Một
Liên Hóa Thanh cúi đầu nhận tội là thủ phạm của một số vụ án mạng.Sau khi xin ý kiến cấp trên, y bị phán tử hình, tống giam vào trong nhàlao chờ xử bắn. Đến ngày bị tử hình, Liên Hóa Thanh chỉ yêu cầu được gặp mặt Quách sư phụ một lần, muốn có cơ hội biết mặt người đã bắt đượcmình là ai.
Khi biết được việc này, Quách sư phụ đã đồng ý đến hôm đó sẽ tới sân phơi gạch của Tiểu Lưu Trang tiễn y lên đường. Đến ngày y phải ra pháptrường, Quách sư phụ được Đinh Mão tháp tùng, hai người cùng vào trongnhà giam gặp Liên Hóa Thanh. Vừa bước vào họ đã thấy Liên Hóa Thanh đang cúi đầu, tay bị trói giật cánh khuỷu chân bị xiềng, ngồi một mình trong phòng giam, mặc một bộ quần áo tù nhân rách rưới, sau lưng có cắm mộttấm bản định tội, ngồi im như tượng không nói một câu, cũng không buồnngẩng đầu lên.
Đinh Mão cất tiếng nói: “Hôm nay cho mày được biết mặt ông anh tao, anh ấy chính là người đã bắt mày.”
Nghe thấy vậy, Liên Hóa Thanh ngẩng đầu lên, dùng đôi con ngươi bẩmsinh có hai tròng giống như hai cái hố sâu hoắm nhìn chằm chằm vào Quách sư phụ quan sát kỹ một lúc rồi mới lên tiếng: “Không thể nào ngờ Liênmỗ lại ngã ngựa trong tay một kẻ như ngươi, giờ ông đã nhớ kỹ mày rồi.Cứ chờ đây, sớm muộn gì ông cũng sẽ tới tìm mày.”
Thấy một kẻ sắp chết đến nơi còn phun ra những câu độc địa, Đinh Mão không kìm chế được định mở miệng mắng chửi. Quách sư phụ xua tay khôngcho Đinh Mão cơ hội mở miệng rồi nói: “Liên Hóa Thanh, ngươi là thủ phạm của không ít vụ án, đến giờ này chỉ còn cách lấy tính mạng ra đền tội,không nên có bất cứ oán hận gì.”
Một nét dữ tợn thoáng lướt qua đôi mắt, Liên Hóa Thanh đáp lại: “Màthôi, giờ này tao đã sắp phải ra pháp trường lĩnh đạn, đáng ra phải cómột bữa cơm rượu vĩnh biệt chứ?”
Quách sư phụ nói: “Đúng vậy, chắc chắn là có. Dẫu sao, một đĩa thịtmột chén rượu trước khi ra pháp trường cũng là tập tục từ xưa. Giờ rõràng đã không còn sớm nữa, bất kể lúc nào cũng có thể áp giải phạm nhânra pháp trường Tiểu Lưu Trang xử bắn, tại sao còn chưa đưa cơm vĩnh biệt lên?”
Ông ta hỏi cai tù bao giờ mới đưa lên, người cai tù đáp: “Nhị giangài nghĩ đi đâu vậy. Mấy năm nay xã hội loạn lạc như vậy, kẻ bị xử bắnquá nhiều. Nếu như kẻ nào cũng được cấp một phần rượu một phần thịt, cho dù cái trại giam chết tiệt này của chúng tôi có là nhà hàng thì cũngkhông thể gánh nổi kinh phí mua đồ ăn cho bọn chúng. Nói thật với ngàinhé, trong cái nhà giam này chỉ có bánh làm từ bột bắp ngô, ngay cả caitù chúng tôi cũng phải nhai cái món đó, do vậy phạm nhân chỉ được ănlưng lửng dạ. Vụ xử bắn ngày hôm nay cũng không ngoại lệ. Nếu như hắncòn có thân nhân bạn bè gì đó, thì những người đó nên mang rượu, thức ăn và quần áo tới để cho hắn được ăn uống no nê, mặc quần áo mới mà lênđường, còn nếu không thì chỉ có thể như vậy thôi.”
Quách sư phụ ngẫm nghĩ rồi kéo Đinh Mão đi ra ngoài, định mua mấycái bánh bao thịt, hai món đồ ăn nấu sẵn cộng thêm nửa cân rượu, rồimang về cho Liên Hóa Thanh ăn uống no nê trước khi lên đường. Nhưng ôngta vừa mới bước chân ra khỏi cửa, sau lưng đội chấp pháp đã xộc vào,dựng phạm nhân lên, trói nghiến lại rồi áp giải lên xe ngựa, sau khidiễu phố thị chúng sẽ đi thẳng tới sân phơi gạch ngói của Tiểu Lưu Trang ở bên ngoài Tây Quan. Trời đã sắp mưa, sắc trời u ám. Cả một biển người kéo nhau đi xem náo nhiệt, chật như nêm cối, gió không lọt mưa khôngthấu qua được. Quách sư phụ và Đinh Mão muốn chen lên trước, nhưng người đông nghìn nghịt, đâu đâu cũng là người, trên đường cái, trên nóc nhà,thậm chí cảở trên cây. Hai người nôn nóng đến độ trán mướt mồ hôi, nhưng chẳng thể nào tìm thấy một cái khe nào để mà lách qua.
Nói chung, người dân Thiên Tân vệ trước kia thích xem náo nhiệt. Mặc dù dân chúng các tỉnh trong toàn quốc cũng có sở thích này, nhưng không tài nào sánh bằng nơi này. Năm đó, có người còn đào cống ngầm, với mụcđích vượt qua đoàn người đông nghìn nghịt để vượt lên hàng đầu đứng xem. Thậm chí còn có lời bình: “Thà rằng chắn cửa thành, chứ đừng chắn cốngngầm, kẻ nào chắn cống ngầm có thể coi là vô đạo đức.”
Quay trở lại buổi diễu phố ra pháp trường ngày hôm đó. Cả đoàn người xem náo nhiệt ngước mắt nhìn lên, Liên Hóa Thanh bị trói trên xe, quầnáo tả tơi, cúi đầu ngậm tăm, giống hệt như một cái xác cho dù chưa bị xử bắn, thật sự là không còn chút sức sống nào cả. Nhưng cả một đám đôngnhững kẻ rảnh rỗi này vất vả lắm mới có một vụ nhiệt náo hoành tráng để xem, không một ai cam lòng bỏ về. Đầu người túm tụm lại chuyển độnggiống như nước thủy triều, tất cả bám theo phía sau, hy vọng trên đườngđi có một lúc nào đấy tử tù này bất chợt nổi máu anh hùng, thình lìnhgân cổ ngâm lên một câu: “Đánh liều ra giữa phố phường, kính mời các vịkhách khứa và bạn bè nghe cho kỹ. . .” Nếu không được nghe câu hát nàythì đúng là chán bằng chết.
Hai
Trước kia, mỗi lần thi hành án, trên đường bị áp giải đến pháptrường, khi phạm nhân trông thấy nhiều người đang ngẩng đầu lên nhìnmình như vậy, bất cứ một kẻ nào cũng sẽ có cảm giác cả đời mình chưatừng được oai phong đến thế, cho dù là ngôi sao kinh kịch nổi tiếng nhất cũng chưa bao giờ được nhiều người xúm lại xem như vậy. Sẽ có kẻ kể lểoan khuất, có kẻ muốn ra vẻ ta đây hảo hán. Hơn nữa, những người dânThiên Tân vệ đi xem náo nhiệt lại khác hẳn với những nơi khác, dù có thế nào họ vẫn sẽ đua nhau khen hay. Bởi vậy, cho dù có sợ chết đến thếnào, phạm nhân cũng phải nhắn nhủ trước mặt đám đông mấy câu.
Thậm chí còn có những tên trùm lưu manh khét tiếng, lúc ra pháptrường còn trưng diện áo khoác viền tua rua hình chân rết, đính mười bahàng cúc kiểu Thập Tam Thái Bảo, lưng đeo anh hùng đái, mặc quần thụng,chân đeo Hổ khoái ngoa, đầu đội anh hùng cân. Những anh hùng lục lâmtrong kinh kịch Bình thư ăn mặc như thế nào, chúng cũng sẽ mặc y nhưthế, trên đầu còn cài thêm một đóa hoa giấy màu trắng, kẻ hỏi người đápvới đám người chen lấn đứng xem phía dưới. Mọi người cùng đồng thanhhỏi: “Hảo hán gia, hãy nói cho mọi người nghe, sao ngài lại nỡ lòng bỏvợ đẹp lìa con thơ, sao lại nỡ lòng bỏ lại người cha già tám mươi tuổikhông ai nuôi dưỡng, sao lại nỡ lòng dứt bỏ tất cả bà con thân bằng cốhữu?”
Vị hảo hán bị trói trên xe nhất định phải quắc mắt nhìn trừng trừng, không chịu cúi đầu, trên đường đi mắng chửi không ngớt, không từ tổngthống hay là ông trời, bất cứ một ai hắn cũng dám mắng. Nghe thấy cóngười hỏi, hắn sẽ phải đáp thế này: “Thưa toàn thể chư vị già trẻ lớnbé, tôi đây cũng luyến thương mẹ già ốm yếu, luyến thương vợ góa concôi, luyến thương huynh đệ bằng hữu sâu nặng nghĩa khí, nếu có hận chỉhận bình sinh chưa thỏa chí. Thế nhưng, hảo hán tôi đây đã làm nhữngviệc mà một hảo hán phải làm, hôm nay một mạng đổi một mạng chết cũngđành. Đầu rơi xuống đất chỉ là một cái sẹo lớn, mười tám năm sau sẽ lạitrở về báo thù.”
Cứ mỗi lần vị hảo hán đó nhắn nhủ một câu, đám người bên dưới sẽ hôlớn một tiếng “Hay”, vang vọng tới mây xanh, âm vang chấn động cả máinhà. Sau khi nói đã xong, mắng đã đủ, vị hảo hán đó sẽ tiếp tục hát một hai khúc, biểu đạt phần nào tình cảm lưu luyến. Bất kể có biết hát haykhông, khúc ngâm trước khi bị tử hình đó nhất định là phải lâm li bi ailay động cả đất trời. Đó mới chính là yếu tố phấn khích nhất, còn vềphần rơi đầu vì phạm vào tội gì cũng chỉ là thứ yếu. Dân chúng chán ghét đến cùng cực việc hô khẩu hiệu trước khi xử bắn, bởi có hô thế nào cũng chẳng có ai mà hiểu nổi; Tiếp theo là không muốn thấy phạm nhân sợ đếnvỡ mật không nói lên lời, nhất là cái loại bỏ đi mềm nhũn như chi chikhông nói được một câu. Chỉ trong chớp mắt đầu đã rơi xuống đất rồi,nếu không nói thì làm gì còn cơ hội nữa đây?
Suốt quãng đường áp giải Liên Hóa Thanh ra pháp trường, cả một rừngngười rướn cổ kiễng chân, trợn mắt ngóng chờ. Nhưng thất vọng thay, cáikẻ mất hết tinh thần này không rên nổi lấy một tiếng, chẳng khác gì mộtcái cọc gỗ, khiến cho đám đông đi xem náo nhiệt sinh ra lo lắng, cóngười gân cổ gào lên: “Hảo hán, ngài phải hát một hai câu đi chứ!” Người khác thì kiếm cách vẽ đường: “Chúng ta hãy cổ vũ cho hắn nào, mọi người nghe tôi đếm nhé, một. . . hai. . .” Sau đó chỉ còn nghe thấy cả trămngàn người cùng đồng thanh hô lớn: “Hay!”
Liên Hóa Thanh đang cúi gục đầu, nghe thấy tiếng ‘hay’, từ từ ngẩngđầu lên. Mọi người lập tức nín thở im hơi lặng tiếng, không ai nói gìnữa, trợn mắt trợn mũi chờ Liên Hóa Thanh mở miệng, thế này có lẽ làđịnh hát khúc “Cảm thán anh hùng gặp nguy nan sinh ly tử biệt”. Ở ThiênTân vệ từ già đến trẻ ai cũng thích nghe, cũng biết hát, trên sàn diễnnên hát cái gì không nên hát cái gì, toàn bộ họ đều hiểu hết, hát sai là có thể phát hiện ra ngay.
Nào ngờ Liên Hóa Thanh không chịu hát, mà chỉ nhìn khắp đám đông một lượt, lên tiếng khẩn cầu: “Thưa toàn thể các quý vị già trẻ, Liên HóaThanh tôi quê quán ở Trần Đường Trang, lớn lên không học điều hay lẽphải, lầm đường lạc lối vào Ma Cổ Đạo, giết người phạm pháp, hôm nay sẽphải lĩnh đạn trên pháp trường. Rơi vào đường cùng như vậy, thực sựkhông còn gì để mà bào chữa, chỉ có một điều muốn cầu xin, hy vọng cácvị thương tôi không ai chiếu cố, chuyến đi này không có đường về, giờhãy cho xin một hớp rượu và thức ăn, để tôi ăn uống no bụng, trên đườngđi đến hoàng tuyền không đến nỗi biến thành quỷ chết đói vạn kiếp khôngsiêu sinh. Sau khi đầu thai, tôi sẽ không quên báo đáp các vị.”
Năm đó có câu nói như thế này — “Yêu dị tà thuật thế gian hiếm, ngũ lôi hành quyết ít người hay”. Thời nhà Thanh trước đó còn có thể bắtgặp yêu thuật ảo giác, nhưng từ thời dân quốc trở đi đã rất hiếm thấy.Đám đông xem náo nhiệt cho rằng Liên Hóa Thanh chỉ đơn thuần là kẻ hùdọa người khác trên giang hồ. Cho nên khi nghe thấy y nói rất đángthương, lập tức có người hảo tâm đi kiếm rượu tìm thịt. Khi đến quán cơm trên đường hỏi mua, tiệm cơm cũng không lấy tiền, bởi vì đây là việctích đức, Nếu kẻ bị áp giải ra pháp trường hành quyết ăn hết rượu thịttrong quán của mình, sau này chắc chắn sẽ được hồi báo. Rượu thịt đượcgiao cho quân cảnh trong đội chấp pháp phụ trách áp giải chuyển đến bênmiệng Liên Hóa Thanh. Liên Hóa Thanh ăn như hổ đói sạch sẽ không còn lại chút gì rồi lại cúi đầu, nhắm mắt tiếp tục bất động.
Ba
Mọi người đứng xem ở xung quanh không tài nào hiểu nổi, hiện giờ cơm vĩnh biệt trước khi chặt đầu đã nuốt xuống bụng, tại sao vẫn không nóicâu gì? Chẳng lẽ là cảm thấy chỗ rượu thịt đó không ngon sao? Cả mộtbiển người huyên náo bám theo dọc đường, người nọ lại cứ như là khôngnghe thấy gì. Sau khi ra khỏi Tây Quan, tới sân phơi gạch ngói của TiểuLưu Trang, đội chấp pháp lôi Liên Hóa Thanh xuống xe, bắt quỳ xuốngtrước cái hỗ đã được đào sẵn, nghe quan chấp pháp đọc tội danh. Có baviên cảnh sát thi hành án cầm súng bước lên trước, chỉ chờ ra lệnh mộttiếng là sẽ tiến hành xử bắn.
Khi nhìn thấy đội chấp pháp áp giải Liên Hóa Thanh qua Tây Quan, đại đa số mọi người lập tức trèo lên lưng lừa quay trởvề, bởi cảm thấykhông còn gì thú vị nữa, nhưng con số những người ở lại đứng chờ xem xửbắn ở pháp trường Tiểu Lưu Trang cũng còn tới trên dưới cả trăm. Trênđường đuổi theo, Quách sư phụ và Đinh Mão đã mời được một đạo sĩ biếtdưỡng cốt, chờ sau này nhặt xác cho Liên Hóa Thanh. Đúng vào giữa trưa,sắc trời âm u nặng nề, đã thấy Liên Hóa Thanh bị trói quặt hai tay rasau, sau lưng cắm một tấm bản định tội, cúi đầu quỳ gối trước cái hố,miệng lẩm bẩm giống như đang thì thầm gì đó. Đột nhiên, y ọe ra một ngụm nước đen ngòm. Những người ở lại dù đã tránh ra thật xa, nhưng vẫn cònngửi thấy tanh hôi nồng nặc, thi nhau bịt chặt miệng mũi, trong lòng vôcùng kinh ngạc. Chẳng hiểu là y đã ăn thứ gì bẩn thỉu đến mức còn thốihơn cả cá chết dưới sông?
Ngày trước, trước khi bị xử bắn, thường xuyên có tử tù không kìm chế được sợ hãi, bởi vì quá khẩn trương, toàn thân run rẩy, dạ dày kịchliệt co thắt, phun sạch đồ ăn trong dạ dày ra ngoài, nhưng cũng khôngđến mức tanh hôi như thế. Mọi việc diễn ra có phần quái lạ. Lúc ấy, trời bắt đầu mưa, cơn mưa không nhỏ, tất cả mọi người đều ướt như chuộtlột. Vị quan chấp pháp phất tay, ra hiệu nhanh chóng tiến hành xử bắn.Sau khi nhổ tấm bản định tội xuống, ba viên cảnh sát thi hành án lầnlượt tiến lên. Viên cảnh sát đầu tiên nâng súng lên, nhắm thẳng vào gáyLiên Hóa Thanh đang quỳ trên mặt đất bắn một phát. Tiếng súng vừa vanglên, vang vọng một vùng hoang vu. Những người đứng xem nghe thấy, toànbộ cảm thấy trong lòng lạnh run.
Cùng lúc với tiếng súng vang lên, thân thể Liên Hóa Thanh đổập vềphía trước, rơi tọt xuống hố. Viên cảnh sát thứ hai bước lên, nhắm vàongười Liên Hóa Thanh đang nằm trong hố bắn tiếp một phát. Sau đó, đếnlượt viên cảnh sát thi hành án thứ ba bắn một phát cuối cùng. Làm nhưvậy để tránh bắn một lần không đủ giết chết tử tù; Đồng thời, cũng vì longại có người trong đội chấp pháp bị mua chuộc từ trước, đến khi nổ súng sẽ không bắn vào chỗ hiểm. Cho nên, mỗi khi xử bắn đều bắn ba phát,người của đội chấp pháp còn xuống dưới xem xét xem tử tù đã chết hẳn hay chưa, sau đó mới ký tên vào biên bản. Nếu như không có người thân bạnbè đến nhặt xác, sẽ dùng chiếu cuốn lại rồi ném vào Loạn Tử Khanh ở bêncạnh cho chó hoang ăn. Ngay lúc ấy, đạo sĩ dưỡng cốt đi lên nhặt xác.Sau đó thế nào, đội chấp pháp không quan tâm, vội vàng thu đội quay về.Cơn mưa vừa rơi, đám người xem náo nhiệt bốn xung quanh cũng giải tán.
Xem xong toàn bộ quá trình xử bắn Liên Hóa Thanh, Quách sư phụ cảmthấy có điểm không thích hợp. Ông ta nhìn thấy trước khi bị xử bắn, Liên Hóa Thanh đã phun ra một ngụm nước đen ngòm tung tóe trên mặt đất,không giống với thức ăn đã ăn vào trong dạ dày mà tanh hôi giống như bùn dưới đáy sông. Đạo sĩ dưỡng cốt lôi thi thể của người chết lên khỏi hố, ông ta bước lại gần cẩn thận quan sát, thấy rõ đầu Liên Hóa Thanh đã bị đạn phá ra một lỗ thủng nhầy nhụa. Ông ta lo lắng, vén mi mắt tử thilên quan sát, tròng mắt chỉ còn lại một con ngươi. Ông ta lại quay sangnhìn bãi nước đen ngòm y đã phun ra trước khi chết, nhưng nó đã bịmưacuốn trôi.
Quách sư phụ thầm nhủ: “Không hay rồi! Nghe nói, khi vượt qua sôngVĩnh Định, cô gái Liên Thu Nương sống ở Trần Đường Trang đã không mayngã xuống nước. Mặc dù nhờ phúc tổ tiên không chết đuối, nhưng khi vềđến nhà cô ta tự nhiên có bầu rồi sinh ra một đứa con trai không rõ bốlà ai, đứa bé đó chính là Liên Hóa Thanh. Có người nói, y là con củathủy quái dưới sông Vĩnh Định, cho nên mới gọi y là yêu sông. Tuy cáchnói này không có căn cứ xác đáng, nhưng trước khi bị xử bắn Liên HóaThanh đã phun ra một ngụm nước đen ngòm. Sau khi chết, đôi con ngươisong đồng tử lại biến thành đơn đồng tử, giống như có một con quỷẩn náutrong thân xác. Liên Hóa Thanh đã chết ở pháp trường Tiểu Lưu Trang chỉđơn thuần là một cái túi da người mà thôi, còn yêu sông dưới dòng VĩnhĐịnh đã lợi dụng lúc mưa to trốn mất rồi.”
Bốn
Trong số năm dòng sông mà đội cảnh sát đường thủy cai quản có mộtdòng tên là Vĩnh Định, chỉ cần nghe cái tên là đủ biết dòng sông nàykhông bao giờ yên bình. Nếu như yên bình không có việc gì xảy ra thìngười ta đâu cần phải gọi là sông Vĩnh Định. Sau khi xử bắn Liên HóaThanh xong, Quách sư phụ cảm thấy sẽ có chuyện không may. Nhưng dù ôngta có nói với người khác, chưa chắc đã có người tin tưởng, chỉ đành tựmình âm thầm suy xét.
Bởi vì không phải là xác chết trôi được vớt từ dưới sông lên, chonên sẽ không đưa đi chôn ở nghĩa trang Long Miếu. Trong ngày hôm đó, đạo sĩ dưỡng cốt sẽ mang thi thể Liên Hóa Thanh đi hỏa thiêu, tro cốt sẽchôn vào trong tháp dưỡng cốt. Trong nội thành có hai nơi mai táng xương cốt, phía bắc có chùa Lệ Đàn, phía tây có hội Dưỡng Cốt. Hai nơi nàykhông được giống nhau cho lắm, chùa Lệ Đàn thờ phụng Địa Tạng vương BồTát độ hóa quỷ đói, còn hội Dưỡng Cốt lại cúng bái Bắc Cực Hữu ThánhChân Quân, một Phật một đạo, hai bên chẳng có liên quan gì đến nhau. Tuy nhiên, sư sãi ở chùa Lệ Đàn không bao giờ rời chùa, nếu có người đưatro cốt tới thì họ sẽ tiếp nhận, không đi ra ngoài kiếm việc. Hội DưỡngCốt thì trái lại, mỗi lần pháp trường tiến hành xử bắn chém đầu, đạo sĩtrong hội sẽ chủ động đi nhặt xác. Lần này Quách sư phụ cũng xem từ đầutới cuối, từ lúc đạo sĩ hội Dưỡng Cốt đưa tử thi đi hoả táng, đến khilấy tro cốt bỏ vào trong tháp. Không nhìn ra có bất cứ vấn đề gì, ông ta tự nhủ có lẽ mình đã quá đa nghi, nhưng vẫn hy vọng không có việc gìxảy ra.
Lúc ấy trời sắp tối rồi, mưa dầm dề không ngớt, người đi trên đường rất thưa thớt, ông ta và Đinh Mão đứng dậy ra về. Bên phía Lý Đại Lăngđã nhận xong phần thưởng, đặt hai bàn tiệc mời người trong đội tuầnsông, đang chờ hai người qua đó ăn tiệc. Tâm trí Quách sư phụ đã bay đitận đẩu tận đâu. Lúc ăn cơm, người khác nói cái gì ông ta đều không để ý tới, cũng chỉ nói qua loa về quá trình đuổi bắt Liên Hóa Thanh, phá vài vụ án phức tạp, có sao thì nói vậy. Còn vấn đề tên tuổi Thần sông Quách Đắc Hữu vang xa thì ông ta hoàn toàn không để tâm, chỉ cảm thấy mí mắtđang nhảy lên. Ngày xưa người ta hay nói — mắt trái nhảy tài mắt phảinhảy tai, mí mắt phải của ông ta đang nhảy loạn lên.
Theo quan niệm mê tín thời xưa, mí mắt phải nhảy loạn lên là điềmbáo có chuyện không hay sắp xảy ra. Ai cũng chờ mong mắt trái nhảy tài,mí mắt phải nhảy lên sẽ khiến cho người ta sốt ruột lo lắng. Còn có mộtcách giải thích khác, người ta nói rằng “Mắt trái nhảy tài, mắt phảinhảy khách đến”. Mí mắt phải nhảy liên tục là dấu hiệu trong nhà sắp cókhách đến, dù sao khách vẫn tốt hơn tai một chút, nhưng là cát hay làhung cũng khó mà đoán trước được, ai biết được khách đến là người rasao?
Đầu tiên mí mắt phải của Quách sư phụ nhảy loạn lên, sau đó mí mắttrái cũng vậy, không biết là khách tới hay tai họa tới, không tránh khỏi tâm thần bất an. Ông ta xé một miếng giấy trắng to cỡ đầu ngón tay,nhúng ướt rồi dán vào bên dưới mi mắt. Người xưa cho rằng làm như vậythì có thể làm cho mí mắt không nhảy loạn nữa. Lúc bước ra khỏi cửa quán ăn, mọi người đều trở về nhà mình. Đêm tối trời mưa, ông ta đi về nhàmột mình. Khi về đến nghĩa trang Hà Long Miếu, ông ta chốt chặt tất cảcửa nẻo phòng trước phòng sau. Mí mắt nhảy loạn không tài nào ngủ được,ông ta quyết định thắp đèn lên, ngồi gấp Nguyên bảo bằng giấy dưới ánhđèn.
Xã hội xưa cho rằng làm hàng mã, bao gồm tất cả các loại người giấy, ngựa giấy, nguyên bảo giấy, chỉ cần là đồ vật đốt cho người chết làđược tính chung vào trong đó, là cùng một nghề với công việc dán giấytường. Có vài thợ dán giấy tường có tay nghề không tồi, nhưng lại khôngdám kiếm sống bằng nghề làm vàng mã mà chỉ dám kiếm sống bằng việc dánvách tường trần nhà, bởi vì đó là những đồ vật dùng đểđốt gửi xuống âmphủ. Người có Bát tự không tốt không dám cưỡng ép làm công việc này, bởi trong đó có không ít điều cần chú ý và kiêng kị. Dù nguyên bảo giấy màQuách sư phụ làm chỉ được gấp bằng giấy thiếc, nhưng nhìn dưới ánh đènlại trông giống hệt nhưthật, chỉ khác nhau về kích thước. Nguyên bảothực sự bao gồm vàng thỏi và bạc nén, các cụ ngày xưa gọi là đại bảo.Vàng bạc nén làm bằng giấy thiếc thì hai đầu được vuốt cao lên, dưới đáy còn phải viết bốn chữ — Âm ti Minh phủ. Có câu chuyện thế này, ban đêm có cô hồn dã quỷ cầm tiền giấy đi mua đồ. Trong đêm tối, nhìn nguyênbảo vàng bạc giống y như thật, nhưng đến lúc hừng đông nhìn lại thì hóara là vàng mã. Người ta làm như vậy là vì không để cho âm hồn dùng vàngmã lừa gạt con người. Nếu như lúc đêm tối, người bán hàng nhận nguyênbảo vào tay, nhìn thấy dưới đáy có chữ “Âm ti Minh phủ” thì dù có giống thật đến thế cũng không dám thu nhận. Mỗi khi làm nguyên bảo vàng mã,Quách sư phụ đều chú ý đến điều này. Ông ta mất ngủ, ngồi dậy gấp nguyên bảo vàng bạc bằng giấy thiếc. Dù bận rộn luôn tay, nhưng trong lòngluôn có cảm giác sắp gặp chuyện không may. Liên Hóa Thanh đã bị áp giảiđến sân phơi gạch ngói ở Tiểu Lưu trang xử bắn rồi, tuy kẻ này đã chết, nhưng ai dám bảo đảm y sẽ không âm hồn không tan, nửa đêm tìm tới tậncửa.
Năm
Người của Trần Đường Trang ai cũng bảo, Liên Hóa Thanh là yêu sông,mượn thai đầu sinh làm người ở chỗ dòng sông Vĩnh Định. Lời truyền bánày có căn cứ xác đáng, Quách sư phụ không dám coi thường. Ông ta biếtrõ, vật sống dưới nước đều sợ sắt, ông cha ta thường nói ‘nước có thểtrị sắt’, đa phần những vật trấn sông đều là trâu sắt hay hổ sắt. Ông ta sợ nửa đêm gặp chuyện không may, bèn tách chiếc hộp sắt thiêu xác trong nghĩa trang thành hai phần, rồi dùng chúng chặn hết cửa trước cửa sau,bấy giờ mới cảm thấy an tâm hơn. Nghe tiếng mưa rơi tí tách bên ngoài,nhìn tới trên dưới cả trăm cái nguyên bảo vàng mã chồng chất dưới ánhđèn dầu, ông ta chợt nhớ ra còn có bánh bao mua lúc giữa trưa, vừa khéocó đồ ăn lót dạ lúc nửa đêm. Sau khi ăn hết bánh bao, ông ta lại tiếptục làm nguyên bảo, trong lúc mơ mơ màng màng, gục xuống mặt bàn ngủ lúc nào không biết. Miếu Hà Long có hai gian, gian phòng phía trước nhìn ra phố hàng mã, còn gian điện phía sau thì một nửa nằm trong nghĩa trang.Ông ta mơ màng ngủ ở trong căn phòng phía trước, trong lúc nửa mê nửatỉnh, bỗng nhiên cảm thấy bên cạnh có người đang nói. Ngái ngủ mở mắtra, ông ta đã thấy ngay có một người đang đứng trước mặt. Người này mặcáo khoác dài, vô cùng cao lớn. Ngọn đèn trong phòng rất tù mù, khôngnhìn thấy rõ mặt người đối diện, qua cách ăn mặc ông ta cảm thấy có phần quen mắt. Cửa trước cửa sau đều chặn kín, chẳng hiểu người này vàotrong phòng bằng cách nào. Người này chỉ tay lên nóc căn phòng căn điệnphía sau mấp máy môi, tuy rằng không nghe thấy nói gì, nhưng cử chỉ hành động có vẻ rất nôn nóng, giống như đang muốn nói cho ông ta biết: “Trên nóc nhà có thứ gì đó!”
Quách sư phó trong lòng giật đánh thót, nhìn kỹ lại thì trước mặthoàn toàn không có một ai. Ngọn đèn trong phòng vẫn cháy, ông ta vộivàng cầm nó lên đi xuống gian điện phía sau xem xét. Gian điện đã nhiềunăm không được tu sửa, đến nửa đêm, cơn mưa dữ dội đã làm mái điện bịxói lở mất một mảng lớn, gạch vỡ ngói vụn rơi xuống, tạo thành một lổthủng rất to, trong lòng ông ta thầm hô nguy hiểm. Nếu toàn bộ mái điệnnếu sụp xuống, có thể chôn sống người ở bên dưới. Trong lúc đang nghĩngợi, bỗng nhiên ông ta cảm nhận được trong không khí có mùi tanh tưởicủa bùn dưới sông, cái mùi tanh tưởi đó y hệt như bãi nước đen ngòm màLiên Hóa Thanh đã nôn ra trước khi bị xử bắn. Ngay sau đó, có một kẻngười không ra người quái vật không ra quái vật, nhảy xuống từ lỗ thủngtrên mái điện. Con quái vật đó chỉ cao ba xích (~1m), chân tay đều cómóng vuốt, thân thể đen như mực, hai mắt sáng như như hai ngọn đèn, nhảy bổ vào ông ta mà tấn công.
Ông ta tự hiểu, đây chính là con vật đã bỏ chạy ra khỏi thân xácLiên Hóa Thanh, toàn thân nó bị bao phủ trong một lớp bùn sông màu xanhthẫm bốc lên mùi xác chết đang phân hủy, rêu bám khắp bên ngoài. Tronggian điện phía sau nghĩa trang miếu Hà Long chỉ có một chén đèn dầu, mưa lọt qua lỗ thủng trên mái điện làm ngọn đèn tắt phụt, lập tức gian điện tối đen nhìn không rõ năm đầu ngón tay. Trong bóng tối, hai mắt của con quái vật giống hệt như ma trơi, không phân biệt nổi là cái giống gì,ông ta kinh hãi đến cực độ. Ông ta vừa mới thoáng giật mình, con quáivật đã cuốn theo làn gió tanh tưởi bổ nhào tới trước mặt. Trong taytrống trơn không có gì để làm vũ khí, ông ta lại không dám chắc hai nắmtay có chống đỡ được không. Lúc bấy giờ đi tìm vũ khí bằng sắt thì đãkhông còn kịp nữa rồi, ông ta đành phải chạy trốn vòng quanh đám quantài. Bởi đã sống trong gian đại điện của nghĩa trang này nhiều năm, ôngta nắm rõ vị trí mỗi viên gạch từng viên ngói, kể cả nhắm lại vẫn có thể rõ như lòng bàn tay. Ông ta dốc hết sức lực chạy quanh đám quan tàitrốn bên đông né bên tây. Mặc dù chủ động tấn công mãnh liệt, nhưngtrong nhất thời con quái vật toàn thân bốc mùi xác chết phân hủy khôngthể nào đánh trúng ông ta. Tuy nhiên, ông ta vẫn thừa hiểu, trốn tránhkhông phải là biện pháp hợp lý, trong lòng nóng nảy khổ hết chỗ nói.
Con quái vật nhảy từ trên nóc điện xuống, liên tiếp tấn công mấy màkhông trúng người, đuổi theo không rời, cứ một chốc lại bổ nhào vào đámquan tài. Những chiếc quan tài trong nghĩa trang đã nằm ở đây cả vàichục năm không còn lành lặn, trên mặt phủ một lớp gạo trắng. Thành quantài bằng gỗ bách đã mục nát vỡ tung không còn ra hình dáng, đụng một cái là nát vụn. Vừa nghe thấy một tiếng răng rắc, ván gỗ của quan tài vàgạo trắng đã văng tung tóe. Quách sư phó không quan sát được dưới chân,vấp một cái ngã lăn ra, trong lúc lăn lộn va vào bức tượng mộc Quảng TếLong Vương. Như kẻ chết đuối vớ được cọc, ông ta vội trốn ra đằng saubức tượng. Cảm nhận được làn gió âm u tanh hôi đang thổi tới gần, lúcbấy giờ ông ta bất chấp liều mạng một phen, tì bả vai và đầu vào bứctượng thần Long vương gia cao ba trượng, hét lên một tiếng rồi gồngngười đẩy. Không hiểu do đâu mà lại bộc phát ra sức khỏe phi thường đếnnhư vậy, chỉ nghe thấy rầm một tiếng vang vọng, bức tượng thần Quảng TếLong Vương được hương khói trong điện lập tức đổ ập xuống, nện thẳngxuống con quái vật ở bên dưới. Mặc dù làm bằng đất, nhưng bức tượng thần cao tới ba trượng vẫn có trọng lượng tương đối lớn. Con quái vật toànthân phủ đầy bùn đất lẫn rong rêu khua loạn hai cánh tay, nhưng vẫn bịbức tượng đất Long Vương đè nghiến xuống, không thể giãy ra được, chẳngbao lâu sau đã bất động. Bởi dùng sức quá độ, Quách sư phụ bất tỉnh nhân sự trong đại điện.
Đến khi trời sáng hẳn, ông ta mới tỉnh lại, nhìn lên trời qua lỗthủng toang hoác trên mái điện. Ngoài trời mưa đã tạnh, ánh nắng gay gắt nóng rát mặt, vật đã bị bức tượng đất Quảng Tế Long Vương đè chết làmột xác chết tóc tai rối tung, gương mặt phù thũng khó mà nhận ra đườngnét, toàn bộ thân thể dính đầy bùn nhão và rong rêu, da có vảy, hôi thối không ngửi được. Chưa tới giữa trưa, nó đã chỉ còn sót lại xương cốt,da thịt đã biến thành vũng nước đen ngòm lênh láng trên mặt đất. Cóngười hiểu biết, nói đây là quỷ gây hạn dưới sông, là xác chết dưới sông bị âm hồn chiếm cứ. Kẻ năm xưa mượn thai đầu sinh vào Liên Hóa Thanhthực ra là quỷ gây hạn sống dưới sông Vĩnh Định, khó khăn lắm mới trưởng thành đến thế này, nhưng lại bị Quách sư phụ bắt ở nghĩa trang nhà họNgụy, giải đến pháp trường Tiểu Lưu Trang bắn chết. Một tia âm hồn thihành pháp thuật mượn nước bỏ chạy, trốn về sông Vĩnh Định, quay trở vềbản thể, chính là một xác ướp cổ ẩn trong lớp bùn dưới đáy sông, sau đó, lần tới chỗ Quách sư phụ. May mà Quảng Tế Long Vương hiển thánh, bứctượng đất đổ xuống đè chết yêu sông.
Sáu
Quách sư phụ cũng suy đoán giống như vậy. Ông ta nhớ lại lúc mìnhngồi làm nguyên bảo vàng mã dưới ánh đèn, có một người mặc trường bào đã nhắc nhở bản thân trên nóc điện có vật gì đó, nhưng nhà ông ta không có người nào như vậy, không phải là Long Ngũ gia thì còn có thể là ai?Huống chi, với sức lực của mình, bất kể thế nào ông ta cũng không thểlay chuyển nổi bức tượng đất nặng đến như vậy. Qua đó có thể thấy, Quảng Tế Long Vương mới thật sự là “Thần sông”. Ông ta tự phát thệ, sau nàysẽ đắp lại kim thân cho Quảng Tế Long Vương, nhưng không biết rằng lờihứa liên quan đến thần linh tuyệt đối không thể thốt ra tùy thích, đãhứa thì chắc chắn phải làm. Lúc bấy giờ, ông ta vẫn nghĩ là mình có thểthực hiện được, chỉ cần tiết kiệm tiền từng chút một, sớm muộn gìcũng sẽ có ngày đủ khả năng trùng tu đại điện miếu Hà Long. Ai ngờ, chưa đầy hai năm sau, toàn quốc đã giải phóng. Sau khi nước Trung Quốc mớiđược thành lập, người ta xóa bỏ mê tín dị đoan. Miếu Long Vương thuộc về tàn tích của thời phong kiến, làm sao có thể được phê chuẩn trùng tu?Sau giải phóng, nghĩa trang miếu Hà Long bị dỡ bỏ, xung quanh đó nhà mái bằng mọc lên san sát. Câu chuyện năm xưa Quảng Tế Long Vương đuổi bắthạn ma đại tiên, hiển thánh nhập vào bức tượng đất đè chết xác chết hóathành quỷ gây hạn dưới sông Vĩnh Định đã chẳng còn mấy người biết tới,chỉ có lớp người già là còn người nhắc tới, đã thực sự trở thành truyềnthuyết dân gian.
Sau vụ đuổi bắt Liên Hóa Thanh, khi nhắc tới Thần sông Quách ĐắcHữu, ở Thiên Tân hầu như là không người nào là không biết không ai làkhông hay. Nhưng Quách sư phụ không dám nhận cách xưng hô này, mà chỉtập trung vào công việc dẫn đội tuần sông vớt xác cứu người. Đội cảnhsát đường thủy năm sông chỉ bận rộn vào mùa hè, bởi mùa này có nhiềungười chết đuối. Đến mùa đông, mặt sông đóng băng, cho dù có người rơixuống kẽ nứt chết đuối thì cũng không thể nào vớt lên được, đồng nghĩavới mấy tháng không có việc gì để làm. Vào quãng thời gian đó, ông tadựa vào công việc dán giấy tường và lo liệu ma chay kiếm sống.
Lại nói về tấm bia đá ở nghĩa trang nhà họ Ngụy. Đầu năm một chínbốn chín, trong chiến dịch Bình Tân, đội quân hơn mười vạn quân dã chiến Đông Bắc tấn công Thiên Tân, chia thành hai đạo quân vừa chặn đầu vừakhóa đuôi. Nghĩa trang nhà họ Ngụy là điểm đột phá giải phóng quân đánhnghi binh, cho nên chiến trận thực ra lại không quá khốc liệt, nhưngpháo binh lại bắn dồn dập liên hồi. Khi ấy, tấm bia đá đã bị đạn pháophá hủy. Sau này, người dân chuyển đến sống ở vùng đất trũng phía namđông dần lên qua từng năm, hầm hố khắp mặt đất từng bước được lấp đầy,vùng đất này không còn bị ảnh hưởng bởi lũ lụt nữa. Bởi vì đạn pháo đãphá mất tấm bia đá, âm khí tích lại đậm đặc ở nghĩa trang nhà họ Ngụycũng biến mất từ đấy, sau này không còn ai nhìn thấy ông lão bán mìhoành thánh và cô cháu gái kia nữa.
Bắt đầu từ vụ dìm xác ngã ba sông, báo mộng ở miếu thổ địa tại TrầnĐường Trang, đào được quan tài ở công viên Lý Thiện Nhân, lục soát ngôinhà bị ma ám ở nghĩa trang nhà họ Ngụy, bắt yêu ở thôn chó dữ, rắn thầnchỉ đường ở sông Âm Dương, xử bắn Liên Hóa Thanh ở sân phơi gạch ngóicủa Tiểu Lưu Trang, cho đến tận chuyện Long Ngũ gia hiển thánh đè chếtxác người hóa thành quỷ gây hạn dưới sông Vĩnh Định, những câu chuyệnđồn đại về yêu sông Liên Hóa Thanh được kể đi kể lại ở Thiên Tân vệ rấtnhiều năm. Trước kia còn có nghệ nhân Bình thư kể chuyện bằng cách háthài hước châm biếm, đã dần biến những câu chuyện này thành Bình thư, đến các quán trà biểu diễn cho mọi người nghe, chủ đề chủ yếu xoay quanhcon sông Âm Dương ở nghĩa trang nhà họ Ngụy. Càng ở đầu đường cuối ngõ,người biểu diễn càng nhiều, nội dung cũng càng thêm phần ly kỳ.
Thời xưa, cứ vài năm Thiên Tân lại xảy ra một trận lũ lụt. Nhưng đến bây giờ, khí hậu đã thay đổi quá nhiều, đất màu đã bị xói mòn nghiêmtrọng, quanh năm suốt tháng không có mưa cũng là chuyện bình thường, làm sao còn có thể tưởng tượng ra được nạn lũ lụt xưa kia khủng khiếp nhưthế nào. Vùng đất dưới hạ lưu của chín con sông, trước giải phóng đãchịu đủ mọi khổ ải của nạn lũ lụt, cho nên đã xuất hiện không ít truyềnthuyết về về yêu sông thủy quái. Kể từ sau khi nước Trung Quốc mới đượcthành lập vào năm một chín bốn chín, thập kỷ năm mươi chỉ xảy ra thêmmột lần lũ lụt nữa, càng về sau mật độ nhân khẩu càng dày, những loạiđộng vật như cáo hay sói vàng gần như đã tuyệt tích trong thành phố.Những câu chuyện ly kỳ quái dị cũng đã ít hơn trước nhiều, nhưng vẫnkhông phải là hoàn toàn không có, chỉ có điều là ít người biết đến màthôi. Ví dụ như câu chuyện đuổi bắt yêu sông Liên Hóa Thanh, nội dung mà những người dân cao tuổi truyền miệng rỉ tai đại khái là bắt đầu từ lúc vớt xác bị dìm dưới ngã ba sông, cho đến khi bức tượng đất trong điệnchính ở nghĩa trang đè chết quái vật mới kết thúc. Phần sách nói về consông Âm Dương ở nghĩa trang nhà họ Ngụy tới đây trên cơ bản coi như đãkết thúc, nhưng câu chuyện về Thần sông thì còn lâu mới có thể chấm dứt. “Bắt yêu ở nghĩa trang nhà họ Ngụy” mới chỉ là phần đầu, kế tiếp sẽ nói tới chuyện “Ngôi nhà bị ma ám trong ngõ hẻm kho lương”, đó là một sựviệc kỳ lạ xảy ra bên bờ sông Hải Hà vào thập niên năm mươi sáu mươi sau khi đất nước được thành lập vào năm một chín bốn chín, rất ít ngườibiết tới.