Kẻ Nhắc Tuồng

Chương 20



Bệnh viện quân y R.

Ngày 16 tháng 2

– Họ thích nói gì kệ họ! Cô là một cảnh sát tốt, rõ chưa?

Trung sĩ Morexu đã lôi toàn bộ tinh thần digan của mình ra để bày tỏ sự ủng hộ với Mila. Ông chưa bao giờ nói với cô bằng giọng đau khổ như thế. Gần như kiểu cha nói với con. Tuy nhiên, cô cảm thấy mình không xứng đáng với sự ủng hộ ấy. Ông sếp đã bất ngờ gọi cho Mila ngay khi tin tức về chuyến phiêu lưu trong đêm đến trại mồ côi của cô lan ra. Họ sẽ quy trách nhiệm về cái chết của Ronald Dermis cho cô, Mila chắc chắn như thế, mặc dù đó là một cách phòng vệ chính đáng.

Cô thấy mình nằm trong một bệnh viện quân y. Roche đã khôn ngoan không chọn một bệnh viện dân sự nhằm tránh con mắt soi mói của báo chí. Vì vậy Mila được ở hẳn một khu riêng. Khi cô hỏi những người bệnh khác đâu, câu trả lời ngắn gọn cô nhận được là khu điều trị này đã được thiết kế cho việc cách ly những người bị tấn công bằng vũ khí sinh học.

Giường được dọn mỗi sáng, khăn trải giường được giặt sạch và ủi thẳng thớm. Trong khoa dược, các loại thuốc men được bổ sung nhanh chóng. Tất cả những ưu đãi này chỉ nhằm phục vụ cho duy nhất một khả năng: một thằng cha căng chú kiết nào đấy quyết định phát tán một loại virus hoặc vi khuẩn biến đổi gen tiêu diệt loài người.

Cái trò rồ dại nhất quả đất, Mila thầm nghĩ.

Vết thương nơi cánh tay của cô đã được khâu khoảng bốn chục mũi, bởi một người bác sĩ phẫu thuật tốt bụng không hề đề cập đến các vết sẹo khác của cô khi thăm khám.

– Cô không thể bị bắn ở vị trí nào nhẹ nhàng hơn nữa đâu. – Ông ta chỉ nói có thế.

– Có liên quan gì giữa virus vi khuẩn và đạn thế ạ? – Cô hỏi khích.

Ông ta chỉ bật cười.

Sau đó, một bác sĩ khác đã đến khám cho cô hai hay ba bận gì đấy, đo huyết áp và cặp nhiệt độ cho cô. Tác dụng của những loại thuốc ngủ hoạt tính mạnh mà cha Timothy đã chuốc cho cô tiêu tan sau vài tiếng đồng hồ. Thêm một liều thuốc lợi tiểu nữa là giải quyết xong vấn đề.

Mila có đầy đủ thời gian để suy nghĩ.

Cô không thể không nghĩ đến bé gái số sáu. Cô bé không có cả một bệnh viện cho mình như cô. Hy vọng lớn nhất của Mila là Albert thường xuyên gây ngủ cho cô bé. Các chuyên gia y khoa được Roche hỏi về khả năng sống sót của cô bé đều tỏ ra bi quan khi căn cứ trên mức độ thương tổn trầm trọng về thể chất và cú sốc tinh thần mà em phải chịu đựng.

Thậm chí có thể cô bé chưa nhận ra mình bị mất cánh tay, Mila thầm nghĩ. Điều này thường xảy ra cho những người bị mất cánh tay. Cô đã nghe kể về một số thương binh sau khi đã bị mất một cánh tay vẫn còn cảm giác ở đó, thậm chí lâu lâu còn cảm thấy ngứa. Các bác sĩ gọi đó là “ý thức của cánh tay ma”.

Ý nghĩ này quấy rầy cô không yên, đặc biệt là trong sự tĩnh lặng của phòng bệnh. Có lẽ đây là lần đầu tiên kể từ nhiều năm nay cô thấy hối tiếc vì không có bạn bè. Sau cú điện thoại của Morexu, chẳng ai đến thăm cô, kể cả Goran, Boris hay Stern, chứ đừng nói đến Rosa. Chuyện này chỉ nói lên một điều: họ đang quyết định xem sẽ làm gì với cô, và liệu có tiếp tục giữ cô ở lại với nhóm điều tra hay không. Ngay cả khi Roche dù gì cũng là người ra quyết định cuối cùng.

Cô giận mình vì đã khờ khạo đến thế. Có lẽ cô đáng bị thất sủng. Ý nghĩ duy nhất an ủi cô là Ronald Dermis chắc chắn không phải Albert. Nếu không thì chẳng thể làm gì cho cô bé số sáu được nữa.

Nằm một mình trong phòng bệnh, Mila không biết chút gì về sự tiến triển của cuộc điều tra. Cô hỏi thăm tình hình qua người y tá phục vụ bữa sáng và được đưa cho một tờ nhật báo sau đó một lúc.

Vụ án chiếm hết sáu trang đầu. Lượng thông tin ít ỏi lọt ra ngoài được dùng đi dùng lại nhiều lần và thổi phồng hết cỡ. Mọi người đang khát thông tin. Sau khi công chúng được biết về sự tồn tại của bé gái số sáu, tinh thần đoàn kết đang dâng cao khắp cả nước, đẩy mọi người đến chỗ làm những chuyện không thể tưởng tượng được, chẳng hạn như tổ chức những buổi cầu nguyện hoặc những nhóm tương trợ. Một chiến dịch đã được phát động: “Mỗi cửa sổ một cây nến”. Những ánh nến nhỏ thể hiện sự trông chờ vào “phép màu”, và sẽ chỉ được tắt đi khi cô bé số sáu trở về với gia đình. Những người từ lâu không ngó ngàng đến ai, nay nhờ vụ án này mà được trải qua một kinh nghiệm mới về sự tiếp xúc giữa con người với con người. Họ không còn phải tìm cớ để thiết lập mối quan hệ với nhau nữa, bởi từ giờ mọi người đã có một điểm chung là sự thương cảm dành cho cô bé. Điều đó giúp họ giao tiếp được với nhau. Mọi người làm như thế ở khắp nơi: siêu thị, quán bar, trong lúc làm việc, dưới tàu điện ngầm. Trên truyền hình, dù là chương trình nào cũng chỉ nghe nhắc đến chuyện đó.

Tuy nhiên, trong số tất cả những sáng kiến đưa ra, có một điều đặc biệt đã gây tiếng vang, đến mức làm rối trí các điều tra viên.

Một khoản tiền thưởng.

Mười triệu cho bất cứ ai cung cấp thông tin giúp cứu sống bé gái số sáu. Một khoản lớn, đủ để gây tranh cãi dữ dội. Một số người tin rằng nó làm hỏng sự thể hiện của tinh thần đoàn kết. Ngược lại, số khác lại cho đó là ý tốt, nhằm giúp cho mọi việc chuyển động, bởi đằng sau tấm mặt nạ vị tha, lòng ích kỷ vẫn luôn ngự trị và có thể được khai thác bằng một khoản lợi lộc trước mắt.

Thế là, dù không nhận ra, đất nước lại một lần nữa chia rẽ.

Sáng kiến thưởng tiền đến từ quỹ Rockford. Khi Mila hỏi bà y tá ai là người đứng sau quỹ từ thiện kia, bà ta giương to mắt kinh ngạc.

– Mọi người đều biết đó là ngài Joseph B. Rockford.

Phản ứng của bà y tá làm Mila hiểu cô đã tự cắt đứt với thế giới bên ngoài đến mức nào khi đắm mình vào những cuộc truy tìm bọn trẻ mất tích và tìm kiếm lời giải cho các vấn đề của bản thân.

– Tôi xin lỗi, tôi không biết. – Cô đáp.

Mila cảm thấy thật vô lý khi đường đời của một nhà tài phiệt và một cô bé vô danh giao nhau. Hai con người cho đến thời điểm này có hai cuộc sống quá khác biệt, và họ có lẽ sẽ tiếp tục con đường của riêng mình cho đến điểm kết thúc nếu như Albert không đưa họ xích lại gần nhau.

Với suy nghĩ ấy, cô thiếp đi, và tận hưởng một giấc ngủ không mộng mị, giúp tẩy sạch những ngày kinh hoàng vừa qua khỏi đầu cô. Sau khi thức giấc một cách thư thái, cô thấy mình không đơn độc.

Goran đang ngồi cạnh giường cô.

Mila ngồi dậy, tự hỏi nhà tội phạm học đã ở đó được bao lâu rồi. Ông vội trấn an cô:

– Tôi thích đợi hơn là đánh thức cô dậy. Cô có vẻ rất nhẹ nhõm. Tôi có làm gì sai không đấy?

– Không. – Cô nói dối. Thật ra, giáo sư làm cô bất ngờ vào lúc không có sự phòng bị nào cả. Trước khi ông nhận thấy sự bối rối của cô, Mila vội đổi chủ đề câu chuyện. – Họ muốn giữ tôi ở đây để theo dõi. Nhưng tôi đã nói là chiều nay tôi sẽ ra viện.

Goran nhìn đồng hồ.

– Thế thì cô phải nhanh lên. Tối đến nơi rồi đấy.

Mila không nhận ra mình ngủ nhiều đến thế.

– Có tin gì mới không ạ?

– Tôi vừa mới có một buổi họp khá dài với chánh thanh tra Roche.

Vậy ra đây là lý do khiến ông ta đến, cô nghĩ bụng. Ông ta muốn đích thân thông báo rằng cô không còn ở trong nhóm điều tra nữa. Nhưng hóa ra cô nhầm.

– Chúng tôi đã tìm ra cha Rolf.

Mila thấy bụng quặn lên. Cô nghĩ đến khả năng xấu nhất.

– Ông ta đã chết cách đây khoảng một năm, chết tự nhiên.

– Ông ấy được chôn ở đâu?

Nghe đến đây, Goran hiểu Mila đã đoán ra mọi chuyện.

– Phía sau nhà thờ. Ở đó còn những cái hố khác, chôn nhiều xác động vật.

– Cha Rolf đã đem xuống mồ cùng ông ấy một vài bí mật nho nhỏ.

– Có vẻ như thế thật. Ronald bị chứng rối loạn nhân cách. Đó là một tên sát nhân hàng loạt đang hoàn thiện mình, và cha Rolf biết điều đó. Việc giết thú vật rất điển hình trong trường hợp này. Mọi thứ luôn diễn ra như vậy: khi đối tượng không còn thỏa mãn với việc giết thú, hắn chuyển mục tiêu sang đồng loại của mình. Ronald cũng thế, sớm hay muộn, sẽ chuyển sang giết người. Xét cho cùng thì việc đó đã là một phần trong vốn liếng cảm xúc từ thời ấu thơ của hắn.

– Nhưng giờ chúng ta đã chặn được hắn.

Goran lắc đầu quầy quậy:

– Không, thật ra chính Albert mới là kẻ đã ngăn chặn được hắn.

Đó là một thực tế đầy mâu thuẫn.

– Nhưng Roche thà bị lên cơn đau tim còn hơn chấp nhận chuyện này!

Mila nghĩ giáo sư Goran đang tìm cách trì hoãn việc công bố chuyện cô bị loại khỏi cuộc điều tra, nên cô nói thẳng toẹt luôn:

– Tôi bị đuổi rồi, phải không?

Goran tỏ ra bất ngờ.

– Sao cô lại nói thế?

– Vì tôi đã làm một chuyện ngu ngốc.

– Chúng ta ai chẳng từng dại dột.

– Tôi đã gây ra cái chết của Ronald Dermis, vậy là chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được Albert đã tìm ra vụ này như thế nào…

– Trước tiên, tôi tin rằng Ronald đã dự trù trước cái chết của mình. Hắn muốn chấm dứt những gì đã hành hạ hắn từ nhiều năm nay. Cha Rolf đã biến hắn thành một thầy tu giả hiệu, thuyết phục Ronald rằng hắn có thể sống như một người phụng sự Chúa và đồng loại. Nhưng hắn lại không muốn yêu thương đồng loại: hắn muốn giết người để tìm thú vui.

– Vậy còn Albert, làm thế nào gã biết được?

Khuôn mặt của Goran bỗng sa sầm.

– Hẳn gã đã tiếp xúc với Ronald ở một thời điểm nào đó. Tôi chưa thể nghĩ ra được cách lý giải khác. Gã đã hiểu ra điều mà cha Rolf đã biết trước đó. Và gã tìm đến vì có nhiều điểm chung với Ronald. Theo cách nào đó, chúng đã tìm thấy nhau và nhận ra nhau.

Mila thở dài, nghĩ đến định mệnh. Chỉ có hai người hiểu được Ronald Dermis trong suốt cuộc đời của hắn. Một là cha xứ, người không tìm được giải pháp nào tốt hơn là che giấu hắn. Một là đồng sự, kẻ có khả năng đã bóc trần chân tướng của hắn.

– Đáng lẽ cô đã là người thứ hai…

Câu nói của Goran kéo Mila ra khỏi dòng suy nghĩ.

– Sao ạ?

– Nếu cô không ngăn được hắn, Ronald đã giết cô, như đã làm với Billy Moore nhiều năm về trước.

Lúc ấy, ông rút từ túi áo trong ra một chiếc phong bì và đưa cho Mila.

– Tôi nghĩ cô có quyền xem mấy thứ này…

Mila cầm lấy phong bì và mở ra. Bên trong phong bì có những tấm ảnh Ronald đã chụp lúc truy tìm cô trong nhà ăn. Cô xuất hiện ở góc của một tấm ảnh. Co quắp dưới gầm bàn, đôi mắt đầy kinh hoàng.

– Tôi không được ăn ảnh cho lắm. – Mila cố gắng pha trò. Nhưng Goran hiểu cô đang dao động.

– Sáng nay, Roche đã giải tán đội trong hai mươi tư giờ… Hay ít ra là đến khi xác chết tiếp theo xuất hiện.

– Tôi không muốn nghỉ. Tôi muốn tìm ra cô bé số sáu. – Mila nói. – Cô bé không thể chờ đợi được.

– Tôi tin ngài chánh thanh tra biết điều đó… Nhưng ông ta đang thử chơi một con bài khác, tôi e là vậy.

– Món tiền thưởng.

– Nó có thể mang lại những kết quả bất ngờ.

– Vậy còn việc tìm kiếm trong danh sách những người hành nghề y? Còn giả thiết cho rằng Albert là một bác sĩ đã bị rút giấy phép?

– Một hướng khá phập phù. Không ai thực sự tin vào nó ngay từ đầu. Cũng như tôi không nghĩ ta có thể rút ra được gì từ việc truy tìm nguồn gốc các loại thuốc đã giúp gã duy trì sự sống cho cô bé. Tay này có cả ngàn phương cách để có được chúng. Gã rất ranh ma và có sự chuẩn bị từ trước, đừng quên điều đó.

– Kỹ càng hơn chúng ta nhiều, có vẻ như thế. – Mila đá xoáy.

Goran không phản đối.

– Tôi đến đây để đưa cô đi, không phải để tranh cãi.

– Đưa tôi đi… Giáo sư định đưa tôi đi đâu?

– Đi ăn tối… À, nhân tiện, chúng ta xứng hô bớt khách sáo đi nhé.

Sau khi rời bệnh viện, Mila đòi được tạt qua studio. Cô muốn tắm rửa và thay quần áo. Cô đã nghĩ nếu như chiếc áo phông không bị đạn xé rách và phần còn lại của trang phục không bị vấy máu, thì cô đã mặc nguyên như thế mà đi. Thực ra thì lời mời ăn tối bất ngờ khiến cô bối rối, và cô không muốn mình bốc mùi hôi hoặc mùi cồn iốt.

Thỏa thuận ngầm giữa cô với giáo sư Gavila – mặc dù từ giờ cô phải làm quen với việc gọi ông bằng tên – là chuyện này không được coi như một chuyến đi chơi, và sau bữa tối, cô sẽ lập tức quay về studio để tiếp tục công việc. Dù sao thì, ngay cả nếu như điều này khiến cho cô thấy có lỗi với bé gái số sáu, cô cũng không khỏi mừng rỡ về lời mời.

Do vết thương, Mila không tắm bằng vòi sen được. Cô chỉ có thể lau rửa cẩn thận từng chút một, đến mức hết cả bình nước nóng.

Cô mặc một chiếc áo phông cổ tròn màu đen. Chiếc quần jean còn lại nom khiêu khích vì quá bó sát, nhưng cô không còn lựa chọn nào khác. Chiếc áo khoác da của cô bị rách ở vai trái, chỗ đạn bắn, nên cô không thể mặc được. Tuy vậy cô rất ngạc nhiên khi thấy trên giường mình là một chiếc áo khoác màu xanh quân đội, với một lời nhắn: “Ở đây, cái lạnh gây chết nhiều hơn súng đạn. Chào mừng cô trở lại với mọi người. Thân ái, Boris”.

Cô cảm thấy ấm lòng và biết ơn. Nhất là khi Boris tự coi mình như một “người bạn”. Điều đó khiến cô yên tâm rằng anh chàng sẽ không thử cưa cẩm mình. Trên chiếc áo khoác còn có một hộp kẹo bạc hà, đóng góp của Stern cho động thái chăm sóc thân tình này.

Đã từ nhiều năm nay, Mila không mặc gì ngoài màu đen. Nhưng chiếc áo khoác xanh lá rất hợp ý cô. Nó lại vừa nữa chứ. Khi trông thấy cô từ studio bước xuống, Goran có vẻ không nhận ra bề ngoài mới mẻ của cô. Ông lúc nào cũng lơ đễnh và chẳng chú ý gì đến vẻ ngoài của người khác.

Hai người đi bộ đến nhà hàng. Cuộc đi dạo khá dễ chịu, và nhờ món quà của Boris, Mila không bị lạnh.

Tấm biển steak house hứa hẹn món thịt bò tái Argentina mềm ngon. Họ ngồi vào một bàn dành cho hai người cạnh cửa sổ. Bên ngoài, tuyết phủ trắng tất cả mọi thứ, bầu trời ráng đỏ âm u dự báo những đợt tuyết rơi khác trong đêm. Bên trong nhà hàng, mọi người cười nói vô tư lự, một điệu nhạc jazz làm nóng bầu không khí, nhưng không át đi những cuộc đối thoại vui vẻ.

Trong thực đơn, món nào cũng có vẻ hấp dẫn, khiến Mila phải mất một lúc để lựa chọn. Cuối cùng, cô chọn món bít-tết chín kỹ dùng kèm với khoai tây đút lò và lá hương thảo. Goran gọi một miếng sườn và salad cà chua. Hai người chỉ dùng nước khoáng có ga.

Mila không biết phải nói về chuyện gì: công việc, hay cuộc sống riêng. Lựa chọn thứ hai dù rất thú vị nhưng lại khiến cô không thoải mái. Tuy nhiên, trước hết, cô phải giải tỏa thắc mắc của mình cái đã.

– Thực sự chuyện đó diễn ra như thế nào?

– Chuyện gì cơ?

– Roche đã muốn loại em ra khỏi cuộc điều tra, nhưng rồi ông ta thay đổi ý định. Tại sao vậy?

Goran ngần ngừ, nhưng rồi ông quyết định nói hết.

– Chúng tôi đã tiến hành bỏ phiếu xem có giữ em lại hay không.

– Bỏ phiếu á? – Mila ngạc nhiên. – Vậy là đa số đã muốn như vậy.

– Một chênh lệch lớn đấy.

– Nhưng… sao lại thế được?

– Ngay cả Sarah Rosa cũng bỏ phiếu thuận giữ em ở lại. – Giáo sư vừa nói vừa suy đoán phản ứng của cô.

Mila choáng váng.

– Ngay cả chị ta, kẻ thù không đội trời chung của em!

– Lẽ nào em có ác cảm với Rosa đến thế!

– Thật ra, em lại nghĩ điều ngược lại kìa…

– Rosa đang trải qua một giai đoạn khó khăn. Cô ấy vừa mới ly thân chồng.

Mila định nói cô đã nhìn thấy hai vợ chồng họ cãi vã dưới cửa studio tối hôm nọ, nhưng lại thôi vì không muốn tỏ ra quá tọc mạch.

– Em rất tiếc.

– Khi đã có con cái, chuyện này không bao giờ dễ dàng.

Mila có cảm giác như ẩn ý của Goran đi xa hơn là sự việc của Sarah Rosa, có lẽ nó liên hệ trực tiếp đến ông.

– Con gái Rosa đã bị rối loạn ăn uống do ảnh hưởng từ sự chia tay của bố mẹ. Hai người vẫn tiếp tục sống dưới cùng một mái nhà, nhưng em có thể tưởng tượng hệ quả của tình trạng đó rồi đấy.

– Không lẽ việc này cho phép chị ta trút giận vào em?

– Là người mới đến, hơn nữa lại là một phụ nữ duy nhất còn lại trong nhóm ngoài cô ấy, em dễ dàng trở thành đích nhắm của Rosa. Cô ấy không thể trút giận vào Boris hay Stern, vì họ đã quen biết nhau nhiều năm rồi…

Mila rót một chút nước khoáng, sau đó sự tò mò của cô chuyển sang các đồng đội còn lại.

– Em muốn hiểu họ rõ hơn để có cách cư xử cho thích hợp, nếu ông không phiền.

– Ờ, theo tôi, với Boris thì khá dễ. Em nhìn thấy thế nào thì cậu ấy là như thế.

– Quả vậy. – Mila công nhận.

– Tôi cũng xin nói luôn, cậu ấy từng phục vụ trong quân đội và trở thành chuyên gia thẩm vấn. Tôi thường chứng kiến Boris làm việc, nhưng lần nào cậu ấy cũng khiến tôi kinh ngạc. Cậu ấy biết cách chui vào trong đầu của bất cứ người nào.

– Em không biết là Boris lại giỏi đến thế.

– Cậu ấy giỏi, rất giỏi… Cách đây hai năm, một tay nọ bị bắt giữ do bị tình nghi đã giết chết rồi phi tang xác của cậu mợ hắn, hai người sống cùng nhà với hắn. Em chưa từng thấy ai như thế đâu: hắn lạnh lùng và cực kỳ điềm tĩnh. Sau mười tám giờ bị thẩm tra tích cực với năm cảnh sát luân phiên dồn ép, hắn vẫn không thừa nhận gì hết. Cuối cùng, Boris đến, ngồi hỏi hắn hai mươi phút là hắn thú nhận mọi thứ.

– Thế cơ à! Vậy còn Stern?

– Stern là một người rất gan dạ. Tôi còn nghĩ chữ ấy đúng là được viết ra để miêu tả anh ấy. Stern đã kết hôn được ba mươi bảy năm, có hai cậu con trai sinh đôi, cả hai đều vào hải quân.

– Anh ấy có vẻ là một người khá trầm. Em cũng thấy Stern rất ngoan đạo nữa.

– Chủ nhật nào Stern cũng đi lễ nhà thờ, thậm chí còn hát trong ca đoàn.

– Ngoài ra, em thấy trang phục của anh ấy thật không thể tin nổi. Cứ như một tài tử điện ảnh những năm 70.

Goran bật cười đồng tình. Rồi ông nghiêm nghị trở lại.

– Marie, vợ Stern ấy, phải chạy thận năm năm trời trong khi chờ ghép thận. Cuối cùng cách đây hai năm Stern đã hiến một quả thận cho Marie.

Ngỡ ngàng xen lẫn khâm phục, Mila không thốt nên lời. Goran nói tiếp.

– Người đàn ông này đã từ bỏ một nửa phần đời còn lại của mình để tiếp chút hy vọng cho vợ.

– Chắc anh ấy yêu chị nhà lắm.

– Phải, tôi nghĩ là thế. – Goran nói với một chút chua chát mà Mila không thể không nhận thấy.

Lúc đó thức ăn được dọn lên. Hai người ăn trong yên lặng, nhưng không phải một sự yên lặng nặng nề. Họ giống như hai người đã biết nhau rõ đến nỗi không cần phải liên tục dùng ngôn từ để lấp đầy khoảng trống cho đỡ lúng túng.

– Có vài điều em phải nói. – Mila lên tiếng sau đó một lúc. – Chuyện này xảy ra lúc em mới đến, vào đêm thứ hai khi em về nhà nghỉ của mình, trước lúc chúng ta dọn vào trong studio.

– Em nói đi.

– Cũng có thể là chẳng có gì hết, hoặc chỉ là linh cảm… nhưng em cảm thấy bị người ta theo dõi, lúc em về nhà nghỉ.

– Cảm thấy nghĩa là thế nào?

– Kẻ đó bắt chước nhịp bước của em.

– Nhưng tại sao người đó theo dõi em?

– Chính vì thế mà em không kể với ai hết. Em cũng thấy chuyện này rất vô lý. Chắc em tưởng tượng…

Goran ghi nhận lại thông tin và im lặng.

Lúc cà phê được dọn lên, Mila nhìn đồng hồ.

– Em muốn ghé một chỗ này. – Cô nói.

– Vào giờ này sao?

– Phải.

– Thôi được, để tôi gọi thanh toán.

Mila đề nghị chia tiền, nhưng Goran nhất định trả hết vì ông là người mời. Đúng kiểu lộn xộn đặc trưng – và cũng rất dễ thương nữa – khi ông rút từ trong túi ra chỗ giấy bạc, tiền xu và mấy tờ ghi chú nguệch ngoạc, thì vài quả bóng đủ màu rơi ra.

– Của Tommy, con trai tôi đấy.

– Ô, em không biết là ông có… – Mila vờ vịt.

– Không, không đâu. – Ông vội nói và cụp mắt xuống. – Giờ thì hết rồi.

Mila chưa bao giờ tham gia vào một buổi an táng ban đêm. Thời điểm chôn cất Ronald Dermis được lựa chọn nhằm né tránh công chúng. Đối với cô, suy nghĩ cho rằng ai đó có thể trả thù vào một cái xác cũng ghê rợn không kém bản thân buổi mai táng.

Các phu đào huyệt đang làm việc quanh cái hố. Họ không dùng máy xúc. Mặt đất đông cứng khiến họ rất vất vả. Bốn người bọn họ đổi phiên cho nhau năm phút một, hai người đào và hai người soi đèn pin. Thỉnh thoảng, một người lại buột miệng chửi thời tiết giá lạnh, và để tự sưởi ấm, họ chuyển nhau chai Wild Turkey.

Goran và Mila yên lặng quan sát cảnh tượng đào huyệt. Quan tài chứa xác của Ronald vẫn đang còn nằm trong chiếc xe thùng. Xa hơn một chút là tấm bia đá không tên tuổi hay ngày tháng, chỉ ghi độc một con số. Cùng với một hình thập tự nhỏ.

Lúc này, trong đầu Mila hiện lên hình ảnh cú rơi của Ronald từ trên tháp xuống. Trong lúc hắn rơi, Mila không thấy trên gương mặt hắn một biểu hiện sợ hãi hay kinh hoàng nào. Cứ như thể hắn không hề sợ chết. Có lẽ cũng giống như Alexander Bermann, hắn thích giải pháp đó hơn. Chiều theo ham muốn xóa sổ bản thân mình mãi mãi.

– Mọi chuyện vẫn ổn chứ? – Goran hỏi, phá vỡ sự thinh lặng của cô.

Mila quay sang phía ông giáo sư.

– Mọi chuyện vẫn ổn.

Đúng lúc đó hình như cô thấy một người đứng nấp sau một cái cây trong nghĩa trang. Cô nhìn kỹ hơn và nhận ra Feldher. Hóa ra đám tang của Ronald không kín đáo đến thế.

Feldher mặc một chiếc áo khoác dày bằng len kẻ carô, trong tay cầm lon bia, tuồng như muốn nâng ly lần cuối với người bạn cũ thời thơ ấu, mặc dù có lẽ nhiều năm nay hai người không gặp lại nhau. Mila nhìn sự việc theo hướng tích cực: ngay cả tại nơi quỷ sứ nằm xuống, vẫn có chỗ cho tình thương.

Nếu không có Feldher và sự trợ giúp vô tình của hắn thì họ đã không đi được đến đây. Hắn cũng xứng đáng được thưởng vì đã ngăn chặn tên sát nhân hàng loạt đang hoàn thiện kia – như cách nói của Goran. Ai mà biết có bao nhiêu nạn nhân tương lai đã được cứu thoát?

Khi ánh mắt của họ gặp nhau, Feldher bóp bẹp lon bia và quay về phía chiếc xe hơi của hắn đậu cách đó không xa. Hắn sẽ lại quay về với căn nhà nơi bãi phế liệu, món trà nguội rót trong mấy cái ly cọc cạch, con chó có bộ lông màu gỉ sắt, và đợi cái chết vô danh một ngày kia đến gõ cửa.

Lý do thúc đẩy Mila đến dự buổi mai táng ngắn ngủi này có lẽ liên quan đến điều Goran đã nói với cô trong bệnh viện:

“Nếu cô không ngăn được hắn, Ronald đã giết cô, như đã làm với Billy Moore nhiều năm về trước”.

Và ai mà biết được, sau cô, có lẽ hắn sẽ còn tiếp tục giết người.

– Mọi người không biết chứ, theo thống kê của chúng tôi thì có từ sáu đến tám tên giết người hàng loạt đang hoạt động trên đất nước này trong thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, chưa có người nào xác định được chúng. – Goran nói trong lúc các phu nhà đòn hạ huyệt cỗ quan tài gỗ.

Mila choáng váng.

– Sao có thể như thế được?

– Bởi vì chúng ra tay một cách ngẫu nhiên, không có kịch bản. Hoặc vì chưa có ai xâu chuỗi được hai án mạng có vẻ rất khác biệt. Hay cũng có thể bởi vì các nạn nhân không đáng được nhận một cuộc điều tra chuyên sâu… Chẳng hạn như một cô gái điếm bị giết rồi bị vứt xác xuống mương. Trong đa số trường hợp, cái chết đó là do ma túy, ma cô, hoặc khách hàng gây ra. Căn cứ trên mức độ rủi ro của cái nghề ấy, trung bình một trên mười gái điếm bị giết, và không phải lúc nào họ cũng rơi vào danh sách nạn nhân của bọn giết người hàng loạt. Thật khó để chấp nhận chuyện này, nhưng nó là như vậy đấy.

Một cơn gió xới tung những bông tuyết và bụi đất. Mila run lên, cô thu mình lại trong chiếc áo khoác.

– Tất cả chuyện này có ý nghĩa gì? – Cô hỏi.

Thật ra trong câu hỏi của cô ẩn giấu một lời khẩn cầu. Nó chẳng có liên quan gì với vụ việc mà họ đang phụ trách, cũng như với cái nghề cô đã chọn. Đó là một lời cầu nguyện, một cách để chấp nhận sự bất lực của cô trong việc thấu hiểu động cơ của cái ác, nhưng cũng là một lời cầu xin sự cứu rỗi. Dù sao thì cô cũng không chờ đợi một câu trả lời.

Nhưng Goran đã lên tiếng:

– Chúa trời im lặng. Quỷ dữ thì thầm.

Hai người không nói gì.

Các phu nhà đòn lấp lỗ huyệt với chỗ đất đông cứng. Trong nghĩa trang chỉ còn tiếng xẻng vang lên. Rồi điện thoại di động của Goran đổ chuông. Ông còn chưa tìm được điện thoại trong túi áo choàng thì đến lượt di động của Mila réo vang.

Họ không cần phải nghe máy nhưng cũng biết rằng thi thể của bé gái thứ ba đã được tìm thấy.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.