Gone Girl - Cô Gái Mất Tích

Chương 15: Nick Dunne



Ba ngày trôi qua

Cảnh sát sẽ không tìm được Amy trừ khi có ai đó muốn cô ấy được tìm thấy. Chừng đó là quá rõ rồi. Mọi nơi có màu xanh và màu nâu đều đã được tìm kiếm: hàng dặm sông Mississippi bùn lầy, tất cả những con đường mòn và đường bộ leo núi, hàng loạt những cánh rừng thưa. Nếu cô ấy còn sống, ai đó cần phải đưa trả cô ấy về. Còn nếu cô ấy đã chết, thiên nhiên sẽ phải buông tha cô ấy. Sự thật đã rõ ràng như vị chua trên đầu lưỡi. Tôi đến trung tâm tình nguyện và nhận ra tất cả mọi người đều hiểu điều này: Một không khí bơ phờ và thất bại bao trùm cả căn phòng. Tôi đi loanh quanh không chủ đích tới quầy bánh nướng và cố gắng thuyết phục mình ăn một thứ gì đó. Món bánh nướng Đan Mạch. Tôi bắt đầu tin rằng không có loại đồ ăn nào đáng thất vọng hơn món bánh kiểu Đan Mạch này, thứ bánh vừa mới được đem ra mà có vẻ đã bị hỏng rồi.

“Tôi vẫn cho là ở khu vực con sông thôi.” Một tình nguyện viên nói với bạn của anh ta, cả hai đều đang nhặt bánh nướng với bàn tay còn lấm lem. “Ngay phía sau nhà gã đó, còn gì tiện hơn thế nữa?”

“Giờ này đáng lẽ cô ta đã phải nổi lên ở chỗ nước xoáy rồi chứ nhỉ, hoặc ở một cửa cống hay chỗ nào tương tự thế mới phải.”

“Nếu cô ta bị chặt ra thì không đâu. Chặt rời chân, tay… thì cơ thể có thể trôi đến tận vùng Vịnh ấy chứ. Ít nhất là đến Tunica.”

Tôi quay đi trước khi bọn họ trông thấy mình.

Một giáo viên cũ của tôi, thầy Coleman, đang ngồi bên chiếc bàn chơi bài, vừa lúi húi với điện thoại vừa nguệch ngoạc ghi lại thông tin. Khi tôi bắt gặp ánh mắt của ông ấy, ông ấy liền ra tín hiệu cúc cu: ngón tay xoay tròn chỉ vào tai, sau đó lại chỉ vào chiếc điện thoại. Hôm qua ông ấy đã mở lời chào tôi rằng: “Cháu gái tôi đã bị một gã lái xe say rượu đâm chết, cho nên…” Chúng tôi đã thì thầm và lúng túng vỗ nhẹ vào nhau.

Điện thoại di động của tôi đổ chuông, loại có thẻ dùng một lần – tôi không biết nên để nó ở đâu nên tôi đã giữ nó bên mình. Tôi đã gọi một cuộc điện thoại, và họ đang gọi lại, nhưng tôi không thể nghe được. Tôi tắt điện thoại, rồi nhìn quanh phòng để chắc chắn là ông bà Elliott đã không thấy hành động đó. Marybeth đang lách tách bấm chiếc BlackBerry của bà ấy, rồi đưa nó xa ra khoảng một cánh tay để có thể đọc được dòng chữ. Khi nhìn thấy tôi, bà ấy thoăn thoắt tiến lại gần, tay ôm khư khư chiếc BlackBerry trước ngực như một tấm bùa hộ mệnh.

“Từ đây đến Memphis mất bao lâu?” Bà ấy hỏi.

“Gần năm tiếng. Có gì ở Memphis vậy mẹ?”

“Hilary Handy sống ở Memphis. Kẻ đeo bám Amy từ hồi trung học. Chẳng phải rất trùng hợp hay sao?”

Tôi không biết phải nói gì nữa: chẳng trùng hợp tý nào?

“Phải đấy, Gilpin cũng làm ta tức điên lên được. Chúng tôi không thể chi phí cho một vấn đề đã xảy ra cách đây hơn 20 năm rồi. Đồ khốn. Thằng nhóc đó luôn cư xử với ta như thể ta sắp bị chứng cuồng loạn đến nơi, hắn ta nói chuyện với Rand trong khi ta ở ngay đó, hoàn toàn phớt lờ như thể ta là một mụ ngớ ngẩn cần được chồng mình giải thích cho mọi chuyện ấy. Đồ khốn.”

“Thành phố này đang sa sút.” Tôi nói. “Con chắc rằng họ thực sự không có đủ kinh phí, Marybeth ạ.”

“Chà, chúng ta thì có. Ta nghiêm túc đấy, Nick. Đứa con gái này rất điên rồ. Và ta biết cô ta đã cố liên lạc với Amy trong suốt những năm qua. Amy đã kể cho ta vậy.”

“Cô ấy chưa bao giờ kể với con cả.”

“Lái xe tới đó thì tốn bao nhiêu tiền? Năm mươi đô-la chứ gì? Được thôi. Con sẽ đi chứ? Con đã nói là con sẽ đi mà. Làm ơn đi? Ta sẽ không thể thôi suy nghĩ cho tới khi biết có ai đó nói chuyện với cô ta.”

Chí ít thì tôi biết điều này là thật, vì con gái bà ấy cũng bị chứng bệnh lo nghĩ dai dẳng giống như thế: Amy có thể bứt rứt suốt cả buổi tối đi chơi về việc hình như cô ấy chưa tắt bếp, dù cho ngày hôm đó chúng tôi chẳng hề nấu ăn. Hoặc không biết cửa đã khóa chưa? Liệu tôi có chắc không? Cô ấy là một nhà soạn kịch tài ba luôn dựng lên những tình huống xấu nhất. Bởi không bao giờ đơn giản chỉ là vấn đề cửa chưa được khóa, mà chính việc cửa chưa được khóa đó sẽ dẫn đến việc có kẻ đã đột nhập vào nhà, chúng đang chờ để hãm hiếp và giết chết cô ấy.

Tôi cảm thấy mồ hôi lấm tấm trên da mình, bởi rốt cuộc những nỗi sợ hãi của vợ tôi đã thành hiện thực. Hãy thử hình dung sự thỏa mãn khủng khiếp đó, khi biết rằng những lo lắng trong suốt bao năm qua giờ đã được đáp trả.

“Tất nhiên là con sẽ đi. Và tiện đường con sẽ ghé qua St. Louis để gặp cái gã Desi kia nữa. Chuyện này coi như xong nhé.” Tôi quay người và đi ra để gây ấn tượng, được chừng mươi mét thì đột nhiên Stucks lại xuất hiện, gương mặt cậu ta vẫn váng vất vẻ thiếu ngủ ấy.

“Tôi nghe nói hôm qua tụi cớm đã kiểm tra khu trung tâm thương mại.” Cậu ta vừa nói vừa lấy tay gãi gãi quai hàm. Tay kia cầm một chiếc bánh vòng bóng loáng, còn chưa cắn miếng nào. Ở túi trước chiếc quần hộp mà cậu ta đang mặc có thứ gì đó phồng lên hình vòng tròn. Suýt chút nữa thì tôi đã trêu cậu ta: Trong túi cậu có phải còn một chiếc bánh nữa không hay cậu bị…

“Ừ. Chẳng thấy gì cả.”

“Ngày hôm qua. Bọn họ đi vào ngày hôm qua, mấy thằng ngốc ấy.” Cậu ta cúi đầu nhìn quanh như thể đang lo lắng sẽ có ai nghe thấy mình. Cậu ta ngả người lại gần tôi. “Cậu phải đi vào ban đêm, khi ấy chúng mới ở đó. Ban ngày thì chúng ở dưới chỗ bờ sông, hoặc đi phất cờ rồi.”

“Phất cờ ư?”

“Thì cậu biết đấy, chúng ngồi ở những cung đường thoát khỏi đường cao tốc, mang theo những bảng hiệu như: Bị mất việc, Làm ơn cứu giúp, Cần tiền mua bia, đại loại thế.” Cậu ta vừa nói vừa liếc nhìn quanh căn phòng. “Thế là phất cờ đấy, anh bạn ạ.”

“Được rồi.”

“Ban đêm thì chúng ở trung tâm thương mại.” Cậu ta nói.

“Vậy thì hãy đi vào tối nay.” Tôi nói. “Cậu và tôi, cùng bất kỳ ai khác nữa.”

“Joe và Mikey Hillsam.” Stucks nói. “Tụi nó sẵn sàng làm việc này.” Anh em nhà Hillsam hơn tôi khoảng ba, bốn tuổi, là mấy gã dữ dằn trong thành phố. Bọn họ thuộc tuýp những kẻ sinh ra đã không có gen sợ hãi và miễn nhiễm với sự đau đớn. Những gã trai không chịu ngồi yên, đã guồng đôi chân cơ bắp ngắn ngủn của mình qua bao mùa hè, nào là chơi bóng chày, rồi uống bia, và tham gia những trò thách thức kỳ lạ: trượt ván trong kênh thoát nước hay leo tháp nước với bộ dạng trần như nhộng. Đó là kiểu người mà vào một đêm thứ Bảy tẻ nhạt nào đó sẽ lái xe điên cuồng với ánh mắt hoang dại, và bạn biết chuyện gì sẽ xảy ra rồi đấy, có thể chẳng tốt đẹp gì, nhưng chắc chắn là có chuyện. Lẽ dĩ nhiên, anh em nhà Hillsam sẽ hăng hái trong vụ này.

“Tốt.” Tôi nói. “Đêm nay chúng ta sẽ đi.”

Điện thoại trong túi tôi đổ chuông. Cái thứ đó vẫn chưa được tắt nguồn đúng cách. Nó lại đổ chuông rồi.

“Cậu không định bắt máy à?” Stucks hỏi.

“Không.”

“Cậu nên trả lời mọi cuộc gọi, anh bạn ạ. Thực sự cậu nên làm thế.”

Thời gian còn lại trong ngày chẳng có việc gì để làm cả. Không có kế hoạch tìm kiếm, không cần thêm phi công, điện thoại đã được bố trí trực đầy đủ. Marybeth bắt đầu cho các tình nguyện viên về nghỉ, họ chỉ quanh quẩn ở đó, ăn uống và chán nản. Tôi nghi là Stucks đã rời khỏi đây với hơn một nửa số đồ ăn sáng trên bàn được nhét đầy các túi quần của cậu ta.

“Có ai nghe được tin gì từ mấy viên thanh tra không?” Rand hỏi.

“Không có tin gì cả.” Tôi và Marybeth đồng thanh trả lời.

“Có lẽ thế lại tốt, phải vậy không?” Rand hỏi với đôi mắt tràn đầy hy vọng. Tôi và Marybeth chiều theo ý ông ấy. Vâng, hẳn rồi.

“Bao giờ con đi Memphis?” Marybeth hỏi tôi.

“Ngày mai ạ. Đêm nay con và vài người bạn sẽ tìm ở khu trung tâm thương mại một lần nữa. Bọn con nghĩ ngày hôm qua nó chưa được kiểm tra đúng cách.”

“Tuyệt vời.” Marybeth nói. “Chúng ta đang cần chính những hành động như thế này. Bố mẹ ngờ rằng ngay từ đầu mọi việc đã không được tiến hành đúng cách, chúng ta sẽ tự giải quyết lấy. Bởi ta – chỉ là ta không ấn tượng cho lắm với những gì đã được thực hiện cho tới thời điểm này.”

Rand đặt bàn tay lên vai vợ mình, một dấu hiệu cho thấy điệp khúc này đã được truyền đạt và đón nhận nhiều lần rồi.

“Ta muốn đi với con, Nick.” Ông ấy nói. “Đêm nay, ta cũng muốn đi cùng.” Rand đang mặc một chiếc áo chơi gôn màu xanh lơ với chiếc quần màu ô-liu, đầu đội mũ bảo hộ hơi tối màu. Tôi hình dung cảnh ông ấy cố gắng làm thân với anh em nhà Hillsam, cách quen thuộc có phần liều lĩnh của ông ấy khi tỏ ra mình-cùng-một-hội – này, tớ cũng mê bia ngon lắm, mà đội thể thao của các cậu thế nào? – rồi cảm thấy khó xử trước một mối đe dọa có thể xảy đến.

“Tất nhiên, Rand. Tất nhiên rồi.”

Tôi có mười tiếng ngoài kế hoạch để thoải mái làm gì mình muốn. Xe của tôi sẽ được trả lại – sau khi đã được gia công, hút bụi và sơn, tôi nghĩ vậy – nên tôi đi nhờ xe của một phụ nữ lớn tuổi đến sở cảnh sát. Bà ấy là một tình nguyện viên, thuộc tuýp mấy bà ngoại hay lăng xăng và tỏ vẻ hơi căng thẳng khi trên xe chỉ có mình tôi và bà ấy.

“Tôi chỉ lái xe đưa anh Dunne đây đến sở cảnh sát. Gần nửa tiếng nữa tôi sẽ trở lại.” Bà ta nói với một người bạn trong hội. “Không quá nửa tiếng đâu.”

Gilpin đã không giữ mẩu ghi chú thứ hai của Amy làm vật chứng, anh ta quá hân hoan với mấy món đồ lót nên chẳng bận tâm thêm. Tôi vào xe của mình, mở tung cửa, rồi ngồi xuống khi hơi nóng trong xe xả hết và đọc lại câu đố thứ hai của vợ tôi:

Hãy hình dung: em điên cuồng vì anh

Tương lai em dù ra sao vẫn say anh chếnh choáng

Anh đưa em đến để nghe anh bầu bạn

Những cuộc phiêu lưu thời niên thiếu của anh: chiếc mũ không chóp, chiếc quần jeans không lành

Chỉ có chúng mình, mặc kệ những kẻ khác

Một nụ hôn vụng trộm… vờ như duyên mình đã tạc.

Đó là thành phố Hannibal thuộc bang Missouri, nơi ghi dấu ấn thời niên thiếu của Mark Twain, nơi tôi đã lớn lên và trải qua mỗi mùa hè trong bộ dạng của Huck Finn, đầu đội chiếc mũ rơm và mặc chiếc quần mài rách, đi quanh thị trấn và mỉm cười tinh quái, nài nỉ mọi người ghé vào hàng kem Ice Cream Shoppe. Đó là một trong những câu chuyện mà bạn kể để mua vui trong bữa tối, ít ra là ở New York, bởi chẳng ai có được một tuổi thơ như vậy. Không ai có thể thốt lên rằng: Ồ phải đấy, tôi cũng thế.

Lời chú giải cho “mũ không chóp” là một câu chuyện đùa nho nhỏ giữa chúng tôi: Lần đầu tiên tôi kể với Amy rằng tôi từng đóng vai Huck là khi chúng tôi cùng ra ngoài ăn tối, uống đến chai vang thứ hai và cô ấy đã ngà ngà say một cách cực đáng yêu. Mỗi khi say, cô ấy đều toét miệng cười với đôi má ửng đỏ, nhoài người qua bàn như thể có nam châm gắn trên người tôi vậy. Cô ấy liên tục hỏi liệu tôi có còn giữ chiếc mũ không chóp đó, liệu tôi có chịu đội nó cho cô ấy xem không, và khi tôi thắc mắc tại sao cô ấy lại nghĩ Huck Finn đội mũ không chóp được nhỉ, thì cô ấy uống một ngụm rồi trả lời “Ồ, ý em là chiếc mũ rơm ấy!” cứ như thể đó là hai từ có thể hoàn toàn thay thế được cho nhau vậy. Sau lần đó, mỗi khi xem tennis, chúng tôi đều khen ngợi những chiếc mũ rơm thể thao của các vận động viên.

Hannibal là một lựa chọn lạ lùng đối với Amy, bởi tôi không nhớ có kỷ niệm đặc biệt vui hay buồn nào của chúng tôi ở đó, duy có một lần. Cách đây cũng gần một năm rồi, tôi nhớ chúng tôi đã thả bộ dạo quanh, chỉ trỏ thứ này thứ kia, đọc những tấm áp-phích và nói với nhau “Cái đó thú vị nhỉ,” trong khi người còn lại gật gù “Công nhận.” Kể từ đó, tôi đã trở lại nơi này khi không có Amy (bệnh hoài cổ của tôi là không thể chữa được) và có một ngày tuyệt vời, với nụ cười rạng rỡ trên môi và cảm thấy cuộc sống biết bao thú vị. Nhưng với Amy, nơi đây hoàn toàn bình lặng và nhàm chán. Có phần kỳ quặc nữa. Tôi vẫn nhớ khi tôi bắt đầu kể một câu chuyện ngốc nghếch về chuyến đi thực tế thời thơ ấu của mình ở nơi này, tôi đã bắt gặp ánh mắt trống rỗng của cô ấy, và tôi đã giận điên lên, suốt 10 phút liền tôi đã phải kìm nén mình – bởi ở thời điểm hôn nhân đó của hai chúng tôi, tôi đã quen nổi giận với cô ấy rồi, và điều đó khiến tôi cảm thấy khá thích thú, giống như việc cắn lớp biểu bì trên tay mình vậy. Bạn biết rằng mình nên dừng lại, rằng điều đó thực sự chẳng mang lại cảm giác dễ chịu như bạn tưởng, nhưng bạn không thể ngừng gặm nhấm nó một cách say sưa. Tất nhiên, ngoài mặt thì Amy đã không nhận ra. Chúng tôi vẫn tiếp tục đi dạo, đọc áp-phích, và chỉ trỏ.

Amy đã buộc phải chọn Hannibal cho trò chơi săn tìm kho báu của cô ấy, như một lời nhắc nhở khá khó chịu về sự thiếu vắng những kỷ niệm đẹp đẽ giữa hai đứa kể từ khi chúng tôi chuyển nhà.

Mất gần hai mươi phút thì tôi đến Hannibal. Tôi lái xe qua trụ sở lộng lẫy một thời của tòa án Gilded Age, giờ đây chỉ còn là nơi bán cánh gà rán dưới tầng hầm của tòa nhà. Tôi cho xe chạy thẳng hướng sông, qua một loạt những cơ sở kinh doanh đã ngừng hoạt động – những ngân hàng cộng đồng đổ nát và những rạp chiếu bóng đã không còn tồn tại nữa. Tôi đỗ xe tại khu vực bãi đậu ngay bên bờ sông Mississippi, đối diện với con thuyền của Mark Twain. Đó là bãi đỗ xe miễn phí. (Tôi không khỏi rùng mình trước điều khác thường đó, sự hào phóng khi đỗ xe không mất tiền.) Những tấm băng-rôn in hình một người đàn ông có bờm tóc trắng được treo phất phơ trên các cột đèn, những tấm áp-phích quảng cáo quăn lại vì hơi nóng. Tiết trời hôm đó hừng hực như luồng hơi được thổi ra từ máy sấy. Mặc dù vậy, Hannibal vẫn có vẻ yên bình một cách bất an. Khi đi bộ dọc theo dãy cửa hàng đồ lưu niệm – bán chăn chần bông, đồ cổ và kẹo bơ cứng – tôi nhận thấy các biển hiệu rao bán xuất hiện nhiều hơn. Ngôi nhà của Becky Thatcher đã đóng cửa để nâng cấp, được chi trả bằng nguồn kinh phí còn chưa được gây quỹ. Với mười đô-la bạn đã có thể viết tên mình lên hàng rào quét vôi trắng của Tom Sawyer, nhưng chẳng mấy ai chịu chơi cả.

Tôi ngồi trên bậc tam cấp trước mặt tiền trống không của một cửa hàng. Trong đầu xuất hiện ý nghĩ rằng chính mình đã đẩy Amy tới kết thúc của mọi việc. Chúng tôi thực sự đã trải qua sự tận diệt của một lối sống, cách diễn đạt mà tôi chỉ dùng đối với các thổ dân New Guinea và những người thợ thổi thủy tinh vùng Appalachia. Suy thoái kinh tế đã kết liễu số phận của trung tâm thương mại. Máy tính đặt dấu chấm hết cho xưởng in Blue Book. Carthage kiệt quệ, thành phố chị em với nó là Hannibal thì mất thị trường vì những địa điểm du lịch hào nhoáng, náo nhiệt và vui nhộn hơn. Dòng sông Mississippi thân yêu của tôi đang chết dần bởi loài cá chép châu Á đã đổi hướng di cư ngược về phía hồ Michigan. Thế là kết thúc Amy tuyệt vời. Màn kết cho sự nghiệp của tôi và sự nghiệp của cô ấy, cho cuộc đời bố tôi và cuộc đời mẹ tôi. Màn kết cho cuộc hôn nhân của chúng tôi, và cho Amy.

Ngoài sông vẳng lên tiếng còi tàu hơi nước u u đầy ma mị. Lưng áo sơ-mi của tôi đã ướt đẫm mồ hôi. Tôi buộc mình đứng dậy, rồi buộc mình mua một tấm vé tham quan. Tôi đi bộ theo tuyến đường mà tôi và Amy đã từng qua, trong tâm trí, vợ tôi vẫn ở ngay bên cạnh. Ngày hôm đó cũng là một ngày rất nóng. Anh thật tuyệt vời. Trong hình dung của tôi, cô ấy vẫn đang sóng đôi dạo bước bên tôi, và lần này cô ấy đã mỉm cười. Bụng dạ tôi bỗng cảm thấy nhộn nhạo.

Tôi đi dạo trong tâm tưởng cùng vợ mình theo tuyến đường tham quan chính. Một cặp đôi có mái tóc hoa râm đang dừng lại quan sát ngôi nhà của Huckleberry Finn nhưng không buồn bước vào trong. Phía cuối dãy nhà, một người đàn ông phục sức như Mark Twain – tóc trắng, vest trắng – bước ra từ một chiếc Ford Focus, vươn vai và dõi mắt xuôi theo con phố đìu hiu, rồi sau đấy chúi mặt vào một miếng bánh pizza lớn. Đây rồi, chính nơi chúng tôi đã đến, ngôi nhà được dựng bằng ván xếp, nơi từng là phòng xử án của bố Samuel Clemen. Tấm biển bên ngoài đề chữ: J. M. Clemens, Công lý của Hòa bình.

Một nụ hôn vụng trộm… vờ như duyên mình đã tạc.

Em đang đặt ra những câu đố quá thú vị và dễ dàng, Amy ạ. Như thể em thực sự muốn anh tìm được câu trả lời vậy, để anh cảm thấy hài lòng với chính mình. Cứ tiếp tục như thế đi và anh sẽ phá vỡ kỷ lục của mình cho mà xem.

Không có ai bên trong ngôi nhà. Tôi quỳ trên những tấm ván sàn bụi bặm và quan sát bên dưới chiếc ghế băng đầu tiên. Nếu Amy để lại câu đố ở một địa điểm công cộng, cô ấy sẽ luôn gắn nó bên dưới các đồ vật, kẹp giữa bã kẹo cao su và một lớp bụi, và cô ấy đã luôn đúng, vì chẳng có ai thích nhìn vào mặt dưới những đồ vật đó cả. Không có gì bên dưới chiếc ghế thứ nhất, nhưng có một chiếc túi giấy treo bên dưới chiếc ghế ở phía sau. Tôi trèo qua nó và giật mạnh lấy chiếc phong bì màu xanh của Amy, một mẩu băng ghi âm rơi ra.

Chào chồng yêu quý,

Anh đã tìm được rồi! Đúng là người đàn ông tài giỏi. Điều đó có lẽ sẽ giúp em quyết định không biến trò chơi săn tìm kho báu năm nay trở thành một chặng đường hành quân gượng ép đầy đau khổ trong những ký ức bí ẩn của riêng em.

Em đã tìm được một gợi ý từ nhà văn Mark Twain yêu quý của anh: “Phải làm gì với người đã phát minh ra việc tổ chức những lễ kỷ niệm? Chỉ giết thôi là quá nhẹ.”

Rốt cuộc thì em đã hiểu, những điều mà anh đã nói bao năm nay, rằng trò săn tìm kho báu này nên là khoảng thời gian để mừng lễ kỷ niệm của chúng mình, chứ không phải một bài kiểm tra xem liệu anh có nhớ mọi thứ em từng nghĩ hoặc nói trong suốt một năm qua hay không. Hẳn anh đã cho rằng đó là điều mà một người phụ nữ trưởng thành phải tự nhận thức được, nhưng… em đoán chừng đó cũng là lý do tồn tại của những ông chồng. Để chỉ ra điều mà người vợ không thể tự mình nhìn thấy, cho dù việc đó mất đến năm năm trời. Vậy nên giờ đây em muốn nắm lấy giây phút này, trên những vùng đất in đậm dấu ấn tuổi thơ của Mark Twain, và cảm ơn anh vì sự hóm hỉnh. Anh đích thực là người thông minh, hài hước nhất mà em từng biết. Em có một trí nhớ tuyệt vời về những cảm giác: trong suốt những năm qua anh đã gần kề bên tai em – em có thể cảm thấy hơi thở của anh nhột nhột bên vành tai mình khi đang viết những dòng này – và thì thầm điều gì đó với riêng em, chỉ cốt để em cười. Em nhận ra khi người chồng cố gắng làm vợ anh ta cười, đó quả thật là hành động cao thượng. Và anh đã luôn chọn những thời điểm tuyệt vời nhất. Anh còn nhớ khi Insley và gã chồng khỉ múa của cô ta mời chúng mình đến nhà để chiêm ngưỡng đứa con của họ không, hai ta đã bắt buộc phải đến thăm ngôi nhà hoàn hảo một cách kỳ quặc, tràn ngập hoa và bánh nướng của bọn họ, để dùng bữa sáng gộp bữa trưa và hỏi thăm đứa bé nữa. Bọn họ đã tỏ ra tự cao và trịch thượng quá mức trước việc chúng ta không có con, trong khi đứa bé trai kinh dị của họ thì ngập ngụa trong đống nước dãi lẫn cà rốt hầm, và hình như cả phân nữa – trên người chẳng mặc gì ngoài mỗi chiếc yếm dãi viền đăng-ten và mang đôi ủng len. Khi em đang nhâm nhi ly nước cam của mình, anh đã ngả người qua thì thầm: “Lát nữa anh sẽ mặc như thế.” Em thực sự đã sặc nước đến phun phì cả ra. Đó là một trong những khoảnh khắc mà anh đã cứu em, anh đã làm em cười thật đúng lúc. Chỉ một trái ô-liu thôi nhé. Thế nên hãy để em nhắc lại một lần nữa: anh thật hóm hỉnh. Giờ thì hôn em đi!

Tôi cảm thấy lòng mình chùng xuống. Amy đang sử dụng trò săn tìm kho báu để lái chúng tôi quay lại với nhau. Nhưng quá muộn rồi. Trong lúc cô ấy viết những câu đố này, cô ấy không hề biết đến tâm trạng của tôi. Tại sao vậy, Amy, sao em không làm việc này sớm hơn chứ?

Chúng tôi không bao giờ chọn đúng thời điểm cả.

Tôi mở câu đố tiếp theo, đọc rồi nhét nó vào túi, sau đó quay về nhà. Tôi biết nơi mình phải đến, nhưng tôi chưa sẵn sàng. Tôi không thể chịu được thêm một lời khen, thêm một lời tử tế từ vợ mình, và thêm một cành ô-liu nào khác nữa. Những cảm xúc của tôi về cô ấy đang hoán đổi quá nhanh, từ vị đắng chuyển sang ngọt ngào.

Tôi về nhà Go, dành vài giờ đồng hồ một mình, uống cà phê và mở loanh quanh các kênh truyền hình để giết thời gian trong tâm trạng lo lắng và bực bội, chờ cho tới cuộc hẹn 11:00 tối đi chung xe tới trung tâm thương mại. Cô em sinh đôi của tôi về nhà lúc hơn bảy giờ, trông phờ phạc sau khi phải một mình lo liệu quán bar. Cái liếc nhìn của con bé về phía tivi có ý bảo tôi nên tắt nó đi. “Hôm nay anh đã làm gì vậy?” Con bé vừa hỏi vừa châm một điếu thuốc và ngồi phịch xuống bên chiếc bàn chơi bài cũ kỹ của mẹ tôi.

“Túc trực tại trung tâm tình nguyện… và 11 giờ bọn anh sẽ tìm kiếm ở trung tâm thương mại.” Tôi đáp, không muốn kể cho Go nghe về những câu đố của Amy. Tôi cảm thấy tội lỗi thế là đủ lắm rồi.

Go dàn bài ra chơi một mình, tiếng những quân bài đều đều ập xuống mặt bàn như quở trách. Tôi bắt đầu đi tới đi lui. Go lờ tôi đi.

“Anh xem tivi cốt để sao nhãng bản thân thôi.”

“Em hiểu, em cũng thường như vậy.”

Con bé lật lên một quân J.

“Phải có việc gì đó anh có thể làm được chứ.” Tôi vừa nói vừa lén ngó quanh phòng khách của con bé.

“Thì, vài giờ nữa anh sẽ đi lùng sục khu trung tâm thương mại đó đấy thôi.” Go nói, và không có thêm bất kỳ lời động viên nào nữa. Con bé lật tiếp ba quân bài.

“Nghe như việc đó chỉ tổ phí thời gian thôi ấy nhỉ.”

“Ồ, không. Nên kiểm tra tất cả mọi nơi. Chẳng phải bọn họ đã bắt được tên Con trai của Sam nhờ biên lai phạt đỗ xe còn gì?”

Go là người thứ ba nhắc với tôi về chuyện này, hẳn đó là câu thần chú cho những vụ việc có xu hướng bị đóng băng. Tôi ngồi xuống, đối diện với con bé.

“Anh không quá lo lắng về việc của Amy.” Tôi nói. “Anh biết điều đó.”

“Có lẽ là không.” Rốt cuộc con bé cũng ngước lên nhìn tôi. “Anh cư xử thật kỳ quặc.”

“Anh nghĩ thay vì phát hoảng lên, anh đã tập trung trút sự tức giận vào cô ấy. Bởi tình cảnh của bọn anh dạo này rất tệ. Đến mức anh có cảm giác như mình sai khi lo lắng quá mức, vì anh không có tư cách làm thế. Anh cho là vậy.”

“Em phải nói thực là anh cư xử rất kỳ quặc.” Go nói. “Nhưng đây là một trường hợp không bình thường.” Con bé dập tắt điếu thuốc. “Em không bận tâm anh thể hiện như thế nào với em. Nhưng hãy cẩn thận với những người khác, anh hiểu chứ? Người ta sẽ đánh giá. Rất nhanh.”

Con bé quay lại với ván bài, nhưng tôi muốn Go chú ý đến mình. Tôi tiếp tục.

“Có thể lúc nào đó anh sẽ ghé qua thăm bố.” Tôi nói. “Anh không biết liệu có nên kể cho bố về chuyện Amy không.”

“Không.” Go nói. “Đừng nói gì hết. Đối với Amy ông ấy còn cư xử kỳ quặc hơn cả anh.”

“Anh luôn có cảm giác hẳn là cô ấy đã gợi cho bố nhớ về một cô bạn gái cũ hay gì đó đại loại thế – người đã bỏ ông ấy đi. Sau khi ông ấy…” Tôi làm động tác rũ bàn tay xuống, ý nói đến căn bệnh Alzheimer của bố tôi – “Ông ấy khá thô lỗ và kinh khủng, nhưng…”

“Đúng vậy, nhưng đồng thời cũng muốn gây ấn tượng với chị ấy.” Con bé nói. “Bản năng ngớ ngẩn của một đứa trẻ 12 tuổi bị mắc kẹt trong cơ thể của một lão già 68 tuổi đê tiện.”

“Có phải phụ nữ cho rằng tất cả đàn ông chỉ là những tên ngốc mang tâm tư của một đứa trẻ 12 tuổi không?”

“Ồ, nếu như tâm tư đó quả là vậy.”

23 giờ 08 phút. Rand đang đợi chúng tôi ngay phía sau cánh cửa trượt tự động của khách sạn, khuôn mặt ông ấy nghiêng nghiêng trong bóng tối để nhìn rõ chúng tôi hơn. Anh em nhà Hillsam lái xe đến đón, tôi và Stucks đều leo lên phần đệm. Rand lóc cóc chạy về phía chúng tôi trong chiếc quần soóc chơi gôn bằng kaki và chiếc áo phông Middlebury nhăn nhúm. Ông ấy leo lên phía sau xe, ngồi thụp xuống phần vỏ bọc bánh xe một cách thoải mái, rồi thực hiện màn giới thiệu qua lại như thể ông ấy đang là chủ xị chương trình trò chuyện lưu động của mình vậy.

“Cháu rất tiếc vì chuyện của Amy, thưa bác Rand.” Stucks nói lớn khi xe chúng tôi ầm ầm lao ra khỏi bãi đỗ với một tốc độ nhanh đến mức không cần thiết, rồi chạy thẳng vào đường cao tốc. “Amy quả là một phụ nữ ngọt ngào. Có lần cô ấy thấy cháu đang sơn tường bên ngoài một ngôi nhà, mồ hôi đầm đìa, thế là cô ấy đã lái xe đến cửa hàng 7-Eleven, mua một chai nước có ga thật lớn mang về cho cháu, khi đó còn đang vắt vẻo trên chiếc thang.”

Đó là một lời nói dối. Stucks hay sức khỏe của cậu ta thậm chí chẳng đáng để cô ấy tè cho một cốc nước.

“Nghe rất giống kiểu của con bé.” Rand nói, còn tôi đỏ mặt tía tai tỏ rõ sự bực mình và khó chịu ra mặt. Có lẽ là do tính cách nhà báo của tôi, nhưng sự thật vẫn là sự thật, và người ta không thể biến Amy trở thành người bạn thân thiết đáng yêu của tất cả mọi người chỉ đơn giản vì điều đó có lợi về mặt tình cảm.

“Áo Middlebury ạ?” Stucks vừa nói tiếp vừa chỉ tay vào chiếc áo phông của Rand. “Họ có một đội bóng bầu dục thật ghê gớm.”

“Đúng vậy, chúng tôi có một đội bóng mạnh.” Rand nói rồi lại cười rạng rỡ. Ông ấy và Stucks bắt đầu cuộc thảo luận tận đâu đâu về thứ bóng bầu dục tự do và nghệ thuật, bất kể tiếng ồn của xe, bất kể không gian, thời gian, trong suốt quãng đường đến trung tâm thương mại.

Joe Hillsam đỗ chiếc xe tải của anh ta bên ngoài viên đá đặt nền Mervyns khổng lồ. Tất cả chúng tôi nhảy xuống, duỗi chân, lắc lắc người cho tỉnh táo. Trời đêm oi bức và lấp lánh ánh trăng. Tôi để ý thấy Stucks đang mặc một chiếc áo phông in dòng chữ – có lẽ là một kiểu châm biếm, hoặc có thể không – Để dành hơi mà xì chơi vào lọ.

“Vậy là đến nơi rồi, việc chúng ta đang làm cực nguy hiểm, tôi không đùa đâu.” Mikey Hillsam lên tiếng. Qua bao nhiêu năm, các cơ bắp của anh ta ngày càng cuồn cuộn, cả người anh em của anh ta cũng vậy, bọn họ không chỉ có bộ ngực vạm vỡ mà cái gì cũng vạm vỡ. Đứng bên cạnh nhau bọn họ phải nặng tổng cộng đến gần hai tạ rưỡi ấy chứ.

“Bọn tôi đã từng đến đây một lần rồi, tôi và Mikey, chỉ để – biết nói thế nào nhỉ, chỉ để xem nơi này đã thành một nơi thế nào và bọn tôi xém chút nữa đã bị một trận nhừ tử.” Joe nói. “Vậy nên tối nay chúng ta không thể liều lĩnh được.” Anh ta với tay vào buồng lái lấy một chiếc túi vải bạt, mở khóa và để lộ đến nửa tá gậy bóng chày. Anh ta bắt đầu phân phát chúng một cách rất long trọng. Khi tới lượt Rand, anh ta ngần ngừ. “Ừm, ông muốn một chiếc chứ?”

“Khỉ thật, có chứ.” Rand nói, và tất cả bọn họ đều gật đầu mỉm cười ưng thuận, một nguồn năng lượng lan tỏa khắp cả nhóm, một tinh thần cổ động thân thiện, tốt lắm ông bạn già.

“Đi nào.” Mike nói và dẫn cả bọn đi dọc theo khu vực bên ngoài tòa nhà. “Phía đằng này, gần cửa hàng Spencer ấy, có một cánh cửa đã bị phá khóa.”

Vừa lúc đó chúng tôi đi ngang qua khu cửa kính tối tăm của cửa hàng giày Shoe-Be-Doo-Be, nơi mẹ tôi đã từng làm việc trong suốt hơn một nửa quãng đời của tôi. Tôi vẫn còn nhớ sự hứng khởi của bà khi nộp đơn xin việc tại một nơi được coi là kỳ diệu nhất này – trung tâm thương mại! Hôm đó là một buổi sáng thứ Bảy, bà rời nhà đến hội chợ việc làm trong bộ âu phục màu hồng đào tươi sáng. Một phụ nữ 40 tuổi, lần đầu tiên đi tìm việc và trở về nhà với nụ cười rạng rỡ: Chúng tôi đã không thể hình dung nổi trung tâm thương mại tấp nập đến mức nào, có vô vàn những cửa hàng khác nhau! Và ai mà biết được bà sẽ làm việc ở cửa hàng nào cơ chứ? Bà đã nộp đơn vào chín nơi! Các cửa hàng quần áo, cửa hàng thiết bị âm thanh lập thể và thậm chí cả cửa hàng bán bỏng ngô tạo hình nữa. Một tuần sau, khi bà thông báo rằng mình đã chính thức trở thành nhân viên bán giày, những đứa con của bà đã vô cùng thất vọng.

“Mẹ sẽ phải chạm vào tất cả các loại chân bốc mùi đấy.” Go phàn nàn.

“Mẹ sẽ được gặp tất cả những kiểu người thú vị chứ.” Mẹ chúng tôi chỉnh lại.

Tôi nhìn vào một ô cửa sổ tối tăm. Bên trong hoàn toàn trống không, ngoại trừ một dụng cụ đo cỡ giày được dựa vào tường một cách lạc lõng.

“Mẹ con đã từng làm việc ở đây.” Tôi nói với Rand, buộc ông ấy phải cùng nán lại.

“Nơi này thế nào?”

“Một nơi tốt, họ đối xử tử tế với bà ấy.”

“Ý ta là họ làm gì ở đây?”

“Ồ, giày. Họ làm giày.”

“Một công việc đúng nghĩa! Những đôi giày. Ta thích điều đó. Mọi người đều cần thứ sản phẩm này. Vào cuối mỗi ngày, con biết mình đã làm được những gì: Con đã bán được giày cho năm người khách. Nó không giống như việc viết lách, phải không?”

“Dunne, đi thôi nào!” Phía trước, Stucks đang tựa vào cánh cửa đã được mở, những người khác đã vào trong.

Tôi hình dung mùi của trung tâm thương mại khi chúng tôi bước vào sẽ là mùi của một không gian trống không đã được điều chỉnh nhiệt độ. Thay vào đó, tôi lại ngửi thấy mùi cỏ úa và đất bẩn, mùi của thiên nhiên ở bên trong một nơi chẳng còn sự tồn tại này. Tòa nhà vô cùng nóng bức, hầu như mịt mùng, như thể đang ở bên trong một tấm nệm vậy. Ba người trong chúng tôi cầm đèn pin cỡ lớn, loại dùng để đi cắm trại, ánh sáng rực lên soi rõ những hình ảnh gai người: một thế giới hoang tàn không tưởng, thời kỳ hậu sao chổi, hậu zombie, và hậu loài người. Một tập hợp những chiếc giỏ mua hàng bê bết bùn đất nối nhau tạo thành những đường vòng cung điên cuồng trên mặt sàn màu trắng. Một con chồn hương đang gặm khúc xương dinh dưỡng dành cho chó ở ngay lối vào phòng vệ sinh nữ, đôi mắt nó lấp loáng như hai đồng xu.

Cả trung tâm thương mại im lặng, chỉ vọng lại tiếng nói của Mikey, tiếng bước chân của chúng tôi, tiếng rúc rích lướt khướt say của Stucks. Chúng tôi sẽ không phải là một đòn tấn công bất ngờ, nếu tấn công là những gì chúng tôi nghĩ đến.

Khi chúng tôi tới khu dạo chơi của trung tâm thương mại, toàn bộ khu vực trông phình ra như một quả bóng: bốn tầng cao, cầu thang cuốn và cầu thang máy chằng chịt đan nhau trong bóng đêm đen đặc. Cả bọn tập trung lại gần một đài phun nước đã cạn và chờ ai đó đứng ra lãnh đạo cả nhóm.

“Thế nào, các anh bạn.” Rand nói với vẻ ngờ vực. “Kế hoạch ở đây là gì? Tất cả đều biết nơi này, còn tôi thì không. Chúng ta cần phải tìm cách để hệ thống…”

Tiếng động lớn của kim loại lạch cạch vang lên ngay phía sau chúng tôi, một cánh cửa an ninh được kéo lên.

“Ồ, có người!” Stucks hét lên. Cậu ta vừa chĩa đèn pin của mình vào một người đàn ông trong bộ áo mưa bay phần phật, vừa hết tốc lực chạy vụt ra khỏi cửa hàng Claire để đuổi theo.

“Chặn hắn lại!” Joe hét lớn và bắt đầu chạy theo Stucks, đôi giày tennis đế dày của anh ta nện xuống mặt sàn gạch gốm. Mikey bám đuổi phía sau, ánh đèn pin chĩa vào kẻ lạ mặt. Hai anh em bọn họ cộc cằn gọi với theo: đứng lại đó, này, kẻ kia, bọn này chỉ muốn hỏi một câu thôi. Người đàn ông đó thậm chí chẳng thèm ngó lại nhìn. Đã bảo đứng lại cơ mà, mẹ kiếp thật! Kẻ bỏ chạy vẫn im thin thít giữa những tiếng la hét, rồi hắn tăng tốc và lao xuống khu hành lang của trung tâm thương mại, thoắt ẩn thoắt hiện trong ánh đèn pin lấp loáng, tấm áo mưa của hắn ta phần phật bay về phía sau trông như một chiếc áo choàng. Sau đó kẻ lạ mặt chuyển sang màn nhào lộn: nhảy qua thùng rác, đu người qua thanh chắn đài phun nước, và cuối cùng trượt người qua bên dưới cánh cửa an ninh bằng kim loại, vào cửa hàng Gap rồi biến mất.

“Tên khốn!” Anh em nhà Hillsam đỏ gay mặt mũi, cổ và bàn tay. Bọn họ thay nhau càu nhàu trong lúc ráng sức nâng cánh cửa lên.

Tôi cúi xuống nâng cùng bọn họ nhưng vẫn không thể làm cánh cửa nhúc nhích lên quá nửa phân. Tôi nằm xuống sàn và cố lách người qua bên dưới cánh cửa đó: những ngón chân, rồi đến bắp chân, nhưng đến thắt lưng thì kẹt lại.

“Không, không qua được rồi.” Tôi làu bàu. “Mẹ kiếp!” Tôi đứng dậy và soi đèn vào bên trong cửa hàng. Phòng trưng bày trống không ngoại trừ một đống những giá treo quần áo bị ai đó lôi vào giữa phòng, trông như để chuẩn bị đốt lửa trại vậy. “Tất cả các cửa hàng đều thông nhau ở phía sau, dẫn ra lối đi bộ để đổ rác và đường ống nước.” Tôi nói “Giờ này có lẽ hắn ta đã sang đến phía bên kia tòa nhà rồi.”

“Ra mau, thằng khốn kia!” Joe hét lên, đôi mắt nhắm chặt lại, đầu ngả về sau. Giọng anh ta vang vọng khắp khu nhà. Chúng tôi bắt đầu thất thểu rời đi, kéo lê những chiếc gậy bóng chày theo mình, chỉ trừ anh em Hillsam vẫn nắm tay nện rầm rầm vào cánh cổng và cửa an ninh, như thể bọn họ thuộc lực lượng quân đội đang đi tuần tra trong khu vực chiến sự đặc biệt ác liệt vậy.

“Tốt hơn hết là mày nên ra, đừng để bọn tao phải vào tóm!” Mikey lớn tiếng.

“Ồ, xin chào!” Trên lối vào một cửa hàng thú cảnh, một người đàn ông và một phụ nữ đang ngồi chỗm chệ trên những chiếc chăn quân đội với mái tóc bết mồ hôi. Mikey lù lù xuất hiện trước mặt bọn họ, hơi thở nặng nề và đưa tay quệt mồ hôi trên lông mày. Khung cảnh này giống như trong một bộ phim chiến tranh, khi những người lính tuyệt vọng bắt gặp những dân làng vô tội và điều tồi tệ xảy đến.

“Các người muốn cái quái gì hả?” Người đàn ông ngồi trên sàn hỏi. Anh ta trông hốc hác, gương mặt mỏng quẹt và thiểu não tới mức như thể nó đang chảy ra. Tóc anh ta xõa rũ rượi trên vai, ánh mắt rầu rĩ nhìn ngước lên: một hình hài của Chúa Jesus bị tước đoạt. Người phụ nữ trong bộ dạng khá hơn, chân tay sạch sẽ và đầy đặn, mái tóc cô ta buông xuống, bết dầu nhưng đã được chải gọn ghẽ.

“Mày là một thằng Blue Book à?” Stucks hỏi.

“Chẳng có thằng nào ở đây cả.” Người đàn ông vừa lẩm bẩm vừa khoanh tay trước ngực.

“Hãy tỏ một chút tôn trọng xem nào.” Người phụ nữ cấm cảu nói. Nhìn cô ta khi ấy như thể sắp khóc đến nơi. Cô ta quay mặt đi, vờ như đang nhìn gì đó xa xăm. “Tôi phát ngấy vì không một ai có một chút tôn trọng nào hết.”

“Bọn này đã hỏi rồi đấy, anh bạn.” Mikey vừa nói vừa lại gần người đàn ông, đá đá vào lòng bàn chân anh ta.

“Đây chẳng phải Blue Book gì sất.” Người đàn ông kia nói. “Chỉ là rơi vào cảnh khốn cùng thôi.”

“Nhảm nhí.”

“Ở đây có rất nhiều loại người, không chỉ đám Blue Book đâu. Nhưng nếu mấy người muốn tìm những kẻ đó…”

“Thì cứ việc, cứ việc đi mà tìm bọn chúng ấy.” Người phụ nữ trề môi nói. “Đi mà quấy rầy bọn chúng.”

“Bọn chúng làm ăn ở dưới cái Hố ấy.” Người đàn ông nói. Khi thấy chúng tôi đều nghệt mặt ra, anh ta chỉ tay. “Chỗ viên đá Mervyns đi vào tận trong cùng, qua khu vực trước đây từng là vòng quay ngựa gỗ đó.”

“Mẹ kiếp các người.” Người phụ nữ lẩm bẩm.

Ở nơi trước đây từng có vòng quay ngựa gỗ chỉ còn một vệt tròn sẫm lại. Tôi và Amy đã từng chơi trò này trước khi trung tâm thương mại đóng cửa. Hai kẻ trưởng thành, ngồi cạnh nhau trên những con thỏ bay. Vợ tôi muốn được xem khu trung tâm thương mại nơi đã ghi dấu phần lớn tuổi thơ của tôi, muốn được nghe những câu chuyện ngày đó. Với chúng tôi, trung tâm thương mại này không phải lúc nào cũng tệ.

Thanh chắn barrier trên đường ra chỗ viên đá Mervyns đã bị phá, nên khu vực cửa hàng mở rộng cửa chào đón như trong buổi sáng bán hàng hạ giá nhân Ngày của các tổng thống Mỹ. Phía trong cửa hàng mọi thứ đã được di dời, trừ một vài chiếc quầy trước đây dùng để đặt máy tính tiền điện tử, giờ thì quây lấy gần một tá người đang trong tình trạng phê thuốc, phía bên dưới là những tấm biển đề chữ Trang sức, sản phẩm chăm sóc sắc đẹp và sản phẩm ga gối. Bọn họ nằm đó dưới ánh sáng của những ngọn đèn bão đốt gas đang cháy bập bùng như những ngọn đuốc tiki. Vài gã gần như chỉ hé một mắt khi chúng tôi đi qua, còn những kẻ khác đã hoàn toàn mất ý thức. Ở phía xa góc phòng, có hai đứa trẻ không quá tuổi vị thành niên đang cuồng nhiệt đọc thuộc lòng Diễn văn Gettysburg. Ngày nay chúng ta đang tiến hành một cuộc nội chiến vĩ đại… Một người đàn ông nằm sõng soài trên tấm thảm trải sàn, anh ta mặc chiếc quần soóc vải bò sạch sẽ không tỳ vết và mang đôi giày tennis trắng, trông như chuẩn bị đến dự trận đấu bóng chày thiếu nhi của con mình. Rand nhìn anh ta chằm chằm như thể quen biết.

Tôi chưa từng thấy tệ nạn ma túy ở Carthage nghiêm trọng đến mức này: Hôm qua cảnh sát mới ở đây, vậy mà hiện giờ những con nghiện này đã quay trở lại như lũ ruồi đeo bám. Trong khi chúng tôi đang lần tìm đường để lách qua đống người ngổn ngang đó, thì một phụ nữ béo phệ xuất hiện trên một chiếc xe điện khiến cả bọn im bặt. Khuôn mặt mụ ta đầy mụn và nhớp nháp mồ hôi, hàm răng nhe ra như răng mèo.

“Các người hoặc là mua hàng, hoặc là cút xéo, đây không phải khu trưng-bày-và-giới thiệu.” Mụ ta nói.

Stucks rọi đèn thẳng vào mặt mụ ta.

“Đừng có chiếu cái thứ khốn kiếp ấy vào đây.” Cậu ta liền làm theo.

“Tôi đang tìm vợ tôi.” Tôi mở lời. “Amy Dunne. Cô ấy đã mất tích từ hôm thứ Năm.”

“Cô ta sẽ xuất hiện thôi. Cô ta sẽ tỉnh và sẽ tự lết về nhà.”

“Chúng tôi không lo về chuyện ma túy.” Tôi nói. “Điều chúng tôi bận tâm hơn là mấy gã đàn ông ở đây. Chúng tôi đã nghe nhiều tin đồn.”

“Không có gì đâu, Melanie.” Một giọng nói cất lên. Gần kề với quầy hàng dành cho thiếu niên là một gã đàn ông chân tay khẳng khiu, đang dựa người vào bức tượng ma-nơ-canh bán thân trơ trụi, hắn ta nhìn chúng tôi và nhếch mép cười.

Melanie nhún vai với vẻ chán nản và bực bội, rồi chạy xe đi.

Gã đàn ông vừa dõi mắt nhìn chúng tôi vừa gọi với ra phía sau khu vực đồ thiếu niên. Bốn cặp chân thò ra từ các phòng thay đồ, bọn chúng đang duỗi cẳng trong những căn buồng ngủ nhỏ riêng biệt của mình.

“Này, Lonnie! Tất cả bọn mày! Tụi khốn đó lại viếng thăm đấy. Năm tên cả thảy.” Gã đàn ông kia vừa nói vừa đá một lon bia rỗng về phía chúng tôi. Đằng sau hắn, ba cặp chân bắt đầu động đậy, bọn chúng đang thức dậy. Một cặp chân vẫn không nhúc nhích, thân chủ của chúng vẫn còn say ngủ hoặc chết rồi cũng nên.

“Đúng đấy, lũ khốn, bọn tao đã trở lại.” Mikey Hillsam nói. Anh ta cầm cây gậy bóng chày như cầm cơ bi-a và chọc một cú vào chính giữa ngực bức tượng ma-nơ-canh bán thân. Bức tượng chao đảo rồi đổ ập xuống sàn, còn gã Blue Book đó rụt tay lại một cách duyên dáng như thể tất cả chỉ là một phần của cuộc diễn tập. “Bọn tao cần vài thông tin về một cô gái mất tích.”

Ba gã đàn ông đi ra từ phòng thay đồ để nhập hội với đồng bọn. Tất cả bọn chúng đều mặc những chiếc áo phông hội hè kiểu Hy Lạp có in chữ: Pi Phi Tie-Dye và Fiji Island. Những món đồ lưu niệm cũ ấy tràn ngập các quầy hàng từ thiện ở địa phương, được quyên tặng bởi những sinh viên sắp tốt nghiệp vào mùa hè tới này.

Tất cả bọn đàn ông trông đều khỏe mạnh, dẻo dai, với những bắp tay rắn chắc và gân guốc. Phía sau bọn chúng là một gã với hàng ria dài rủ xuống hai bên, tóc buộc túm lên kiểu đuôi ngựa – chính là Lonnie – bước ra từ phòng thay đồ lớn nhất nằm ở trong cùng. Gã ta mặc áo phông Gamma Phi và kéo lê bên mình một đoạn ống dài. Chúng tôi nhìn đám bảo vệ đó của trung tâm thương mại.

“Chuyện gì hả?” Lonnie lớn tiếng.

Chúng ta không thể cung hiến, chúng ta không thể thánh hóa hay làm rạng danh mảnh đất này… Bọn trẻ vẫn đang đọc làu làu với âm độ gần như hét lên.

“Bọn này đang tìm Amy Dunne, có thể các người đã nhìn thấy cô ấy qua bản tin. Cô ấy mất tích từ hôm thứ Năm.” Joe Hillsam nói. “Một quý cô tốt bụng, xinh đẹp, ngọt ngào, bị bắt cóc khỏi ngôi nhà của chính mình.”

“Đây có nghe về chuyện đó. Thế rồi sao?” Lonnie trả lời.

“Cô ấy là vợ tôi.” Tôi nói.

“Bọn tao biết chúng mày có dính líu vào chuyện đó, tại đây.” Joe nói tiếp và có ý chỉ nhằm vào Lonnie, kẻ đang lắc lắc túm tóc đuôi ngựa buộc phía sau và nắn chỉnh quai hàm mình. Những hình xăm màu xanh đã mờ che kín mít các ngón tay của hắn. “Bọn tao biết về vụ hiếp dâm tập thể đó.”

Tôi liếc nhìn Rand xem ông ấy thế nào, nhưng ông ấy chỉ chăm chăm nhìn bức tượng ma-nơ-canh khỏa thân đang nằm trên sàn.

“Hiếp dâm tập thể.” Lonnie vừa nói vừa hất hàm. “Các người đang nói cái mẹ gì về một vụ hiếp dâm tập thể vậy.”

“Chính bọn mày.” Joe nói. “Lũ Blue Book chúng mày…”

“Lũ Blue Book, nghe như thể bọn tao là một đám đầu trâu mặt ngựa vậy.” Lonnie khịt khịt mũi. “Bọn tao không phải lũ súc vật, thằng khốn. Bọn tao không bắt cóc phụ nữ. Người ta thêu dệt để cảm thấy dễ chịu khi không phải giúp đỡ bọn tao. Đấy thấy chưa, chúng nó đâu xứng đáng, chúng nó là một lũ hiếp dâm. Chà, nhảm nhí thật. Tao sẽ cuốn xéo khỏi thành phố này nếu cái nhà máy đó chịu trả tao tiền công nợ. Nhưng tao

chẳng nhận được gì sất. Chẳng ai trong bọn tao nhận được gì. Vậy nên bọn tao ở đây.”

“Chúng tôi sẽ trả tiền, một khoản khá, nếu các anh có thể cho chúng tôi biết điều gì đó về vụ mất tích của Amy.” Tôi nói. “Các anh biết nhiều người, có thể các anh đã nghe được gì đó.”

Tôi lấy ra bức ảnh của Amy. Anh em nhà Hillsam và Stucks có vẻ ngạc nhiên, và tôi nhận thấy – tất nhiên rồi – đối với bọn họ đây chỉ là chiến thuật nghi binh của kẻ quân tử. Tôi chìa bức ảnh ra trước mặt Lonnie, chỉ mong hắn liếc nhìn lấy một cái. Thay vào đó, hắn ngả người lại gần hơn.

“Ồ, chết tiệt.” Hắn ta nói. “Cô ta ư?”

“Anh nhận ra cô ấy sao?”

Trông hắn ta thực sự sửng sốt. “Cô ta đã muốn mua một khẩu súng.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.