Kẻ Nhắc Tuồng

Chương 32



Khi đã hoàn hồn trở lại, Nicla tự nguyện hợp tác với một trong những nhân viên phác họa của cảnh sát liên bang để vẽ hình ảnh nhận dạng của người đàn ông mà bà đã thấy cùng với Joseph.

Người lạ mặt mà hắn gọi là “người đàn ông”, kẻ mà họ cho là Albert.

Hàm râu dài và mái tóc bù xù không cho phép bà miêu tả các đường nét của gương mặt một cách chính xác. Bà không biết cung hàm của gã như thế nào, chiếc mũi chỉ là một cái bóng lờ mờ. Hình dạng chính xác của đôi mắt cũng nằm ngoài sự nắm bắt của bà.

Bà chỉ có thể nói một cách chắc chắn rằng chúng có màu xám.

Dẫu vậy kết quả cũng sẽ được phân phát cho tất cả các đơn vị cảnh sát, các bến cảng, sân bay và cửa khẩu. Roche đã nghĩ đến khả năng cung cấp một bản sao cho báo giới, một việc đòi hỏi phải giải thích cách thức họ đã làm để có được hình ảnh nhận dạng. Nếu họ tiết lộ chuyện nhờ đến một bà đồng, các phóng viên sẽ suy ra rằng cảnh sát chẳng có gì trong tay, phải mò mẫm và nhờ đến bà trong tình cảnh tuyệt vọng.

– Đó là một nguy cơ ta phải đối mặt. – Goran nói.

Ngài chánh thanh tra đã quay lại cùng nhóm điều tra ở nhà Rockford. Ông ta không muốn gặp bà tu sĩ, vì ngay từ đầu đã nói thẳng là không muốn dính dáng đến cuộc thử nghiệm: như mọi khi, tất cả trách nhiệm sẽ bị đổ lên đầu Goran. Nhà tội phạm học sẵn lòng chấp nhận điều đó vì ông tin ở linh cảm của Mila.

– Cháu à, bà đã nghĩ ra một chuyện. – Bà Nicla nói với Mila trong chiếc xe cắm trại di động của cảnh sát, trong khi cô quan sát Gavila và ngài chánh thanh tra thảo luận trên bãi cỏ phía trước ngôi nhà.

– Chuyện gì vậy ạ?

– Bà không muốn món tiền thưởng.

– Nhưng nếu đó là người mà bọn cháu đang tìm, thì bà có quyền hưởng số tiền đó.

– Bà không muốn có nó.

– Bà hãy nghĩ đến những gì có thể làm được cho những người mà bà chăm sóc hàng ngày.

– Họ còn cần thứ gì nữa chứ? Họ đã có sự yêu thương, chăm sóc của bọn bà, cháu tin bà đi, khi một sinh vật của Chúa trời đi đến điểm kết thúc của sự tồn tại, sinh vật đó không cần gì thêm đâu.

– Nếu bà nhận khoản tiền đó thì theo cháu nghĩ, một điều tốt đẹp sẽ có thể nảy sinh từ tất cả chuyện này…

– Cái ác chỉ sản sinh ra cái ác. Đó luôn là đặc trưng của nó.

– Có một người đã nói với cháu là cái ác luôn có thể được chứng tỏ. Còn điều thiện thì không bao giờ. Bởi cái ác để lại dấu vết trên những gì nó đi qua. Còn điều thiện, ta chỉ có thể chứng kiến thôi.

Rốt cuộc bà Nicla cũng mỉm cười.

– Vớ vẩn. – Bà nói. – Cháu biết không, thực ra là cái thiện rất chóng qua nên không thể ghi nhận lại được. Và nó không để lại rác rưởi gì sau khi đã đi qua. Cái thiện rất sạch sẽ, cái ác thì dơ bẩn… Nhưng bà có thể chứng tỏ là cái thiện tồn tại, vì bà nhìn thấy nó mỗi ngày. Khi một trong số những con người nghèo khổ của bà gần đất xa trời, bà cố dành nhiều thời gian với họ hết sức có thể. Bà cầm tay người đó, lắng nghe người ta nói chuyện, nếu có thú nhận điều gì không phải thì bà cũng không phán xét. Khi họ hiểu điều sắp xảy ra với mình, nếu họ sống tốt và không làm gì sai trái, hoặc từng làm nhưng đã sửa chữa… thì họ vẫn luôn mỉm cười. Bà không biết tại sao, nhưng nó là như thế, bảo đảm với cháu đấy. Bằng chứng của cái thiện là nụ cười đi cùng họ khi đối diện với cái chết.

Mila yên tâm gật đầu. Cô không muốn cố ép bà Nicla nhận món tiền thưởng. Biết đâu bà nói đúng.

Đã năm giờ chiều, bà tu sĩ khá mệt mỏi, nhưng vẫn còn một việc phải làm.

– Bà có chắc là nhận ra được cái lán bỏ hoang đó không? – Cô hỏi.

– Có, bà biết nó nằm ở đâu.

Họ chỉ cần làm một cuộc kiểm tra đơn giản trước khi quay lại studio là có thể xác nhận thông tin do bà Nicla cung cấp.

Nhưng dù thế cả nhóm vẫn lên đường.

Trong xe, Sarah Rosa làm theo các chỉ dẫn của bà Nicla. Dự báo thời tiết cho biết vẫn còn nhiều trận tuyết rơi mới. Một mặt, trời quang mây và mặt trời đang lặn nhanh chóng. Nhưng mặt khác, các đám mây đang tích tụ ở chân trời và nhiều ánh chớp đầu tiên đang đến gần.

Họ đang ở ngay chính giữa nó.

– Ta phải nhanh chóng hơn. – Stern giục. Trời sắp tối rồi.

Khi đi đến lối rẽ, họ rời con đường chính. Những viên sỏi kêu lạo xạo dưới bánh xe. Sau chừng ấy năm tháng, cái lán gỗ vẫn còn nằm đó. Lớp sơn trắng đã bong tróc hoàn toàn và chỉ còn sót lại ở một đôi chỗ. Những miếng ván bị phơi bày dưới mưa nắng đã thối mục, khiến cho cái lán nom như một chiếc răng sâu.

Họ xuống xe và tiến đến cửa.

– Coi chừng, nó có thể sập đấy. – Boris cảnh báo.

Goran bước lên bậc thềm đầu tiên. Địa điểm rất trùng khớp với các mô tả của bà tu sĩ. Phía bên trong, sàn nhà bị phủ bởi một lớp đất và họ có thể nghe thấy lũ chuột bị đánh động chạy nhốn nháo bên dưới. Gavila nhận ra cái trường kỷ, dù nó chỉ còn là một đống những lò xo han gỉ. Chiếc tủ buýpphê vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Lò sưởi bằng đá đã sụp một phân. Ông lấy từ trong túi ra một chiếc đèn pin nhỏ để xem xét hai căn phòng phía sau. Trong lúc đó, Boris và Stern cũng đã bước vào và đang xem xét căn nhà.

Goran mở cánh cửa đầu tiên.

– Đây là phòng ngủ.

Nhưng chiếc giường đã biến mất. Sự hiện diện của nó được đánh dấu bởi một khu vực nhạt màu hơn trên sàn. Đây là nơi Joseph B. Rockford đã được nhập môn giết chóc. Chúa mới biết ai là thằng bé đã bị kết liễu trong căn phòng này hai mươi năm về trước.

– Cần phải đào quanh chỗ này để tìm kiếm các phần còn sót lại của thi thể. – Gavila nói.

– Tôi sẽ báo cho các thợ đào huyệt và đội của Chang ngay khi chúng ta tìm ra vị trí. – Stern nói.

Trong lúc đó, ở phía bên ngoài của cái lán gỗ, Sarah Rosa bồn chồn rảo bước, hai tay đút trong túi áo cho đỡ lạnh. Bà Nicla và Mila ngồi trong xe quan sát cô ta.

– Cháu không thích chị ta. – Bà nói.

– Nói đúng hơn là chị ta không thích cháu.

– Cháu đã thử tìm hiểu lý do chưa?

Mila nhìn xéo bà tu sĩ.

– Bà định nói đây là lỗi của cháu đấy à?

– Không, bà chỉ muốn nói trước khi buộc tội ai thì phải thật chắc chắn cái đã.

– Chị ta không ưa cháu ngay từ khi cháu mới đến.

Bà Nicla giơ tay đầu hàng.

– Thôi được, cháu đừng có cáu. Khi cháu ra đi thì mọi chuyện đâu lại vào đấy thôi.

Mila lắc đầu. Đôi khi sự tốt bụng của bà Nicla thật đúng là không chịu đựng nổi.

Ở bên trong, Goran bước ra khỏi phòng ngủ và tiến đến cánh cửa đóng còn lại.

Bà tu sĩ đã không đề cập đến căn phòng thứ hai này.

Ông chiếu đèn vào tay nắm rồi mở cửa.

Nó rộng đúng bằng căn phòng bên cạnh, và trống rỗng. Hơi ẩm đã tấn công các bức tường, một lớp mốc đã xuất hiện ở trong các góc phòng. Goran quét đèn pin quan sát. Khi lia đèn qua một trong các vách tường, ông nhận thấy có thứ gì đó phản chiếu lại ánh sáng.

Ông dừng đèn pin tại điểm đó và trông thấy năm ô sáng, mỗi cái rộng chừng một tấc. Ông bước lại gần và sững người. Được găm trên tường là các tấm ảnh.

Debby. Anneke. Sabine. Melissa. Caroline.

Trong các bức ảnh, các cô bé vẫn còn sống. Albert đã đưa bọn trẻ đến đây trước khi giết chúng, và gã đã chụp ảnh chúng trong căn phòng này, ngay trước bức tường. Đầu tóc các em bù xù, quần áo nhàu nát. Một ánh đèn flash lạnh lùng đã gây bất ngờ cho những đôi mắt đỏ hoe vì khóc. Khuôn mặt chúng đầy sợ hãi.

Chúng đang cười và vẫy tay chào.

Gã đã bắt bọn trẻ làm động tác kỳ cục đó trước ống kính máy ảnh. Niềm vui bị ép buộc bởi nỗi sợ hãi nom thật kinh khủng.

Đôi môi của Debby méo xệch bởi một sự hoan hỉ giả tạo. Có cảm tưởng như nó sắp sửa òa khóc bất cứ lúc nào.

Anneke giơ một tay lên, trong khi tay còn lại buông xuôi theo thân mình trong một tư thế nhẫn nhục và quy phục.

Sabine được chụp đúng vào khoảnh khắc cô bé đang nhìn quanh, cố hiểu một điều mà trái tim non trẻ của con bé không thể nắm bắt được.

Melissa thì đang căng thẳng và chống đối. Nhưng rõ ràng là con bé cũng sẽ nhanh chóng bị khuất phục.

Caroline đứng bất động, đôi mắt mở to dù đang cười. Một nụ cười hoài nghi.

Sau khi đã xem lại hết các tấm ảnh, Goran mới gọi những người khác.

Thật phi lý. Không thể hiểu nổi. Tàn nhẫn một cách không cần thiết.

Không thể nhìn nhận sự việc theo cách khác được. Không ai dám phá vỡ sự yên lặng trong suốt chuyến đi trở về studio.

Đêm nay sẽ thật dài. Không ai hy vọng sẽ ngủ được sau một ngày như thế. Mila đã không ngủ suốt bốn mươi tám giờ qua, quá nhiều sự việc đã liên tiếp diễn ra trong những giờ phút ấy.

Vụ phát hiện ra hình dáng của Albert trên tường căn biệt thự của bà Yvonne Gress. Cuộc nói chuyện của cô với Goran ở nhà ông tối qua, khi cô báo cho ông biết mình đã bị theo dõi, cũng như giả thiết của cô về việc thủ phạm có một kẻ đồng lõa. Tiếp đến là thắc mắc về màu mắt của Sabine, dẫn đến việc phát hiện ra sự lừa dối của thanh tra Roche. Chuyến viếng thăm dinh thự gia đình Rockford. Hố chôn tập thể. Lara Rockford. Sự can thiệp của bà Nicla Papakidis. Vụ khám phá sâu trong đầu của tên giết người hàng loạt.

Và sau cùng, những tấm ảnh.

Mila đã từng thấy nhiều tấm ảnh trong quá trình công tác. Hình ảnh của những em nhỏ, được chụp ngoài bãi biển, hoặc trong buổi liên hoan văn nghệ cuối năm học. Các bậc phụ huynh hoặc người thân đã cho cô xem chúng khi cô đến gặp họ. Những đứa trẻ mất tích để rồi tái xuất hiện trong những tấm ảnh khác, thường là trong tình trạng trần truồng hoặc mặc quần áo của người lớn. Những tấm ảnh thuộc bộ sưu tập của bọn ấu dâm hoặc trong hồ sơ của nhà xác.

Thế nhưng, trên năm tấm ảnh được tìm thấy tại căn nhà bỏ hoang, còn có một điều gì đó rất khác lạ.

Albert đã biết họ sẽ lần đến tận đấy. Gã đã đợi họ.

Có khi nào gã tiên liệu được việc họ nhờ đến một bà đồng để điều tra tên học trò Joseph của gã hay không?

Gã đã quan sát chúng ta ngay từ đầu. Goran đã bình luận ngắn gọn như thế. Gã luôn đi trước chúng ta một bước.

Mila tin rằng mọi động thái của họ đều đã bị gã đoán trước và vô hiệu hóa. Giờ đây họ buộc phải cảnh giác phía sau lưng. Đó là gánh nặng đang đè lên các đồng đội hiện ngồi cùng xe với cô trên đường quay về trụ sở.

Và vẫn còn hai nạn nhân cần được phát hiện.

Nạn nhân đầu tiên chắc chắn đã chết. Cô bé thứ hai sớm muộn rồi cũng sẽ như thế. Không ai có đủ can đảm thú nhận điều đó, nhưng họ đang tuyệt vọng trong nỗ lực ngăn chặn vụ giết hại bé gái số sáu.

Về phần Caroline, ai có thể biết nỗi kinh hoàng nào sẽ được hé lộ. Biết đâu nó sẽ còn tồi tệ hơn những gì họ đã phát hiện được cho đến thời điểm này? Nếu vậy thì Albert đang chuẩn bị cho một kết thúc rất hoành tráng với nạn nhân số sáu.

Khi Boris dừng xe phía dưới studio thì đã quá mười một giờ tối. Anh để mọi người xuống xe, đóng cửa xe lại, và chợt nhận ra họ đang đợi anh lên cùng.

Họ không muốn để anh một mình.

Sự kinh hoàng mà mọi người đang đối mặt đã thắt chặt hơn tình đoàn kết của họ. Bởi tất cả những gì còn lại với họ là các đồng đội.

Mila cũng nằm trong số đó, giống như Goran. Hai người đã bị gạt ra trong một thời gian, nhưng điều đó đã không kéo dài lâu, và nó chỉ xảy ra do toan tính kiểm soát mọi chuyện của Roche. Kể từ lúc này, khoảng cách đã bị xóa đi và sai lầm đã được tha thứ.

Nhóm điều tra chậm rãi bước lên các bậc thang. Stern vòng tay ôm lấy vai Rosa.

– Tối nay cô về nhà đi. – Anh nói.

Nhưng cô chỉ cương quyết lắc đầu. Mila đã hiểu: Rosa không thể phá vỡ sợi xích liên kết này. Nếu cô ta làm vậy, cả thế giới sẽ sụp đổ, những rào chắn bảo vệ nó sẽ vỡ tung, để mặc cho ma quỷ tràn vào. Họ là thành lũy cuối cùng trong cuộc chiến này, cho dù hiện đang thua họ vẫn không hề có ý định bỏ cuộc.

Họ cùng bước vào căn hộ. Boris nấn ná lại sau để đóng cánh cửa, trước khi quay lại và thấy mọi người chết sững trong hành lang như thể đang bị thôi miên. Anh không hiểu chuyện gì đang xảy ra, cho đến khi nhìn thấy qua vai các đồng đội một cái xác đang nằm trên sàn. Sarah Rosa hét lên. Mila quay vội đi vì cô không thể nhìn được nữa. Stern làm dấu thánh. Còn Gavila thì lặng thinh.

Caroline, nạn nhân số năm.

Lần này, thi thể của cô bé được dành sẵn cho họ.

Nhà tù tối mật, quận xxxx

Trại giam số 45

Báo cáo số 2 của giám đốc, Alphonse Bérenger

Ngày 16 tháng 12 năm hiện hành

Kính gửi: Phó biện lý Matthew Sedris

Văn phòng Chánh biện lý J.B. Marin

Tiêu đề: Kết quả điều tra – Mật

Thưa ông Sedris,

Tôi xin thông báo với ông rằng việc khám xét buồng biệt giam của phạm nhân số hiệu RK-357/9 đã được thực hiện một cách bất ngờ tối hôm qua.

Các quản giáo đã đột ngột ập vào phòng giam để thu thập các vật chất hữu cơ bị “rơi rớt ngẫu nhiên” hoặc “tự đối tượng bỏ lại”, nhằm mục đích xác định dấu vết di truyền của hắn, theo thư khuyến nghị từ văn phòng ông.

Người của tôi đã chứng kiến một buồng giam “sạch bóng”, đến mức có cảm giác như tù nhân RK-357/9 đã đón lõng chúng tôi. Tôi cho rằng hắn ta luôn ở trong trạng thái báo động thường trực và đã trù tính sẵn mọi động thái của chúng tôi.

Tôi e rằng, nếu không có sai sót nào của đối tượng hoặc một thay đổi tình hình bất ngờ, sẽ rất khó để cuộc điều tra này có thể thu được kết quả.

Có lẽ chúng ta chỉ còn một khả năng duy nhất để phá vỡ bí mật. Chúng tôi nhận thấy nghi phạm RK-357/9 thỉnh thoảng nói chuyện một mình, chắc chắn là do ảnh hưởng của việc bị biệt giam. Có vẻ hắn chỉ lẩm bẩm linh tinh, nhưng dù sao, theo chúng tôi, và dưới sự chấp thuận của ông, nên chăng ta giấu một chiếc micro trong phòng giam để thu âm lời nói của hắn.

Lẽ đương nhiên, chúng tôi sẽ không từ bỏ việc thực hiện lại những cuộc kiểm tra đột xuất nhằm thu được mẫu ADN của đối tượng này.

Còn một ghi nhận cuối cùng tôi phải báo với ông: đối tượng luôn bình thản và dễ tính. Hắn không bao giờ phàn nàn, và cũng không tỏ ra khó chịu trước những mưu toan khiến hắn phạm sai lầm của chúng tôi.

Thời gian không còn nhiều. Sau 86 ngày nữa, ta sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc trả lại tự do cho đối tượng.

Xin trân trọng kính chào.

Giám đốc

Alphonse Bérenger


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.