Kẻ Nhắc Tuồng

Chương 28



– Cái ghế bành của Alexander Bermann!

Tại phòng suy tưởng, cả nhóm đang tập trung vào câu nói của Gavila. Họ nhớ lại khu ngoại ô nơi tên ấu dâm đặt hang ổ, cùng với chiếc máy tính mà hắn đã sử dụng để săn mồi trên mạng.

– Krepp đã không tìm thấy bất kỳ dấu vân tay nào trên cái ghế bành bọc da ở dưới tầng hầm đó!

Goran đột ngột nhận ra đó là một manh mối.

– Trên tất cả những thứ khác có hàng trăm dấu tay, nhưng trên cái ghế thì không! Tại sao? Bởi vì ai đó đã cất công xóa sạch chúng!

Nhà tội phạm học tiến về phía bức tường đang găm các báo cáo, các bức ảnh và những kết luận về vụ việc ở cô nhi viện. Ông gỡ một tờ xuống và đọc. Đó là biên bản ghi lại đoạn băng thu âm lời thú tội của Ronald Dermis lúc còn là một cậu bé với cha Rolf, vốn được tìm thấy trong máy ghi âm chôn theo quan tài của Billy Moore.

– “Con biết chuyện đã xảy ra với Billy phải không, Ron?” “Chúa đã mang cậu ấy đi”. “Không phải Chúa, Ron. Con biết là ai không?” “Bạn ấy ngã. Bạn ấy bị ngã từ trên tháp xuống”. “Nhưng lúc đó con ở cùng với Billy”. “… Dạ”. Sau đó cha Rolf trấn an thằng bé: “Không ai trừng phạt con nếu con nói ra sự thật. Ta hứa”. Rồi ta nghe thấy Ronald đáp: “Có người đã bảo con làm chuyện đó”. Mọi người có hiểu không? “Người đó”.

Goran quan sát những gương mặt đang bối rối nhìn mình.

– Rồi ta nghe thấy cha Rolf hỏi: “Người đó là ai? Billy à? Billy đã bảo con đẩy cậu ấy sao?” “Dạ không”, Ronald đã đáp như thế. “Vậy là một đứa khác?” và Ronald lại đáp: “Dạ không”. “Vậy thì ai? Coi nào, trả lời ta đi. Người mà con nói không tồn tại, phải không? Đó chỉ là sự tưởng tượng của con…” Ronald có vẻ đoan chắc khi phủ nhận một lần nữa, nhưng cha Rolf độp luôn: “Ở đây không có ai, ngoài con và các bạn học”. Rốt cuộc Ronald trả lời: “Người đó chỉ đến gặp một mình con”.

Dần dần, mọi người hiểu ra vấn đề.

Giáo sư Goran mừng rỡ như một đứa trẻ. Ông chạy đến bên những tờ giấy gắn trên tường và gỡ xuống bản sao bức thư của Ronald viết khi đã là người lớn để gửi cho đội điều tra.

– Câu này đã đập vào mắt tôi: “thế rồi NGƯỜI xuất hiện. NGƯỜI hiểu tôi. NGƯỜI dạy tôi”.

Ông giơ bức thư lên, chỉ cho mọi người thấy câu vừa đọc.

– Mọi người thấy không? Chữ “người” đã được cố tình viết hoa… Tôi đã nghĩ đến điều này, nhưng đã rút ra một kết luận sai lầm. Tôi đã tin đây là một ví dụ rõ ràng của dạng phân ly nhân cách, trong đó cái tôi tiêu cực luôn biệt lập với cái tôi đại diện. Và trở thành “người đó”… “Đó là TÔI. Nhưng NGƯỜI đã bảo tôi làm điều đó. Do lỗi của NGƯỜI mà TÔI mới thành ra như thế này”. Tôi đã nhầm! Tôi đã mắc cùng một lỗi với cha Rolf ba mươi năm về trước. Trong lúc thú tội, khi Ronald dùng chữ “Người”, cha Rolf đã tưởng là thằng bé muốn nói tới chính mình, và nó đang tìm cách đổ thừa tội của mình. Ở trẻ con thì đó là một việc khá điển hình. Nhưng Ronald mà chúng ta biết đã không còn là một đứa trẻ nữa…

Mila thấy năng lượng trong ánh mắt của Goran đang giảm đi. Điều này thường xảy ra mỗi khi ông mắc một sai lầm trong đánh giá.

– “Người” mà Ronald muốn nói tới ở đây không phải là một phóng chiếu từ nội tâm của hắn, một bản ngã thứ hai luôn chịu trách nhiệm cho những hành động của hắn! Không phải, cũng chính “Người” đó là kẻ đã ngồi trong chiếc ghế bành của Alexander Bermann mỗi khi hắn lên Internet tìm trẻ con! Feldher đã để lại vô vàn dấu vết trong nhà bà Yvonne Gress, nhưng lại lo lắng sơn lại căn phòng nơi diễn ra vụ thảm sát, bởi vì thứ ở trên tường là cái duy nhất hắn buộc phải che giấu… hoặc nhấn mạnh: hình ảnh được ghi lại bằng máu của người chứng kiến! Như vậy, “người” ở đây là Albert.

– Tôi rất tiếc, nhưng chuyện này không hợp lý. – Sarah Rosa lên tiếng với một sự bình tĩnh và quả quyết đầy bất ngờ. – Chúng ta đã xem tất cả những đoạn băng trong hệ thống máy quay an ninh của Capo Alto, và ngoài Feldher, không còn ai khác vào trong căn nhà đó.

Goran quay sang phía Sarah, chỉ một ngón tay vào cô:

– Chính xác! Bởi vì mỗi lần làm như thế, gã đều vô hiệu hóa chúng bằng cách gây quá tải. Nếu cô nghĩ đến điều này, cô cũng có thể thu được cùng một kết quả trên tường với một hình nhân bằng bìa, hoặc một con ma nơ canh. Vậy thì, chuyện này cho chúng ta biết điều gì?

– Gã rất giỏi trong việc tung hỏa mù. – Mila nói.

– Rất chính xác! Ngay từ đầu, con người này đã thách chúng ta hiểu được những thủ đoạn của gã. Lấy ví dụ như vụ bắt cóc Sabine trên vòng quay ngựa gỗ… Thần sầu! Mấy chục con người, mấy chục cặp mắt trong hội chợ hôm ấy, nhưng tuyệt không một ai nhìn thấy gì!

Xem vẻ Goran thực sự hứng thú trước sự tinh ranh của kẻ mà ông đang phải đối đầu. Không phải vì ông không thấy thương các nạn nhân. Đó không phải là minh chứng cho sự thiếu nhân đạo của ông. Albert là đối tượng nghiên cứu của ông. Thấu hiểu những uẩn khúc trong đầu gã là một thử thách đầy hấp dẫn.

– Tuy vậy, cá nhân tôi tin rằng, Albert đã thực sự có mặt trong căn phòng nơi Feldher sát hại các nạn nhân của hắn. Tôi loại trừ khả năng dùng hình nhân, hoặc thứ gì đó tương tự. Các bạn biết tại sao không? – Ông nói, thoáng thích thú trước nét mặt băn khoăn của các thành viên trong đội điều tra. – Trong cách sắp đặt của các vết máu trên tường quanh hình người, Krepp đã nhận thấy thứ mà anh ta gọi là “các biến đổi đều đặn”. Điều này đồng nghĩa rằng, dù cho vật nằm giữa nguồn bắn máu và bức tường là gì, nó cũng không hề bất động, mà có di chuyển!

Sarah Rosa há hốc mồm. Không còn gì để nói nữa.

– Ta hãy suy nghĩ một chút. – Stern đề nghị. – Nếu Albert đã biết Ronald Dermis khi hắn còn là một đứa trẻ, thì hồi đó gã có thể ở độ tuổi nào? Hai mươi? Ba mươi? Như vậy, bây giờ gã đã năm mươi hoặc sáu mươi tuổi.

– Chính xác. – Boris nói. – Và theo như kích thước của hình người trên tường, tôi có thể nói gã cao khoảng một mét bảy mươi.

– Một mét sáu chín. – Rosa chỉnh lại. Cô đã kiểm tra thông tin này.

– Chúng ta đã có mô tả một phần của kẻ mà chúng ta tìm kiếm, đó là một bước tiến.

Goran lại lên tiếng:

– Bermann, Ronald, Feldher giống như những con sói. Và lũ sói thường đi săn theo bầy đàn. Mỗi đàn có một con thủ lĩnh. Đây là điều mà Albert muốn nói với chúng ta: gã chính là con sói đầu đàn. Mỗi tên đã gặp gã ở một thời điểm trong đời, gặp riêng, hoặc cùng nhau. Ronald và Feldher thì biết nhau, cả hai trưởng thành trong cùng cô nhi viện. Nhưng ta có thể phỏng đoán chúng không biết ai là Alexander Bermann… Yếu tố chung duy nhất là gã, Albert. Đó là lý do tại sao gã để lại dấu ấn của mình tại mọi hiện trường án mạng.

– Vậy điều gì sẽ xảy ra đây? – Sarah Rosa hỏi.

– Các bạn có thể tự mình nghĩ ra… Hai. Vẫn còn thiếu hai thi thể bé gái, và do đó, ta còn thiếu hai bộ phận của đàn sói.

– Còn cả bé gái số sáu nữa. – Mila nhắc.

– Phải… Nhưng cô bé đó thì Albert sẽ giữ cho riêng mình.

Từ nửa giờ trước, cô đứng trên vỉa hè phía trước, không đủ dũng khí để bấm chuông. Cô cố tìm những từ ngữ thích hợp để biện minh cho sự xuất hiện của mình. Cô lạ lẫm với mối quan hệ giữa các cá nhân đến độ những tiếp cận đơn giản nhất cũng trở nên không khả thi. Cô thấy lạnh, nhưng vẫn không thể tự quyết định được.

Đến chiếc xe màu xanh kế tiếp, mình sẽ đi, mình hứa đấy.

Đã quá chín giờ, xe cộ gần như không còn lưu thông. Các ô cửa sổ của căn hộ giáo sư Goran trên tầng ba đang sáng đèn. Con đường ướt sũng vì tuyết tan là một bản hòa âm của những tiếng nhỏ giọt tong tong, tiếng máng xối kêu óc ách và tiếng cống nước ùng ục.

Thôi được, mình đi.

Mila ra khỏi bóng tối cho đến lúc ấy vẫn bảo vệ cô khỏi những cái nhìn của những người hàng xóm tọc mạch, để bước nhanh đến cửa ra vào. Tòa nhà cổ kính với những khuôn cửa sổ to lớn, gờ tường rộng và mái nhà đầy ống khói chắc hẳn từng là một công xưởng vào thời giữa thế kỷ XX. Trong khu này có rất nhiều tòa nhà như vậy. Cả khu phố có lẽ đã được cải tạo lại nhờ một kiến trúc sư nào đó, người đã biến các công xưởng thành nhà ở.

Cô ấn điện thoại nội bộ và chờ.

Cô đợi gần một phút thì nghe thấy giọng nói của Goran vang lên khọt khẹt.

– Ai đó?

– Mila ạ. Em xin lỗi, nhưng em cần nói chuyện với ông mà lại không muốn nói qua điện thoại. Lúc nãy, ở trong studio, ông quá bận, nên em đã nghĩ là…

– Em lên đi. Tầng ba.

Một tiếng tạch vang lên và cánh cửa mở ra.

Thang chuyển hàng được sử dụng làm thang máy. Để làm nó chạy, cần phải dùng tay đóng hai cánh cửa trượt và kéo một cái cần. Mila được nâng lên từ từ đến tầng ba. Trên chiếu nghỉ, cánh cửa duy nhất đang hé mở sẵn chờ cô.

– Mời vào. – Giọng nói của Goran vọng ra từ bên trong căn hộ.

Mila đi theo tiếng nói vào trong một căn phòng rộng rãi, ăn thông với nhiều phòng khác. Sàn nhà lát gỗ thô. Những hệ thống sưởi bằng gang bọc quanh các cột trụ. Một lò sưởi lớn đang cháy lép bép làm cho không gian có màu hổ phách. Mila khép cửa căn hộ sau lưng, tự hỏi Goran đang ở đâu. Cô nhìn thấy ông qua cửa bếp.

– Chờ chút, tôi ra ngay.

– Ông cứ từ từ.

Mila nhìn xung quanh. Căn hộ rất ngăn nắp, tương phản với bề ngoài luộm thuộm thường thấy của nhà tội phạm học. Trong nhà không có một hạt bụi, mọi thứ dường như nói lên sự ân cần mà ông đã bỏ ra để mang lại một chút hòa hợp cho cuộc sống của con trai mình.

Một lát sau, nhà tội phạm học xuất hiện với một cốc nước trong tay.

– Em xin lỗi, em đến đường đột quá.

– Không có gì, tôi luôn ngủ muộn. Tôi đang cho Tommy ngủ. – Ông nói và chỉ vào cốc nước đang cầm. – Việc này không mất nhiều thời gian đâu. Em ngồi đi. Hay em tự làm cho mình chút gì uống nhé. Quầy bar phía đằng kia.

Mila gật đầu và nhìn ông tiến đến một trong các phòng ngủ. Để đỡ ngượng ngập, cô đi làm một cốc vodka đá. Đứng cạnh lò sưởi, cô nhìn cánh cửa phòng ngủ con trai ông mở hé, và thấy Goran đang ngồi trên giường thằng bé, vừa trò chuyện vừa vuốt ve nó. Trong căn phòng mờ tối chỉ được chiếu sáng bằng một ngọn đèn ngủ hình chú hề, Tommy chỉ là một hình hài nhỏ bé dưới lớp chăn được tạo nên bởi những cái vuốt ve của bố.

Trong tình huống này, Goran trông rất khác biệt.

Cô chợt nhớ lần đầu tiên đến văn phòng của bố hồi còn nhỏ. Ở đó, người đàn ông mặc comlê thắt càvạt mà cô thấy rời khỏi nhà mỗi sáng trở thành một con người cứng rắn và nghiêm nghị, khác hẳn ông bố dịu dàng của cô. Mila còn nhớ cô đã rất sốc.

Còn đối với Goran thì ngược lại. Trông thấy ông trong vai trò làm bố khiến cô cảm nhận được một tình cảm trìu mến lớn lao.

Sự lưỡng phân đó rất xa lạ đối với Mila. Cô chỉ có một phiên bản duy nhất. Không hề có một sự đứt quãng nào trong cuộc đời của cô. Cô chưa bao giờ thôi là một nữ cảnh sát đi tìm kiếm những người mất tích. Cô tìm họ suốt: trong thời gian rảnh rỗi, khi cô được nghỉ phép, lúc đi mua sắm. Việc dò xét những gương mặt không quen đã trở thành một thói quen của cô.

Các trẻ em vị thành niên mất tích cũng có một câu chuyện như những người khác. Nhưng đến một lúc nào đó, câu chuyện ấy bị gián đoạn. Mila dò theo những bước chân nhỏ bé mất hút vào trong tăm tối của chúng. Cô sẽ không bao giờ quên những khuôn mặt đó. Nhiều năm trời có thể trôi qua, nhưng cô sẽ vẫn có khả năng nhận các em.

Bởi vì những đứa trẻ đang ở chung quanh ta, cô nghĩ. Đôi khi, chỉ cần tìm chúng nơi những người lớn mà chúng đã trở thành.

Goran đang kể một câu chuyện cho con trai. Mila không muốn cái nhìn của mình làm hỏng cảnh tượng rất đỗi riêng tư đó. Nó không phải là trò diễn để cô xem. Cô quay đi, nhưng mắt lại bắt gặp nụ cười của Tommy trên một tấm ảnh. Nếu như cô từng gặp thằng bé, chắc nó đã khiến cô thấy khó xử và cô sẽ đến muộn hơn trong hy vọng nó đã ngủ say. Tommy là một phần cuộc sống của Goran mà cô chưa được biết.

Một lát sau, nhà tội phạm học đến chỗ Mila, mỉm cười tuyên bố:

– Nó ngủ rồi.

– Em không muốn làm phiền ông. Nhưng chuyện này quan trọng lắm.

– Em đã xin lỗi rồi mà. Nào, em hãy nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra…

Ông ngồi xuống một chiếc trường kỷ rồi bảo cô ngồi cạnh mình. Ngọn lửa lò sưởi tạo nên những hình bóng nhảy múa trên tường.

– Chuyện đó lại diễn ra: người ta theo dõi em.

Nhà tội phạm học nhíu mày.

– Em chắc chứ?

– Lần trước thì không, lần này thì có.

Cô thuật lại sự việc cho ông nghe không sót chi tiết nào. Chiếc xe tắt đèn, ánh trăng phản chiếu trên nóc xe, việc kẻ bám đuôi cố quay đầu bỏ đi sau khi bị phát hiện.

– Tại sao ai đó lại có lý do để theo dõi em?

Ông đã đặt câu hỏi đó với cô lúc ở nhà hàng, khi cô kể lại cảm giác bị theo dõi ở nhà nghỉ. Lần này câu hỏi được ông dành cho chính mình thì đúng hơn.

– Tôi không tài nào tìm được một lý do xác đáng. – Ông kết luận sau một thoáng suy nghĩ.

– Em nghĩ hoàn toàn không cần thiết phải cắt cử một người bảo vệ em để bắt quả tang kẻ theo dõi.

– Giờ thì chắc hắn biết em đã để ý hắn, nên hắn sẽ không làm chuyện đó nữa đâu.

Mila gật đầu.

– Nhưng em đến đây không phải chỉ vì chuyện đó.

Goran lại nhìn vào Mila:

– Em đã phát hiện được chuyện gì à?

– Đúng hơn thì em đã hiểu ra một chuyện. Một trong những trò ảo thuật của Albert.

– Cái nào?

– Cách gã đã làm để bắt cóc cô bé gái trên vòng quay ngựa gỗ mà không ai hay biết.

Đôi mắt Goran sáng lên:

– Nói tiếp đi, tôi đang muốn nghe đây…

– Chúng ta luôn cho rằng Albert là kẻ bắt cóc. Tức là một người đàn ông. Nhưng nếu như ngược lại, đó là một phụ nữ?

– Tại sao em nghĩ như thế?

– Thật ra, chính mẹ Sabine đã khiến em tin vào giả thiết này. Dù em không hỏi, bà ta đã nói rằng nếu như có một người đàn ông lạ mặt trên vòng quay ngựa gỗ, tức không phải một ông bố, thì bà ta đã nhận ra ngay. Bà ta cũng nói thêm là một người mẹ luôn có giác quan thứ sáu trước những chuyện như thế. Em tin bà ta.

– Tại sao?

– Bởi vì cảnh sát đã xem hàng trăm bức ảnh được chụp tối hôm đó từ những tay máy nghiệp dư, nhưng không ai thấy một người đàn ông nào tình nghi. Từ đó chúng ta đã suy ra rằng gã Albert có một diện mạo rất tầm thường… Còn em thì cho rằng một phụ nữ có thể dễ dàng hơn trong việc bắt cóc cô bé.

– Vậy là theo em, gã có một kẻ đồng lõa… – Ông có vẻ thích giả thiết của Mila. – Nhưng chúng ta không có bất kỳ manh mối nào để chứng minh điều đó.

– Em biết. Đó là vấn đề lớn.

Goran đứng dậy và bắt đầu rảo bước trong phòng. Ông vuốt râu suy nghĩ.

– Đây không phải là lần đầu. Điều này từng xảy ra trong quá khứ. Chẳng hạn như vụ Fred và Rosemary West ở Gloucester.

Nhà tội phạm học kể nhanh vụ một cặp đôi sát thủ hàng loạt. Đối tượng nam là thợ nề, đối tượng nữ nội trợ. Mười đứa con. Cùng nhau, chúng đã dụ dỗ và giết hại các bé gái vô tội, sau khi ép các nạn nhân tham gia vào các trò tình dục bệnh hoạn. Chúng đã chôn xác các cô bé trong sân sau ngôi nhà số 25 phố Cromwell, Gloucester. Người ta thậm chí đã tìm thấy xác đứa con gái ruột mười sáu tuổi của cặp tội phạm, con bé có thể đã táo gan chống đối chúng. Hai nạn nhân khác đã được tìm thấy ở những nơi có thể liên hệ tới Fred. Mười hai thi thể cả thảy. Nhưng cảnh sát đã phải ngừng đào bới vì sợ cả ngôi nhà nhỏ sẽ sụp đổ.

Theo ví dụ đó, Gavila cho rằng giả thiết của Mila về kẻ đồng lõa của Albert không phải là không có cơ sở.

– Biết đâu người phụ nữ đó đang chăm sóc cho nạn nhân số sáu.

Goran có vẻ rất thích thú, nhưng ông không muốn để sự nhiệt tình cuốn mình đi.

– Em đừng hiểu nhầm tôi nhé. Linh cảm của em rất tuyệt vời, nhưng ta cần phải kiểm chứng cái đã.

– Ông sẽ nói với những người khác chứ?

– Tôi sẽ suy nghĩ. Trong lúc đó, tôi sẽ yêu cầu một người trong nhóm chúng ta xem lại các bức ảnh và đoạn phim được thực hiện tại hội chợ.

– Em có thể phụ trách việc này.

– Đồng ý.

– Còn một việc nữa… Là em tò mò thôi. Em đã thử tự mình tìm câu trả lời nhưng không được.

– Chuyện gì thế?

– Trong quá trình phân hủy, mắt của tử thi có chịu một sự biến đổi, phải không ạ?

– Thường thì mống mắt nhạt đi dần dần…

Goran nhìn Mila đăm đăm. Ông không hiểu cô muốn đi đến đâu.

– Tại sao em lại hỏi chuyện này?

Mila rút từ trong túi ra bức ảnh của Sabine mà mẹ cô bé đã đưa cho cô vào cuối chuyến thăm viếng của cô. Tấm ảnh mà cô đã đặt trên ghế ngồi bên cạnh mình trong suốt chặng lái xe về. Tấm ảnh mà cô đã nhìn rất kỹ sau màn đuổi bắt nghẹt thở, và đã gieo mối nghi ngờ vào lòng cô.

Có điều gì đó không ổn.

Goran cầm lấy tấm ảnh quan sát.

– Thi thể bé gái tìm thấy trong nhà Kobashi có đôi mắt màu xanh. – Mila nhắc ông. – Còn mắt của Sabine lại có màu nâu.

Ngồi trong taxi, Goran không nói một lời suốt chuyến đi. Sau khi cho ông biết khám phá của mình, Mila đã thấy tâm trạng của ông đột ngột thay đổi. Và ông đã nói một điều khiến cô chấn động.

– Có những người ta tưởng đã hiểu cặn kẽ, nhưng thật ra chẳng biết gì về bọn họ… Ông ta đã biến chúng ta thành lũ ngốc.

Lúc đầu, cô tưởng ông muốn nói tới Albert, nhưng không phải.

Ông đã nhanh chóng gọi điện cho các thành viên trong đội điều tra và bà vú nuôi của Tommy. Sau đó, ông nói với cô một câu ngắn gọn:

– Ta đi thôi.

– Còn con trai ông?

– Bà Runa sẽ có mặt sau hai mươi phút nữa, dù sao thì thằng bé cũng đã ngủ.

Họ đã gọi một chiếc taxi.

Trụ sở cảnh sát liên bang vẫn còn sáng đèn vào thời điểm khuya khoắt ấy. Trong tòa nhà, các cảnh sát viên đang nhộn nhịp thay ca. Gần như tất cả đều đang bận rộn với vụ án. Từ nhiều ngày nay, họ đã tiến hành khám xét nhà các nghi phạm hoặc những địa điểm được mách nước qua điện thoại bởi những người dân nhiệt tình muốn giúp đỡ cuộc tìm kiếm bé gái số sáu.

Sau khi thanh toán tiền taxi, Goran tiến đến cửa trụ sở, không buồn đợi Mila đang nhọc nhằn đuổi theo. Tại ban khoa học hành vi, họ thấy Rosa, Boris và Stern đang đứng đợi.

– Có chuyện gì vậy? – Stern hỏi.

– Cần phải làm rõ tình hình. – Goran đáp. – Chúng ta cần phải gặp Roche.

Ông tìm thấy ngài chánh thanh tra giữa cuộc họp của các sếp cảnh sát liên bang. Cuộc họp đã diễn ra nhiều giờ đồng hồ, với chủ đề chính là vụ Albert.

– Chúng ta cần nói chuyện.

Roche đứng lên khỏi ghế:

– Thưa quý vị, tất cả đều đã biết giáo sư Gavila, người đã hợp tác với bộ phận của tôi từ nhiều năm qua…

Goran thì thầm vào tai ông thanh tra:

– Ngay bây giờ.

Nụ cười nhã nhặn vụt tắt trên gương mặt của Roche.

– Mong mọi người thứ lỗi, vừa có tin mới nên tôi phải đi.

Trong khi thu xếp giấy tờ, Roche cảm thấy mọi ánh nhìn đang đổ dồn vào mình. Goran lùi về sau đứng đợi ông, trong khi các thành viên khác chờ ngoài cửa phòng.

– Tôi hy vọng chuyện này thực sự quan trọng. – Ngài chánh thanh tra nói sau khi lẳng tập hồ sơ lên bàn làm việc của mình.

Goran đợi cho tất cả mọi người vào trong phòng xong xuôi rồi mới khép cửa lại và đối mặt với Roche.

– Xác chết tìm thấy trong phòng khách nhà Kobashi không phải là của nạn nhân số ba.

Giọng điệu đanh thép của ông không cho phép người khác phủ nhận. Ngài chánh thanh tra ngồi xuống, hai tay chắp lại trên bàn.

– Ông nói tiếp đi.

– Đó không phải là Sabine. Mà là Melissa.

Mila nhớ đến bé gái số bốn. Cô bé nhiều tuổi nhất trong số các nạn nhân, nhưng cơ thể còn chưa dậy thì có lẽ đã gây ra sự nhầm lẫn. Và cô bé có đôi mắt xanh.

– Nói tiếp đi, tôi đang nghe đây… – Thanh tra Roche lặp lại.

– Điều này có thể nói lên hai việc. Hoặc là Albert đã thay đổi phương thức hành động của gã, bởi vì cho đến lúc này gã vẫn giao cho chúng ta thi thể của các bé gái theo thứ tự bắt cóc. Hoặc là Chang đã nhầm lẫn trong khi phân tích ADN.

– Tôi tin cả hai giả thiết đều có thể xảy ra. – Roche tự tin khẳng định.

– Còn tôi thì ngược lại. Tôi tin là giả thiết đầu gần như không thể xảy ra… Còn về cái thứ hai, tôi thực sự nghĩ ông đã ra lệnh tráo kết quả trước khi đưa nó cho Mila!

Thanh tra Roche tím mặt.

– Nghe này, giáo sư, ông tưởng tôi sẽ ngồi yên cho ông buộc tội đấy à?

– Xác của bé gái thứ ba đã được tìm thấy ở đâu?

– Cái gì? – Ngài chánh thanh tra cố làm ra vẻ ngạc nhiên.

– Rõ ràng là ông đã tìm thấy, nếu không thì Albert đã không trưng ra cái xác thứ tư.

– Cái xác nằm ở nhà Kobashi từ hơn một tuần nay! Chúng ta lẽ ra phải tìm thấy nạn nhân số ba trước, như ông nói. Hoặc đơn giản là, chúng ta đã tìm thấy số bốn trước, rồi sau đó Chang đã nhầm lẫn, tôi thì biết gì?

Nhà tội phạm học nhìn thẳng vào mắt thanh tra Roche.

– Chính đó là lý do khiến ông cho chúng tôi xả trại hai mươi bốn giờ sau vụ việc ở cô nhi viện. Để chúng tôi không quẩn chân ông.

– Goran, tôi đã nghe đủ những cáo buộc nực cười đó rồi đấy! Ông không có gì để chứng minh cho những gì ông vừa nói!

– Đây là vì vụ Wilson Pickett, có phải không?

– Những gì xảy ra hồi đó không dính gì với vụ này, tôi cam đoan với ông.

– Không, thực tế là ông không còn tin tôi nữa. Và có lẽ ông đã không hoàn toàn sai… Nhưng nếu ông nghĩ cuộc điều tra này đang tuột khỏi tay tôi, thì tôi muốn ông nói thẳng với tôi và miễn cho tôi các trò chính trị kia. Cứ nói đi, và chúng tôi sẽ lùi lại, nhận lãnh trách nhiệm của mình mà không làm phiền đến ông.

Thanh tra Roche không đáp ngay. Ông ta chắp hai bàn tay dưới cằm và ngả người tới lui trên ghế bành. Sau đó ông ta mở lời:

– Thành thực mà nói, tôi không hiểu…

– Thôi nào, ông nói cho ông ấy đi. – Stern cắt ngang và nhận lấy ánh mắt phóng lửa của thanh tra.

– Anh cứ ở yên chỗ của anh!

Goran quay lại nhìn Stern, rồi Boris và Rosa. Ông nhận ra tất cả mọi người đều đã biết vụ việc ngoại trừ ông và Mila.

Ra đây là lý do Boris tỏ ra lảng tránh khi mình hỏi anh ta đã làm gì vào ngày xả trại, Mila nghĩ bụng. Cô cũng nhớ giọng điệu có phần đe dọa mà anh chàng đã dùng để nói với thanh tra Roche trước cửa nhà bà Yvonne Gress, khi ông ta từ chối cho anh vào trong nhà trước đội đặc nhiệm. Đó ngầm hiểu là một lời đe dọa tố giác.

– Phải đấy, thanh tra. Ông hãy nói tất cả và chúng ta kết thúc luôn chuyện này. – Sarah Rosa hối thúc, bênh vực cho Stern.

– Ông không thể gạt bỏ ông ấy, như thế là không công bằng. – Boris nói thêm, hất đầu chỉ nhà tội phạm học.

Cả ba thành viên trong nhóm điều tra đều có vẻ hối lỗi vì đã cho Goran ra rìa, và cảm thấy có tội vì đã tuân theo một mệnh lệnh mà họ cho là bất công.

Thanh tra Roche đợi thêm vài giây nữa, rồi lần lượt nhìn Goran và Mila.

– Thôi được rồi… Nhưng nếu để rò rỉ chuyện này, hai người chết với tôi.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.