Họ sẽ đưa thi thể cô bé về nhà em.
Với lời hứa thầm như vậy, nhóm điều tra đã đem xác nạn nhân về.
Họ sẽ đòi lại công lý cho em.
Sau khi Bermann tự sát, lời cam kết của họ trở nên khó thực hiện hơn, nhưng họ vẫn sẽ cố gắng.
Vậy nên cái xác nằm ở đây, trong Viện pháp y.
Bác sĩ Chang chỉnh lại chiếc micro treo trên trần để cho nó nằm vuông góc với bàn phẫu thuật. Sau đó anh bật máy quay phim.
Trước tiên, anh dùng một con dao mổ rạch nhanh một đường rất thẳng trên túi ni lông. Anh đặt con dao xuống và khéo léo cầm lấy hai mép của đường rạch.
Nguồn sáng duy nhất trong căn phòng mờ tối phát ra từ chiếc đèn nằm bên trên bàn mổ. Chung quanh đó là bóng tối đen ngòm. Đứng chông chênh bên bờ hố đen ấy là Goran và Mila. Không có thành viên nào khác của nhóm điều tra cảm thấy cần phải tham gia vào nghi lễ này.
Bác sĩ pháp y cùng với hai người khách đều vận trang phục tiệt trùng, đeo găng tay và khẩu trang để không làm nhiễm các chứng cứ.
Dùng dung dịch nước muối sinh lý, Chang chầm chậm tách hai mép túi và gỡ lớp ni lông dính chặt trên thi thể. Từng chút, từng chút một, với sự kiên nhẫn cao độ.
Mila thấy hiện ra dần dần một chiếc váy nhung kẻ màu xanh lá, chiếc áo sơmi trắng và áo chẽn màu xám. Sau đó là lớp vải flannel của chiếc áo khoác.
Chang lần từ từ đến vùng cánh tay bị mất. Chiếc áo khoác tại chỗ đó không hề bị vấy máu, vì đơn giản là ống tay áo đã bị cắt bỏ kể từ phần vai trái, để lòi ra một đoạn tay cụt.
– Hắn không giết nạn nhân khi cô bé mặc bộ trang phục này. Hắn mặc đồ lại cho cái xác sau đó. – Bác sĩ pháp y Chang nói.
Từ “sau đó” vang vọng khắp căn phòng, trong cái hốc tối om vây quanh họ, tựa như viên sỏi chạm vào thành một cái giếng không đáy.
Chang gỡ cánh tay phải ra. Ở cổ tay nạn nhân có một chiếc xuyến, trên đó có mặt trang trí hình chiếc chìa khóa.
Anh dừng lại một lát nơi cổ nạn nhân để rút khăn tay ra lau trán. Lúc đó Mila mới nhận ra Chang đang toát mồ hôi. Anh đã đến phần nhạy cảm nhất. Sợ nhất là khi gỡ cái túi, lớp thượng bì cũng bong ra theo.
Mila từng tham gia vào việc khám nghiệm tử thi. Thường thì các bác sĩ pháp y không phải ngần ngại nhiều đến thế đối với tử thi mà họ phải khám nghiệm. Họ cứ thế cắt xẻo rồi khâu lại. Nhưng bác sĩ Chang muốn bố mẹ của nạn nhân có thể nhìn con gái mình lần cuối trong một tình trạng tốt nhất có thể. Mila bỗng cảm thấy nể trọng anh vô cùng.
Cuối cùng, sau nhiều phút dài vô tận, Chang đã gỡ bỏ hoàn toàn lớp túi ni lông đen khỏi khuôn mặt của nạn nhân. Mila nhận ra cô bé ngay lập tức.
Debby Gordon. Mười hai tuổi. Nạn nhân mất tích đầu tiên.
Đôi mắt cô bé mở to. Cái miệng há hốc như thể cố gắng nói gì đó trong tuyệt vọng.
Cô bé cặp một chiếc kẹp mái có đính một bông hoa huệ tây. Gã đã chải tóc cho cô bé. Quái đản! Gã thấy thoải mái khi tỏ lòng trắc ẩn đối với một cái xác hơn là đối với một cô bé còn sống! Nhưng nghĩ lại Mila nhận ra gã chăm chút cho cô bé vì một lý do hoàn toàn khác.
Gã đã chải chuốt cho cô bé vì chúng ta!
Suy nghĩ này khiến cô nổi điên. Nhưng ngay lập tức cô nhận ra cảm xúc này không phải của mình. Nó thuộc về người khác. Chẳng bao lâu nữa cô sẽ phải ra ngoài, quên đi bóng tối sâu thẳm và nói với hai vị phụ huynh đang tan nát cõi lòng rằng cuộc sống của họ đã thực sự kết thúc.
Bác sĩ Chang và giáo sư Goran đưa mắt nhìn nhau. Đã đến lúc xác định xem họ đang phải đối diện với loại sát nhân nào, mối quan tâm của hắn đối với cô bé này chỉ là chung chung hay có đích nhắm cụ thể. Nói khác đi, cần kiểm tra xem cô bé có bị xâm hại tình dục hay không.
Tất cả mọi người trong phòng đều có chung cảm giác bị giằng xé giữa mong muốn rằng nạn nhân đã không phải chịu thêm thứ nhục hình đó và hy vọng điều ngược lại, vì trong trường hợp này, sẽ có thêm khả năng thủ phạm để lại những dấu vết sinh học cho phép nhận dạng hắn.
Có một quy trình cụ thể để khám nghiệm những vụ xâm hại tình dục. Bác sĩ Chang chẳng có lý do gì để làm khác đi. Quy trình này bắt đầu bằng thẩm vấn để làm rõ tình huống cũng như phương thức tấn công. Nhưng trong thực tế, do không thể có được thông tin từ nạn nhân, anh không có cách nào tái hiện lại được sự việc.
Bước tiếp theo là giám định khách quan. Để biết liệu nạn nhân có phản đối hoặc chống cự hành vi giao cấu hay không, cần phải khám tổng quát kèm theo một hồ sơ ảnh chụp, đi từ hình ảnh toàn diện cho đến chi tiết từng tổn thương bên ngoài.
Thường thì người ta bắt đầu với việc ghi nhận và xếp loại trang phục, sau đó tìm kiếm những vết tích đáng ngờ trên lớp trang phục này như sợi vải, lông tóc, lá cây. Tiếp theo là việc nạo móng nạn nhân bằng một dụng cụ nom như cây tăm xỉa răng, nhằm thu thập các mảnh da của thủ phạm – trong trường hợp nạn nhân chống cự – hoặc đất cát, các loại sợi bất kỳ cho phép tiết lộ nơi gây án.
Lần này các kết quả đều là âm tính. Ngoài một cánh tay bị cắt, tình trạng của tử thi là hoàn hảo, trang phục cũng sạch sẽ.
Như thể ai đó đã kỳ công tắm gội cho nạn nhân trước khi nhét tử thi vào túi.
Bước thứ ba là bước có tính xâm lấn nhất. Đó là việc khám phụ khoa.
Bác sĩ Chang cầm một dụng cụ soi cổ tử cung và bắt đầu kiểm tra khu vực giữa hai đùi, với hy vọng tìm thấy các vết máu, tinh dịch hoặc các dịch tiết khác. Sau đó anh lấy từ khay kim loại bộ dụng cụ khám âm đ*o, gồm một tăm bông cho da và một tăm bông khác cho niêm mạc. Sau khi lấy mẫu, anh chuẩn bị hai lam kính, cố định mẫu thứ nhất bằng dung dịch Citofix[1], còn mẫu thứ hai thì để khô tự nhiên.
Mila biết thử nghiệm đó nhằm để xác định dấu vết di truyền của hung thủ.
Bước cuối cùng là bước bạo liệt nhất. Bác sĩ Chang ngả cái bàn thép ra phía sau, gác đôi chân cô bé lên hai giá đỡ, rồi ngồi xuống một chiếc ghế đẩu, và dùng một cái kính lúp có gắn đèn cực tím để kiểm tra các thương tổn bên trong nếu có.
Sau vài phút, anh ngẩng đầu lên nhìn Goran và Mila, lạnh lùng buông một câu:
– Thủ phạm đã không đụng đến cô bé.
Mila gật đầu, và trước khi rời khỏi phòng, cô cúi xuống thi thể của Debby để tháo chiếc xuyến đeo tay có mặt trang trí hình chiếc chìa khóa. Món đồ ấy, cùng với thông tin rằng cô bé không bị xâm hại, là tất cả những gì mà ông bà Gordon có thể mang đi.
Sau khi chào tạm biệt bác sĩ Chang và giáo sư Goran, Mila cảm thấy cần phải cởi chiếc áo blu tiệt trùng này ra ngay. Vào lúc này cô thấy mình thật bẩn thỉu. Khi đi qua phòng thay đồ, cô dừng lại trước bồn rửa mặt bằng gốm, mở nước nóng rồi đưa hai tay vào kỳ cọ thật mạnh.
Trong lúc rửa ráy cật lực, cô ngước mắt lên nhìn tấm gương đối diện. Dường như cô thấy phản chiếu trong gương hình ảnh cô bé Debby đang tiến vào phòng thay đồ, trên người mặc chiếc váy xanh lá cây cùng với cái áo khoác màu xanh dương, còn trên đầu là cái kẹp tóc. Tựa người vào cánh tay còn lại, em ngồi xuống băng ghế kê sát tường. Rồi Debby nhìn Mila, đong đưa hai chân, miệng há ra rồi ngậm lại, như thể tìm cách nói chuyện với cô. Nhưng không có từ ngữ nào vang lên. Mila rất muốn hỏi ai là chị em kết nghĩa của em. Nạn nhân mà mọi người chỉ biết gọi là cô bé số sáu.
Rồi Mila choàng tỉnh.
Nước đang tuôn ra từ vòi. Hơi nóng bốc lên nghi ngút, làm mờ đi phần lớn diện tích của tấm gương.
Lúc ấy Mila mới cảm thấy đau.
Cô đưa mắt nhìn xuống và vội vàng rụt tay ra khỏi dòng nước nóng bỏng. Lớp da trên mu bàn tay của cô đỏ ửng và ngón tay cô bắt đầu xuất hiện vài vết phồng rộp. Mila quấn tay vào một chiếc khăn bông, sau đó đi đến tủ thuốc tìm bông băng cá nhân.
Không ai được biết về chuyện vừa xảy ra.
Khi cô mở mắt, điều đầu tiên cô nhớ đến là vết bỏng ở hai bàn tay. Cô ngồi phắt dậy, đột ngột kết nối trở lại với hiện thực trong căn phòng ngủ chung quanh mình. Cái tủ áo với tấm gương bị rạn ở phía trước mặt, tủ commốt bên trái, ô cửa sổ đã hạ các lá trập nhưng vẫn để lọt qua vài vệt sáng xanh nhạt. Mila đã ngủ thiếp đi mà không buồn thay quần áo. Lớp vải phủ giường và chăn gối của cái nhà nghỉ ven đường này đầy các vết bẩn loang lổ.
Sao cô lại tỉnh dậy? Có lẽ ai đó đã gõ cửa. Hay cũng có thể cô chỉ đang mơ.
Tiếng gõ cửa lại vang lên. Cô đứng dậy, tiến đến cửa, nhưng chỉ mở hé nó ra.
– Ai đó? – Cô hỏi cũng bằng thừa vì đã nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của Boris.
– Tôi đến đón cô. Sau một tiếng nữa, chúng ta sẽ tiến hành khám xét nhà của Bermann. Mọi người sẽ đợi chúng ta ở đó… Mà này, tôi đã mua cho cô bữa sáng đây.
Anh lắc lắc trước mũi cô cái túi giấy, bên trong chắc là cà phê và bánh sừng bò.
Mila nhanh chóng nhìn lại mình. Trông cô thật tơi tả, nhưng thế lại hóa hay: cô sẽ không thể khiến anh chàng đồng nghiệp nổi hứng. Cô mời anh vào phòng.
Boris bước vài bước vào trong phòng và lúng túng nhìn quanh trong khi Mila tiến lại gần một cái bồn rửa đặt trong một góc để rửa mặt, nhưng trước hết là để giấu đôi tay băng bó.
– Nó còn tệ hơn là tôi nhớ. – Boris vừa hít không khí vừa nói. – Vẫn cái mùi này.
– Tôi nghĩ đó là mùi thuốc xua đuổi côn trùng.
– Hồi tôi đến nhập đội, tôi đã phải ở đây cả tháng trời trước khi tìm được một căn hộ… Cô có biết là chìa khóa ở đây mở phòng nào cũng được không? Khách trọ thường xuyên bỏ đi mà không trả tiền, nên người chủ đâm chán, chẳng buồn thay ổ khóa nữa. Tốt hơn cô nên lấy cái tủ commốt chặn cửa vào ban đêm.
Mila quan sát mình trong tấm gương phía trên chậu rửa.
– Cám ơn về lời khuyên.
– Tôi nói nghiêm túc đấy. Nếu cô cần tìm một nơi khả dĩ hơn để ở, tôi có thể giúp.
Mila nhìn Boris với ánh mắt thăm dò.
– Không phải anh đang mời tôi đến ở nhà anh đấy chứ?
Boris luống cuống, vội vàng giải thích:
– Không, ý tôi không phải thế. Chỉ là tôi có thể hỏi thăm hộ cô xem có nữ cảnh sát nào muốn chia sẻ căn hộ của mình không, thế thôi.
– Hy vọng tôi không phải ở đây lâu đến mức ấy. – Mila vừa bình luận vừa nhún vai.
Sau khi lau mặt xong, cô trỏ tay vào cái túi giấy mà Boris đem đến. Gần như giật phăng cái túi khỏi tay anh chàng cảnh sát, cô ngồi chéo chân trên giường, xem xét những thứ trong túi.
Bánh sừng bò và cà phê. Đúng như cô đoán.
Boris hơi ngạc nhiên trước thái độ của Mila, và càng bất ngờ hơn khi phát hiện tay cô bị băng. Nhưng anh không nói gì.
– Cô có đói không? – Anh rụt rè hỏi.
Mila vừa nhai nhồm nhoàm vừa đáp:
– Đã hai ngày nay tôi chẳng nuốt thứ gì vào bụng. Nếu anh không đến thì tôi không dám chắc mình có đủ sức để bò ra khỏi đây không nữa.
Mila biết cô không nên nói những lời có tính chất vuốt đuôi như thế, nhưng cô không biết phải cám ơn Boris bằng cách nào khác, vả lại cô đói thật. Boris mỉm cười hài lòng.
– Thế, cô thấy ở đây ra sao? – Anh hỏi.
– Tôi thích nghi nhanh lắm. Vậy nên, tôi thấy ổn.
Ngoại trừ cái bà chị Sarah Rosa ghét tôi ra mặt kia.
– Không tồi, vụ suy luận về chị em kết nghĩa của cô ấy mà…
– Chẳng qua tôi gặp may thôi: chỉ cần lục lọi trong đống kinh nghiệm bản thân hồi mới dậy thì. Chắc anh cũng từng làm đủ trò ngớ ngẩn hồi mười hai tuổi, nhỉ?
Nhìn vẻ ngơ ngác trên gương mặt Boris khi anh cố tìm một câu trả lời, Mila bật cười.
– Tôi đùa đấy…
– À… Ừ. – Anh đỏ bừng mặt.
Mila đã ăn xong miếng cuối cùng của cái bánh thứ nhất. Cô mút ngón tay rồi tấn công sang chiếc bánh sừng bò thứ hai. Đáng lẽ nó là của Boris, nhưng trước vẻ ngon miệng của cô, anh chẳng dám lên tiếng.
– Boris này, anh giải thích cho tôi một chuyện được không? Tại sao anh đặt tên cho hắn là Albert?
– Đó là một câu chuyện rất thú vị. – Boris vừa đáp vừa ung dung bước đến ngồi xuống bên cạnh Mila. – Năm năm trước, chúng tôi đã điều tra một vụ khá kỳ lạ. Một tên giết người hàng loạt bắt cóc phụ nữ, cưỡng đoạt họ, siết cổ đến chết rồi để cho chúng tôi phát hiện những thi thể bị cưa mất chân phải.
– Chân phải à?
– Đúng thế. Chẳng ai hiểu ra chuyện gì, vì hung thủ tỏ ra rất tỉ mỉ và sạch sẽ. Hắn không để lại bất kì dấu vết nào, ngoài vụ cưa chân. Và hắn tấn công một cách hoàn toàn ngẫu nhiên… Nói tóm lại, chúng tôi đã phát hiện đến cái xác thứ năm rồi mà vẫn chưa có cách nào bắt thủ phạm dừng lại được. Thế rồi giáo sư Gavila đã nảy ra một ý…
Mila đã ăn xong cái bánh thứ hai và chuyển sang uống cà phê.
– Ý tưởng kiểu nào?
– Ông ấy đã bảo chúng tôi tìm hiểu về tất cả những vụ có liên quan đến chân cẳng, kể cả những vụ đơn giản và tầm thường nhất.
Mila đực mặt ra.
Trong khi chờ nghe kể tiếp, cô đổ ba gói đường vào trong cốc cà phê. Boris nhăn mặt, nhưng anh quyết định nói tiếp:
– Tôi cũng thế, lúc đầu, tôi thấy chuyện đó có vẻ phi lý. Nhưng dẫu vậy chúng tôi cũng bổ đi tìm, và phát hiện ra trước đấy không lâu một tên trộm đã ra tay trong vùng. Hắn đánh cắp giày phụ nữ trưng bày trên kệ đặt bên ngoài các cửa hàng. Tất nhiên người ta chỉ bày mỗi mẫu một chiếc giày. Cô biết đấy, họ làm thế để tránh bị ăn cắp. Thường thì đó là chiếc bên phải, nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng khi thử giày.
Mila khựng lại, ly cà phê lơ lửng trong không khí. Cô thấy ngưỡng mộ trước một trực giác hiếm có của Goran.
– Các anh đã theo dõi các hiệu giày và bắt được tên trộm…
– Albert Finley. Một tay kĩ sư ba mươi tám tuổi, đã có vợ, hai con nhỏ, một căn nhà ở ngoại thành và một chiếc xe cắm trại.
– Một kẻ tầm thường.
– Trong nhà cất xe của gã, chúng tôi đã tìm thấy một cái tủ đông. Ở trong đó là năm cái chân phải của phụ nữ được bọc ni lông cẩn thận. Hung thủ tiêu khiển bằng cách cho chúng mang những chiếc giày mà hắn đã ăn trộm được. Một kiểu tôn sùng đồ vật bệnh hoạn.
– Chân phải, tay trái. Thảo nào có cái tên Albert!
– Chính xác! – Boris nói và đặt một tay lên vai Mila, tỏ vẻ đồng tình.
Mila giãy nảy, vùng ra khỏi giường. Anh chàng cảnh sát có vẻ bị xúc phạm.
– Tôi xin lỗi. – Cô nói.
– Không sao đâu.
Anh ta nói dối. Mila không tin điều đó, nhưng quyết định làm ra vẻ như tin. Cô quay lưng lại phía anh và tiến đến bồn rửa mặt.
– Tôi cần chuẩn bị. Chỉ một phút là đủ, sau đó ta có thể lên đường.
Boris đứng dậy và tiến ra cửa.
– Cô cứ thong thả. Tôi sẽ đợi ở ngoài.
Mila thấy anh ta bước ra khỏi phòng. Rồi cô nhìn vào gương. Chúa ơi, cô tự nhủ, khi nào tất cả những chuyện này mới kết thúc đây? Khi nào con mới lại có thể để cho ai đó chạm vào mình?
Trong suốt quãng đường đến nhà Bermann, hai người không nói với nhau một lời. Lúc trèo vào trong xe, Mila nhận thấy Boris đã bật radio. Cô hiểu ra ngay. Boris tỏ ra bị xúc phạm, và có lẽ từ nay cô đã có thêm một kẻ thù nữa trong đội điều tra. Chưa đầy nửa tiếng sau, hai người đã đến nơi. Chỗ ở của Alexander Bermann là một vila nhỏ, bao xung quanh là bãi cỏ xanh, tọa lạc trong một khu dân cư yên bình.
Con đường đã bị chặn. Phía bên ngoài vòng cách ly là đám đông những kẻ hiếu kỳ, hàng xóm láng giềng và cánh nhà báo. Nhìn thấy bọn họ, Mila nhủ thầm đây mới chỉ là điểm khởi đầu. Khi đến nơi, họ nghe thấy một bản tin truyền thanh đang loan báo việc khám phá ra thi thể của Debby và thậm chí còn tiết lộ cái tên Bermann.
Lý do để cho giới truyền thông phát rồ lên cũng đơn giản. Vụ nghĩa địa cánh tay là một đòn mạnh giáng vào chính quyền, và giờ đây cơn ác mộng cuối cùng đã có một cái tên.
Mila đã chứng kiến điều này xảy ra trước kia. Báo chí hùng hổ lao vào vụ việc và chỉ trong một thời gian ngắn sẽ nghiền nát mọi khía cạnh trong cuộc đời của Bermann không chút câu nệ. Vụ tự tử của gã có giá trị như một lời thú tội. Các phương tiện truyền thông sẽ nhào nặn ra phiên bản riêng của mình. Họ miêu tả gã như một con quái vật, không để sót một điểm mâu thuẫn khả dĩ nào, chỉ dựa vào sức mạnh đoàn kết của họ. Giới truyền thông sẽ cắt gã thành từng mảnh giống như điều người ta tin gã đã làm với các nạn nhân nhỏ tuổi, nhưng lại không gây ra chút mai mỉa nào từ sự tương đồng đó. Bọn họ sẽ rút ra hàng lít máu từ toàn bộ vụ án này để tô vẽ các trang nhất, khiến chúng trở nên hấp dẫn hơn. Không tôn trọng, cũng chẳng vô tư. Và nếu như có ai đó dám tự cho phép mình nhắc nhở chuyện đó, họ sẽ đỡ đòn bằng tấm bùa “quyền được thông tin”, vốn luôn tiện dụng và hợp thời.
Mila bước xuống xe lách qua đám đông nhà báo lẫn dân thường để chui vào trong vòng cô lập. Cô bước nhanh trên lối vào nhà, tiến đến cửa chính, lóa mắt vì ánh đèn flash máy ảnh. Lúc đó, ánh mắt cô và giáo sư Goran giao nhau qua cửa sổ. Bỗng dưng cô cảm thấy tội lỗi vì đã để ông nhìn thấy cô đi cùng Boris. Nhưng rồi cô thấy mình thật ngớ ngẩn với ý nghĩ đó.
Goran hướng sự chú ý của ông trở vào trong nhà. Sau đó vài giây, Mila cũng bước qua ngưỡng cửa.
Stern và Sarah Rosa cùng với các thanh tra khác đã làm việc được một lúc. Họ di chuyển như những con côn trùng cần mẫn. Mọi thứ bị xới tung lên. Các cảnh sát rà soát từng món đồ, mọi vách tường, tất cả những gì có thể ẩn chứa các manh mối có khả năng làm sáng tỏ vụ án.
Một lần nữa, Mila không thể tham gia vào việc lục soát căn nhà. Thêm vào đó, Sarah Rosa cũng đã từng bóng gió rằng cô sẽ chỉ có quyền quan sát. Vậy nên cô nhìn chung quanh mình, tay đút túi để không phải giải thích về lớp bông băng bó.
Những tấm ảnh đã làm cô chú ý.
Có chừng một chục tấm trong phòng, tất cả được đóng trong những cái khung sang trọng bằng gỗ hoặc mạ bạc. Đó là những hình ảnh của Bermann và vợ y trong những giờ phút hạnh phúc. Một cuộc đời mà giờ đây có vẻ xa lắc, gần như không có thật. Mila nhận thấy hai vợ chồng đã đi du lịch khá nhiều. Các tấm ảnh được chụp ở khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, những tấm càng mới và gương mặt họ càng bị thời gian hằn dấu thì biểu hiện hạnh phúc của họ càng phai nhạt. Có một điều gì đó trong những tấm ảnh, Mila đoán chắc như thế, nhưng chưa thể nói được nó là gì. Cô có một cảm giác lạ lùng trong ngôi nhà này. Bây giờ cô đã cảm nhận được rõ rệt hơn.
Sự hiện diện của một người.
Ngoài toán nhân viên điều tra đi qua đi lại, Mila nhận ra một khán giả nữa: người phụ nữ trong ảnh, Veronica Bermann, vợ của nghi phạm. Cô lập tức đoán ra Veronica là một người có tính tình ngạo mạn. Cô ta thể hiện thái độ dửng dưng rõ rệt trong khi những con người xa lạ kia tự tiện lục lọi đồ đạc của mình, xâm phạm tính riêng tư của những món đồ, những vật kỷ niệm bằng sự hiện diện suồng sã của họ. Veronica hoàn toàn tỏ ra hợp tác với ngài chánh thanh tra Roche, và bảo đảm với ông rằng, chồng mình không thể là đối tượng của những cáo buộc như vậy.
Mila tiếp tục dành thì giờ quan sát. Khi quay người lại, cô đối diện với một thứ không ngờ tới.
Phủ kín một bức tường là những tiêu bản bướm.
Chúng được đặt trong các khung kính. Có những con bướm khác thường và đẹp tuyệt. Một số mang tên ngoại quốc được ghi cùng với nơi phát hiện trên một tấm bảng đồng. Những con bướm đẹp nhất đến từ châu Phi và Nhật Bản.
– Chúng mê hoặc ta vì chúng đã chết. – Goran buông lời nhận xét.
Nhà tội phạm học mặc một chiếc áo thun đen và một quần da lạc đà. Cổ áo sơmi của ông lòi ra bên trên cổ áo thun. Ông đang đứng cạnh Mila để ngắm nhìn rõ hơn bức tường bướm.
– Đứng trước một thứ kì vĩ như thế này, chúng ta quên mất một điều quan trọng nhất và hiển nhiên nhất… Lũ bướm này sẽ không còn bay được nữa.
– Thật phi tự nhiên. – Mila đồng tình. – Nhưng cũng thật quyến rũ…
– Đó chính là điều mà cái chết gây ra đối với con người. Chính vì nó mà thế gian này có những kẻ giết người hàng loạt.
Goran khoát tay ra hiệu. Chỉ cần thế, mọi thành viên trong nhóm điều tra lập tức tề tựu quanh ông. Điều đó chứng tỏ rằng, mặc dù có vẻ bị cuốn vào công việc, họ vẫn luôn để mắt đến ông, theo dõi từng cử chỉ và thái độ của ông.
Mila đã có lời khẳng định cho sự tin tưởng vô đối mà mọi người dành cho trực giác của Goran. Ông là người soi đường cho họ. Điều này thật lạ lùng, vì các cảnh sát, hay “cớm” – ít ra như những người mà Mila biết – luôn gặp khó khăn trong việc đặt niềm tin vào một người dân thường. Nói thật lòng, đội điều tra này lẽ ra nên được gọi là “đội của Gavila” hơn là “đội của Roche”, người thường xuyên vắng mặt. Ông ta sẽ chỉ xuất đầu lộ diện nếu như họ tìm thấy một bằng chứng mạnh mẽ và có tính chất quyết định chống lại Bermann.
Stern, Boris và Rosa đứng xung quanh giáo sư tội phạm học như sơ đồ mọi khi, mỗi người một vị trí. Mila đứng ở phía sau họ một bước. Vì sợ cảm thấy bị gạt ra rìa, cô đã tự loại mình ra.
Goran hạ thấp giọng, nhanh chóng ấn định cho mọi người giọng điệu của cuộc trao đổi mà ông muốn. Có lẽ ông không muốn làm phiền Veronica Bermann.
– Thế nào, chúng ta có được những gì rồi?
Stern là người đầu tiên lên tiếng. Anh lắc đầu:
– Trong căn nhà này, không có bất cứ thứ gì liên kết Bermann với sáu cô bé nạn nhân.
– Cô vợ hoàn toàn không biết gì. Tôi đã hỏi cô ta vài câu và tôi không nghĩ cô ta nói dối. – Boris thêm vào.
– Người của chúng ta đang tiến hành rà soát ngoài vườn cùng với bầy chó. – Rosa nói. – Nhưng cho đến lúc này vẫn chưa thấy gì.
– Chúng ta sẽ điểm lại nhất cử nhất động của Bermann trong sáu tuần vừa qua. – Giáo sư Goran nhận xét, và cả nhóm cùng gật gù, mặc dù họ biết đó là một việc gần như bất khả thi.
– Stern, ta còn gì nữa không?
– Không có biến động bất thường trong tài khoản. Khoản chi lớn nhất mà Bermann đã thực hiện trong năm vừa qua liên quan đến việc thụ tinh nhân tạo.
Nghe đến đây, Mila mới hiểu được cảm giác mà cô có từ trước khi vào nhà cho đến khi nhìn các tấm ảnh. Đó không phải là sự hiện diện như cô đã tưởng lúc đầu. Cô đã nhầm.
Đó đúng hơn là sự vắng mặt.
Người ta có thể cảm thấy sự vắng mặt của một đứa trẻ trong căn nhà toàn đồ đạc đắt tiền và vô hồn này. Nó đã được thu xếp dành cho hai cá thể ý thức được rõ ràng cuộc sống quạnh vắng của họ. Ca thụ tinh trong ống nghiệm mà Stern vừa nhắc đến dường như là một sự mâu thuẫn, vì nơi này không toát lên nỗi lo âu của một cặp đôi hiếm muộn.
Stern chốt lại phần trình bày của mình bằng một chân dung ngắn gọn về cuộc sống riêng tư của Bermann:
– Hắn không dùng ma túy, không uống rượu hay hút thuốc. Hắn có đăng ký tham gia một phòng tập thể dục và một câu lạc bộ băng hình, nơi hắn thuê các cuốn phim tài liệu về các loài côn trùng. Hắn đi lễ nhà thờ Lutheran trong khu vực, và hai lần mỗi tháng đến làm tình nguyện viên trong một trại dưỡng lão.
– Một ông thánh sống. – Boris mai mỉa.
Goran quay sang phía Veronica Berman để bảo đảm là cô ta không nghe thấy câu nói vừa rồi. Sau đó ông nhìn Rosa.
– Còn gì khác không?
– Tôi đã phân tích ổ cứng máy vi tính ở nhà và ở văn phòng của hắn. Tôi cũng đã thực hiện việc khôi phục các tập tin bị xóa, nhưng chẳng có gì đáng quan tâm cả. Toàn chuyện làm ăn. Tên này bị ám ảnh bởi công việc.
Mila nhận thấy Goran đột nhiên có vẻ lơ đãng. Điều này chỉ xảy ra trong một vài giây, sau đó ông tập trung trở lại vào cuộc trao đổi.
– Vậy còn việc lên mạng của Alexander, ta biết được gì?
– Tôi đã gọi đến nhà mạng của hắn, và họ đã cung cấp cho tôi một bản danh sách các trang web hắn đã truy cập trong vòng sáu tháng gần đây. Cũng lại chẳng có gì… Có vẻ như hắn rất mê các trang mạng về thiên nhiên, du lịch, và động vật. Ngoài ra, hắn mua trên mạng các món đồ cổ và bướm sưu tập, nhất là trên trang eBay.
Khi Rosa trình bày xong, Goran khoanh tay lại, rồi nhìn các điều tra viên, từng người một. Kể cả Mila, người cuối cùng cũng cảm thấy được tham gia.
– Vậy, các bạn nghĩ sao? – Ông giáo sư hỏi.
– Tôi thấy như bị lóa mắt. – Boris đáp ngay và đưa tay lên che mắt để nhấn mạnh ý muốn nói. – Tất cả đều sạch sẽ quá mức.
Những người còn lại gật gù.
Mila không rõ anh chàng căn cứ vào đâu, nhưng cô không muốn hỏi thẳng. Giáo sư Goran đưa một tay lên vuốt trán, rồi xoa đôi mắt mệt mỏi. Một lần nữa, trên gương mặt của ông lại xuất hiện sự lơ đãng ấy… Một luồng suy nghĩ đưa ông đi nơi khác trong một vài giây, nhưng rồi bằng cách nào đó ông quay lại ngay với thực tại.
– Nguyên tắc đầu tiên khi điều tra một nghi phạm là gì?
– Chúng ta ai cũng có bí mật. – Boris trả lời ngay.
– Đúng. – Goran nói. – Chúng ta ai cũng có nhược điểm, ít nhất là một lần trong đời. Mỗi người trong chúng ta đều có bí mật của mình, dù nhỏ hay lớn, dù có thú nhận hay không… Hãy nhìn xung quanh các bạn: người đàn ông này là hình mẫu của một người chồng lý tưởng, ngoan đạo, làm việc chăm chỉ. – Ông giơ ngón tay lên đếm. – Đó là một nhà hảo tâm, biết giữ gìn sức khỏe, chỉ thuê phim tài liệu, không có thói hư tật xấu, chăm sưu tập bướm… các bạn có tin nổi một con người như thế không?
Lần này câu trả lời hiển nhiên là không.
– Vậy, một con người như thế làm gì với xác một bé gái trong xe hơi của mình?
Stern xen vào:
– Hắn đã xóa sạch tất cả…
Goran gật gù:
– Alexander đã mê hoặc chúng ta bằng sự hoàn hảo này, để chúng ta không nhìn đi chỗ khác… Thế chúng ta đang không nhìn vào đâu trong thời điểm này?
– Ta phải làm gì đây? – Rosa hỏi.
– Bắt đầu lại từ đầu. Câu trả lời nằm ở đây, trong những thứ mà các bạn đã tìm hiểu. Hãy rà soát chúng thật kỹ. Cần phải bóc đi lớp vỏ bọc lấp lánh của chúng. Đừng để mình bị lừa bởi cuộc sống hoàn hảo kia: ánh hào quang đó chỉ làm chúng ta phân tán tư tưởng và rối trí. Ngoài ra, cần phải…
Goran lại tỏ ra lơ đãng. Sự chú ý của ông đang ở đâu đâu. Lần này thì tất cả mọi người đều nhận ra. Một thứ gì đó đang thành hình và lớn dần trong đầu ông.
Mila quyết định quan sát theo hướng nhìn của ông giáo sư. Ông không đơn thuần là nhìn vào khoảng không. Ông đang nhìn cái gì đó trong phòng.
Goran hỏi thành tiếng:
– Có ai nghe các tin nhắn trên máy trả lời tự động của điện thoại chưa?
Trong một thoáng, các điều tra viên cứng người, nhất loạt nhìn vào cái điện thoại đang nhấp nháy đỏ và cảm thấy có lỗi khi bị bắt quả tang sơ sót của mình. Goran không bận tâm chuyện đó. Ông chỉ tiến đến bấm nút cho chạy máy ghi âm số.
Một lúc sau, những lời của người quá cố vang lên từ trong bóng tối.
Alexander Bermann đang trở lại trong ngôi nhà một lần cuối.
“Hừm… Anh đây… E hèm… Anh không có nhiều thời gian… Nhưng dẫu sao anh cũng muốn xin lỗi em… Anh xin lỗi em, vì tất cả… Lẽ ra anh phải làm điều này sớm hơn, nhưng anh đã không thể… Em cố gắng tha thứ cho anh. Tất cả đều là lỗi của anh…”
Giọng nói chấm dứt và một sự im lặng như đá đè nặng lên căn phòng. Bất giác mọi ánh nhìn đều đổ dồn vào Veronica Bermann, người đang đứng trơ trơ như tượng tạc.
Goran Gavila là người đầu tiên nhúc nhích. Ông tiến lại gần, nắm lấy hai vai cô ta và nhờ một nữ cảnh sát đưa cô ta sang phòng khác. Stern lên tiếng phá vỡ bầu im lặng:
– Rồi, đã đến lúc nghe lời thú nhận rồi đây.