệu những món đồ rán linh tinh và uống cocktail được làm từ kem.”

Shawna đang nhìn tôi với vẻ muốn biết về Amy, muốn được xếp chung một nhóm với vợ tôi, người thật ra sẽ ghét cô ta.

“Tôi nghĩ có lẽ cô ấy có cùng vấn đề với cô.” Tôi nói nhát gừng.

Cô ta mỉm cười.

Đi đi, Shawna.

“Thật khó khăn khi đến một thành phố mới.” Cô ta nói. “Càng nhiều tuổi, càng khó kết bạn. Cô ấy bằng tuổi anh à?”

“Ba mươi tám.”

Điều này hình như cũng lại làm cô ta hài lòng.

Cút xéo đi cho tôi nhờ.

“Đàn ông thông minh luôn thích phụ nữ lớn tuổi hơn mình.”

Cô ta vừa cười vừa lôi ra từ trong chiếc túi xách lớn màu xanh lục nhạt của mình một chiếc điện thoại cầm tay. “Lại đây.” Nói đoạn cô ta vòng một tay ôm lấy tôi. “Cười một điệu thật hoành tráng kiểu thịt gà hầm Frito cho tôi xem nào.”

Ngay lúc đó tôi những muốn tát cô ta một cái, cái kiểu vô duyên, khêu gợi đó của cô ta: chỉ nhăm nhe để thỏa mãn cái tôi của mình từ chồng của một phụ nữ đang mất tích. Tôi nuốt cơn giận, cố hành động ngược lại, cố gắng sửa chữa sai lầm và tỏ ra tử tế, thế nên tôi đã cười một cách máy móc khi cô ta kề sát mặt mình vào má tôi và tự sướng với chiếc điện thoại đó. Thứ âm thanh giả tiếng máy chụp ảnh làm tôi sực tỉnh.

Cô ta xoay điện thoại lại phía tôi và tôi thấy hai bộ mặt cháy nắng tươi cười kề sát nhau, như thể chúng tôi đang hẹn hò tại một trận thi đấu bóng chày vậy. Nhìn cái điệu cười xun xoe nhăn nhở với đôi mi trễ xuống của mình, tôi đã nghĩ: Mình ghét tên này.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.