Khu Vườn Xương

Chương 11



MƯỜI MỘT

Hiện tại

Julia lái xe về phía bắc, chạy trốn khỏi cái nóng của mùa hè Boston và tham gia vào dòng xe ô tô cuối tuần đổ về phía bắc tới Maine. Khi cô đến vùng tiếp giáp New Hampshire, nhiệt độ bên ngoài xuống tới mười độ. Nửa giờ sau, cô qua Maine, không khí bắt đầu lạnh buổt. Chẳng mấy chốc mà cánh rừng và những bờ biển kè đá biến mất khỏi tầm mắt cô sau màn sương mù; từ hướng bắc trời đất xám xịt, con đường uốn lượn qua những rừng cây và trang trại nghèo nàn mờ ảo.

Cuối cùng, cô cũng đến bờ biển của thị trấn Lincolnville vào buổi chiều hôm đó, sương mù dày đặc khiến cô chỉ có thể nhận ra được hình dáng bên ngoài to lớn của bến phà Islesboro ở cầu tàu. Henry Page đã cảnh báo cô rằng trên phà chỉ có một số lượng giới hạn không gian cho phương tiện đi lại, nên cô đã đậu xe ô tô của mình ở khu đón khách, cầm theo chiếc túi du lịch và đi bộ lên phà.

Nếu có bất kì cảnh đẹp nào có thể thấy qua cửa sổ phà hôm nay thì cô cũng chỉ nhìn lướt qua trong suốt hành trình tới Islesboro.

Cô xuống phà và bước vào một thế giới xám xịt mất phương hướng. Nhà của Henry Page chỉ cách bến tàu của đảo khoảng hơn cây số đi bộ. “Một chuyến đi dạo tuyệt vời trong những ngày hè.” – Ông ta đã nói vậy. Nhưng trong màn sương mù dày đặc thì hơn một cây số cũng dường như quá xa. Cô đi nép vào một bên đường để tránh những xe ô tô đi ngang qua tông phải hoặc nhảy qua những đám cỏ dại bất cứ khi nào cô nghe thấy tiếng xe cộ sắp đi qua. Đây đang là mùa hè ở Mainc, cô nghĩ, run rẩy trong trang phục quần soóc và xăng đan. Tất cả những gì cô có thể thấy là vỉa hè dưới chân và những bụi cỏ dại bên đường.

Ở phía trước, bất ngờ xuất hiện một thùng thư. Nó đã rỉ sét và được đóng dấu bưu điện cong queo. Nhìn gần hơn, cô có thể đọc được những chữ mờ tịt ở bên cạnh: STONEHURST.

Nhà của Henry Page.

Một con đường nhỏ dẫn vào nhà đi qua một rừng cây rậm rạp, nơi đó những bụi rậm và cành thấp chìa ra giống như những cái vuốt cào xước bất cứ xe cộ nào đi ngang qua. Đi càng xa thì cô càng cảm thấy lo lắng vì bị đơn độc trên con đường này, trên hòn đảo toàn sương mù. Ngôi nhà xuất hiện đột ngột đến nỗi cô phải dừng lại, giật mình, như thể cô bất thình lình gặp một con quái vật hiện ra trong màn sương. Đó là một ngôi nhà được xây bằng đá và gỗ đã cũ, qua năm tháng màu đá óng ánh như bạc trong bầu không khí toàn vị muối. Mặc dù cô không nhìn thấy biển nhưng cô biết rằng nó rất gần bởi vì cô có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ vào đá và tiếng kêu của những chú chim mòng biển lượn vòng trên đầu.

Cô bước lên bậc cửa bằng đá granit đã mòn và gõ cửa. Ông Page đã nói với cô rằng ông ta sẽ ở nhà, nhưng chẳng thấy ai ra mở cửa. Cô đang lạnh, cô cũng không mang theo áo khoác và cô chẳng có chỗ nào để đi trừ việc quay trở lại bến phà. Thất vọng, cô đặt túi xuống mái hiên rồi đi vòng ra sau nhà. Henry không có nhà thì cô có thể xem qua chỗ của ông ta cũng được – nếu không gặp được ai hôm nay.

Cô đi theo con đường mòn lát đá ra vườn phía sau, đầy cây bụi và cỏ mọc lởm chởm. Dù rõ ràng là khu đất cần sự chăm sóc của người thợ làm vườn, xét theo phần được xây bằng đá một cách tỉ mỉ, công phu; cô có thể nói rằng nơi này chắc chắn từng là một địa điểm thăm quan. Cô thấy một cầu thang phủ đầy rêu, dẫn xuống phía dưới mờ mịt sương, những tường đá thấp rào xung quanh những thềm hoa nối tiếp nhau. Bị cám dỗ bởi những tiếng sóng, cô bước xuống bậc thang, qua những bụi cây húng tây và cây bạc hà mèo. Bây giờ thì biển chắc gần lắm rồi, cô không chờ được thêm một giây nào nữa để nhìn thấy bờ biển.

Cô bước xuống nhưng chân chỉ chạm vào không khí.

Kinh ngạc, cô quờ quạng phía sau rồi chới với ngã ngồi xuống bậc cầu thang. Một lúc sau cô ngồi và nhìn xuống qua màn sương mù: những tảng đá bên dưới sâu khoảng sáu mét. Bây giờ cô mới để ý thấy những chỗ đất bị xói mòn xung quanh mình, những cái rễ cây lộ ra, bám chơi vơi nơi vách đá. Nhìn xuống biển, cô nghĩ: mình đã may mắn sống sót, nếu không đã nhanh chóng chết chìm dưới mặt nước lạnh cóng này.

Chân loạng choạng, cô leo trở lại ngôi nhà, suốt dọc đường chỉ lo vách đá sẽ bất ngờ sụp xuống, kéo theo cả cô. Cô leo gần đến đỉnh thì nhìn thấy người đàn ông đang đứng chờ mình.

Ông đứng khom lưng, đôi tay xương xẩu nắm chặt cây ba toong. Qua điện thoại, cô đã có thể đoán Henry Page khá già, còn người đàn ông này trông cũng đã lớn tuổi, tóc bạc trắng như cước, đôi mắt nheo nheo nhìn qua đôi kính gọng to.

– Những bậc thang đó không an toàn. – Ông nói. – Mỗi năm, đều có người rơi xuống vách đá. Chỗ đất đó không được ổn định.

– Vâng, tôi đã khám phá ra rồi. – Cô vừa nói vừa thở hổn hển vì leo nhanh khỏi bậc thang.

– Tôi là Henry Page. Tôi chắc cô là Hamill.

– Tôi hi vọng là không có vấn đề gì khi tôi đi quanh đây. Vì ông không có nhà.

– Tôi ở nhà cả ngày.

– Sao không thấy ai ra mở cửa ạ.

– Cô nghĩ rằng tôi có thể chạy xuống cầu thang được sao? Tôi đã tám mươi chín tuổi rồi. Lần sau cô nên cố gắng kiên nhẫn một chút. – Ông ta quay lại và bước qua bậc đá, đi về phía cánh cửa kiểu Pháp. – Vào đây. Tôi vừa có một chai Sauvignon. Blanc ướp lạnh ngon tuyệt. Mặc dù thời tiết lạnh thế này có lẽ cần một li rượu đỏ chứ không phải một li trắng.

Cô đi theo ông vào trong nhà. Khi cô bước qua cánh cửa kiểu Pháp, cô nghĩ: Chỗ này trông cổ kính giống như ông ấy vậy. Toàn bụi và mùi thảm cũ.

Và những cuốn sách. Trong căn phòng hướng ra biển, hàng ngàn cuốn sách cũ được chất đống trên những giá sách cao tới trần nhà. Một cái lò sưởi bằng đá khổng lồ choán hết một bức tường. Mặc dù căn phòng rất lớn nhưng vì cửa sổ hướng ra biển bị che phủ bởi sương mù nên không gian tối và đáng sợ. Có khoảng một tá thùng được xếp chồng lên nhau ở chính giữa phòng, bên cạnh cái bàn ăn bằng gỗ sồi khổng lồ.

– Đó là một vài cái hộp của Hilda. – Ông Henry nói.

– Một vài ư?

– Có hơn hai mươi cái còn ở dưới hầm và tôi còn chưa động đến chúng. Có lẽ cô có thể mang chúng xuống nhà cho tôi, vì tôi không thể làm gì được với cái gậy này. Tôi đã nhờ cháu trai mình làm, nhưng nó lúc nào cũng bận bịu.

Còn tôi thì không à?

Ông đập vào cái bàn ăn, nơi những thứ trong một cái hộp đang được bày đầy một đầu bàn méo mó.

– Như cô thấy đấy, Hilda là một người thích tha lôi. Chẳng bao giờ vứt đi cái gì cả. Khi cô sống lâu bằng chị ấy, cũng đồng nghĩa với việc cô biết đến tường tận một số chuyện. Nhưng những thứ này, lại gợi ra những điều rất thú vị. Nó hoàn toàn không được sắp đặt trước.

Công ty vận chuyển mà tôi đã thuê nhét tất cả mọi thứ vào hộp. Đống báo cũ nào đề ngày từ năm 1840 đến năm 1910. Không theo một thứ tự nào cả. Tôi cá là thậm chí còn có những tờ cũ hơn ở đâu đó, nhưng chúng ta sẽ phải mở tất cả đống hộp giấy đó để tìm chúng. Có lẽ phải mất hàng tuần để xem qua tất cả.

Nhìn xuống một mẩu của tờ Nhật báo quảng cáo Boston đề ngày 10 tháng 1 năm 1840, Julia chợt nhận ra là ông ta đã dùng từ chúng ta. Cô ngẩng lên.

– Tôi xin lỗi, ông Page, nhưng tôi không định ở lại đây lâu. Ông có thể cho tôi xem những gì mà ông đã tìm thấy liên quan đến ngôi nhà của tôi không?

– Ồ, vâng. Nhà của Hilda.

Cô ngạc nhiên khi thấy ông ấy không bước về phía mình, cây ba toong của ông đập thình thịch xuống sàn gỗ.

– Được xây dựng năm 1880. – Ông quay lại quát to khi đang đi về đầu kia căn phòng. – Bởi tổ tiên của tôi, tên là Magaret Tate Page.

Julia theo Henry vào văn bếp, trông nó giống như thể những thứ được dùng từ trước những năm 1950. Những cái tủ ngăn kéo cáu bẩn, bếp lò bám đầy mỡ lâu ngày và thứ gì đó giống như là nước sốt mì spaghetti khô. Ông lục lọi trong tủ lạnh rồi lôi ra một chai rượu vang trắng.

– Ngôi nhà đã trải qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Những người thích tha lôi, giống như Hilda. – Ông nói, xoắn mở nút chai rượu. – Đó là lí do tại sao chúng tôi lại tìm ra được cả một kho báu tài liệu. Ngôi nhà tồn tại cùng gia đình chúng tôi từng ấy năm – nút gỗ bật ra khỏi chai, ông nhìn cô – cho tới tôi.

– Bộ hài cốt ở trong vườn của tôi có thể được chôn từ trước năm 1880. – Cô nói. – Đó là điều mà nhà nhân chủng học ở trường đại học nói với tôi. Ngôi mộ đó cũ hơn cả ngôi nhà.

– Có thể, có thể. – Ông lấy ra hai cái li uống rượu vang từ ngăn kéo.

– Những gì mà ông tìm thấy trong mấy cái hộp không nói gì với chúng ta về bộ hài cốt. – Và tôi đang lãng phí thời gian của mình ở đây.

– Sao cô lại có thể nói vậy? Cô thậm chí còn chưa xem những tờ báo. – Ông rót rượu vào hai cái li và đưa một cái cho cô.

– Bây giờ có vẻ như là hơi sớm để uống rượu? – Cô lưỡng lự.

– Sớm ư? – Ông cười. – Tôi đã tám mươi chín tuổi và tôi có bốn trăm chai rượu vang cực kì tuyệt vời ở trong hầm rượu, tôi định sẽ uống hết. Tôi còn đang lo lắng là có thể đã quá muộn để bắt đầu uống ấy chứ. Vì thế làm ơn, cùng uống với tôi. Một chai rượu lúc nào cũng ngon hơn khi có người cùng chia sẻ.

Cô cầm lấy li rượu.

– Chúng ta đang nói về chuyện gì nhỉ? – Ông hỏi.

– Ngôi mộ của người phụ nữ còn có trước cả ngôi nhà.

– Ôi chao. – Ông cầm lấy cốc của mình và lê bước về phía thư viện. – Nó hoàn toàn có thể.

– Tôi không hiểu những gì trong mấy cái hộp này có thể tiết lộ điều gì về lai lịch của cô ấy.

Ông lục lọi trong đống báo chí trên bàn ăn và lôi ra một tờ, đặt trước mặt cô.

– Đây, cô Hamill. Đây là manh mối.

Cô đọc lá thư viết tay đề

Ngày 20 tháng 3 năm 1888.

Margaret thân yêu,

Cảm ơn con rất nhiều vì những lời chia buồn chân thành trước sự ra đi của Amelia yêu quý. Đây quả thực là một mùa đông khó khăn cho ta khi mỗi tháng dường như lại có một người bạn già ra đi vì bệnh tật và tuổi tác. Bây giờ thì nó dường như còn u ám hơn bao giờ hết khi ta nghĩ đến những năm tháng ngắn ngủi còn lại của mình.

Ta nhận ra rằng có thể đây là cơ hội cuối cùng để đề cập đến chủ đề khó khăn mà lẽ ra ta đã nói ra từ lâu. Ta chẳng muốn chút nào khi phải nói đến nó, chỉ vì ta biết dì của con nghĩ rằng tốt hơn hết là giấu con điều đó…”

Julia ngẩng lên.

– Nó được viết năm 1888. Khá lâu sau khi bộ hài cốt được chôn.

– Đọc tiếp đi. – Ông nói.

Cô tiếp tục xem, cho đến đoạn cuối cùng.

Bây giờ đã muộn rồi, đôi mắt của một ông già như ta cũng không mở được lâu hơn nữa. Trong này, ta gửi kèm cho con mẩu báo cũ mà ta đã kể ở trên. Nếu con không muốn được biết thêm gì nữa thì hãy nói với ta, ta sẽ không bao giờ đề cập đến nó nữa. Còn nếu con thực sự muốn biết thêm về câu chuyện của cha mẹ con, thì lần tới ta sẽ tiếp tục cầm bút. Con sẽ được biết chuyện, câu chuyện thực, của dì con và Tử thần Khu Tây.

Gửi tới con yêu thương

O.W.H

– Cô có nhận ra O.W.H là ai không? – Henry hỏi. Mắt ông được phóng to hơn bởi hai mắt kính, ánh lên vẻ thích thú.

– Ông đã nói với tôi qua điện thoại đó là Oliver Wendell Holmes.

– Và cô có biết ông ta là ai không?

– Ông ta là một thẩm phán phải không? Một người ở tòa án Tối cao.

Henry thở dài bực bội.

– Không, đó là Oliver Wendell Holmes con, con trai của ông ấy! Lá thư này được gửi từ Wendell cha. Cô chắc phải nghe tên ông ta rồi chứ.

Julia cau mày.

– Ông ta là một nhà văn đúng không?

– Đó là tất cả những gì cô biết về ông ấy à?

– Tôi rất tiếc. Tôi dạy học nhưng không phải là giáo viên lịch sử.

– Cô dạy môn gì thế?

– Tôi dạy lớp ba.

– Một giáo viên lớp ba thì cũng nên biết rằng Oliver Wendell Holmes cha không chỉ là một nhà văn. Đúng, ông ta là một nhà thơ, một tiểu thuyết gia và một người viết tiểu sử. Ông ta cũng là một giảng viên đại học, triết gia và một trong những người có tiếng nói ảnh hưởng nhất Boston. Hơn thế nữa, điều quan trọng nhất trong những cống hiến của ông ta với loài người là lĩnh vực khác.

– Đó là lĩnh vực gì vậy?

– Ông ta là một bác sĩ. Một người giỏi nhất trong những người cùng thế hệ với ông ta.

Cô nhìn lá thư tò mò hơn.

– Vậy điều này có ý nghĩa lịch sử.

– Và Margaret, người mà ông ấy đề gửi trên thư chính là bà cố của tôi, bác sĩ Margaret Tate Page, sinh năm 1830. Bà là bác sĩ nữ đầu tiên ở Boston. Ngôi nhà của bà bây giờ thuộc về cô. Năm 1880, khi ngôi nhà được xây dựng, bà đã năm mươi tuổi.

– Người dì mà ông ta nói đến trong thư là ai?

– Tôi không biết. Tôi chẳng biết thông tin gì về bà ấy cả.

– Còn lá thư nào của Holmes gửi không?

– Tôi hi vọng là chúng ta sẽ tìm thấy chúng ở đây. – Ông nhìn đống hộp giấy xếp chồng lên nhau bên cạnh bàn ăn. – Tôi chỉ mới tìm trong sáu hộp. Chẳng có cái gì được sắp xếp và cũng chẳng có thứ tự nào cả. Nhưng đây là lịch sử của ngôi nhà, cô Hamill. Đây là những gì mà một người đã sống ở đó để lại.

– Ông ta nói rằng ông ta gửi kèm một mẩu báo cắt ra. Ông có tìm thấy nó không?

Henry với tay lấy một mẩu báo.

– Tôi nghĩ đây chính là thứ mà ông ấy đã nhắc đến.

Mẩu báo đã ngả màu nâu vì thời gian nên cô khó đọc những dòng chữ in nhỏ xíu dưới ánh sáng xám của cửa sổ. Chỉ khi Henry bật đèn thì cô mới có thể đọc được những dòng chữ đó.

Nó đề ngày 28 tháng 11 năm 1830.

TỬ THẦN KHU TÂY ĐƯỢC MIÊU TẢ LÀ “ĐÁNG SỢ VÀ KÌ QUÁI.”

Vào lúc mười giờ tối thứ tư, nhân viên của đội tuần tra đêm đã được gọi đến bệnh viện tổng hợp Massachusetts sau khi xác của bà Agnes Poole, một y tá, được tìm thấy trong một vũng máu lớn ở cầu thang sau bệnh viện. Theo lời của ông Pratt – một nhân viên của đội bảo vệ, vết thương để lại trên người nạn nhân là kết quả của một cuộc tấn công tàn ác đầy thú tính, hung khí có lẽ là một con dao lớn giống như dao mổ thịt lợn. Người viết bài vẫn chưa có thông tin gì về nhân chứng duy nhất, vì lí do an toàn, song ông Pratt khẳng định rằng đó là một cô gái trẻ, và đã miêu tả kẻ sát nhân là “mặc áo choàng đen giống như Tử thần, với đôi cánh của một loài chim săn mồi.”

– Vụ giết người xảy ra ở Boston. – Julia nói.

– Ở Weston, cách nửa ngày đường đi xe ngựa nếu tính từ nhà của cô. Và nạn nhân của vụ giết người là một phụ nữ.

– Tôi không thấy có liên quan gì tới nhà mình.

– Oliver Wendell Holmes có lẽ là mối liên hệ. Ông ta đã viết thư cho Margaret, người khi đó đang sống ở nhà cô. Ông ta đã nhắc tới một chuyện gây bối rối cho dì của bà ấy, và liên quan tới kẻ giết người được biết đến với cái tên Tử thần Khu Tây. Vì một lí do nào đó, Holmes liên quan đến vụ giết người – một vụ việc mà ông ta cảm thấy mình bắt buộc phải nói với Margaret sau hơn năm mươi năm. Tại sao vậy? Bí mật đó là gì mà bà ấy chưa từng được biết đến?

Tiếng còi tàu xa xa bên dưới khiến Julia giật mình ngước lên.

– Tôi ước gì mình không phải lên phà trở về. Tôi thật sự muốn biết câu trả lời.

– Vậy thì đừng đi. Tại sao cô không ở lại một đêm nhỉ? Tôi đã thấy túi du lịch qua đêm của cô ở trước cửa mà.

– Tôi không muốn để nó trong xe ô tô nên đã mang nó theo. Tôi định thuê một phòng trong khách sạn ở Lincolnville.

– Nhưng giờ thì cô có thể thấy những gì mà chúng ta cần phải làm ở đây! Tôi có một căn phòng tuyệt đẹp dành cho khách ở trên lầu, với quang cảnh rất tuyệt vời.

Cô nhìn ra cửa sổ, sương mù bây giờ thậm chí còn dày hơn, và băn khoăn không hiểu quang cảnh mà ông ta đang nói đến là gì.

– Nhưng có vẻ như nó không có giá trị gì với cô nhỉ. Tôi có lẽ là người duy nhất quan tâm đến lịch sử. Tôi chỉ nghĩ rằng cô có thể cũng đồng cảm vì cô đã chạm vào hài cốt của cô ấy. – Ông thở dài. – Ôi tốt thôi. Có vấn đề gì đâu chứ? Một ngày nào đó, chúng ta đều sẽ giống như cô ấy. Chết đi và bị lãng quên. – Ông quay đi. – Chuyến phà cuối cùng khởi hành lúc bốn giờ ba mươi. Cô nên đi ngay bây giờ nếu không muốn bị lỡ.

Cô không đi. Cô vẫn đang nghĩ về những điều ông ta nói. Về người phụ nữ bị lãng quên.

– Ông Page? – Cô gọi.

Ông ta quay lại, tay nắm chặt đầu ba toong.

– Tôi nghĩ là mình sẽ ở lại qua đêm.

Ở tuổi ông, Henry vẫn có thể cầm chắc cốc của mình. Ngay sau khi họ kết thúc bữa tối, họ mở tiếp chai vang thứ hai khiến Julia hơi chuếnh choáng. Màn đêm buông xuống, dưới ánh đèn bàn, tất cả mọi thứ trong phòng mờ đi, phủ một màu ấm áp. Họ ăn tối ngay trên cái bàn trải đầy báo, bên cạnh phần còn lại của con gà quay là lá thư cũ và tờ báo mà cô vừa mới xem. Cô không thể đọc chúng tối nay, vì đầu của cô đang quay cuồng.

Henry không có vẻ gì ngưng lại. Ông rót đầy cốc của mình, nhấp một ngụm rồi với lấy tài liệu khác, một trong bộ sưu tập vô số những thư từ viết tay được gửi đến cho Margaret Tate Page. Có những lá thư của con, cháu yêu quý và đồng nghiệp trong ngành y gửi từ khắp nơi trên thế giới. Làm sao mà Henry vẫn có thể tập trung vào những dòng chữ mờ nhạt sau khi đã uống từng ấy cốc rượu nhỉ? Nghe tám mươi chín tuổi thì có vẻ già lắm rồi, nhưng Henry uống nhiều hơn cả cô và chắc chắn là trụ lại lâu hơn cô trong cuộc thi đọc tối nay.

Ông nhìn cô qua miệng cốc của mình.

– Cô bỏ cuộc rồi à?

– Tôi kiệt sức rồi. Và hơi say nữa, tôi nghĩ vậy.

– Bây giờ mới mười giờ.

– Tôi không có sức chịu đựng giỏi như ông.

Cô thấy ông đưa bức thư lên sát cặp kính của mình, nheo mắt để đọc dòng chữ đã mờ. Cô nói:

– Hãy kể cho tôi nghe về chị họ Hilda của ông đi.

– Chị ấy là một giáo viên, giống như cô. – Ông lật qua lá thư. Rồi thêm vào một cách lơ đãng. – Chưa bao giờ có những đứa con riêng của mình.

– Tôi cũng vậy.

– Cô không thích trẻ con à?

– Tôi yêu chúng.

– Hilda thì không.

Julia ngả người xuống ghế, nhìn đống hộp giấy, những di sản mà Hilda Chamblett đã để lại.

– Vậy đó là lí do mà bà ấy sống cô đơn một mình. Bà ấy chẳng có ai khác.

Henry ngẩng lên.

– Tại sao cô lại nghĩ rằng tôi sống cô đơn. Chỉ bởi vì tôi muốn thế, đó là lí do! Tôi muốn ở lại trong ngôi nhà của mình, chứ không phải một viện dưỡng lão nào đó. – Ông cầm lấy cốc của mình. – Hilda cũng vậy.

Ngoan cố? Cáu kỉnh?

– Chị ấy đã ra đi ở chính nơi chị ấy muốn. – Ông nói. – Ở nhà, trong vườn của chị ấy.

– Tôi chỉ thấy người ta bảo rằng, bà ấy đã nằm đó vài ngày trước khi có người tìm thấy.

– Chắc chắn rồi, tôi cũng sẽ làm vậy. Cháu trai của tôi có lẽ sẽ tìm thấy cái thân già này ngồi trên ghế.

– Đó là một ý nghĩ kinh khủng, ông Henry ạ.

– Đó là sở thích riêng của mỗi người. Cô cũng sống một mình, vậy thì cô phải hiểu ý của tôi chứ.

Cô nhìn chằm chằm li rượu trên tay.

– Đó không phải là sự lựa chọn của tôi. – Cô nói. – Chồng tôi đã bỏ tôi.

– Tại sao vậy? Cô có vẻ như là một phụ nữ trẻ dễ thương mà.

Dễ thương à? Đúng, chính điều đó khiến cho anh ta bỏ chạy. Lời nhận xét không hề có ác ý của ông khiến cô cười. Nhưng ở đâu đó giữa nụ cười ấy là những giọt nước mắt. Cô ngồi thẳng dậy, hai tay ôm đầu, cố gắng để kìm nén cảm xúc của mình. Tại sao chuyện này lại xảy ra ở đây, bây giờ, trước mặt một người đàn ông mà cô chỉ vừa mới quen? Mấy tháng sau khi Richard bỏ đi, cô đã không một lần khóc, ai cũng đều ngạc nhiên trước sự chịu đựng của cô. Bây giờ thì cô không kìm được nước mắt nữa, cả cơ thể cô run lên trước những giọt nước mắt quá nặng nề mà cô tìm được. Henry chẳng nói gì và cũng không có ý định an ủi cô. Ông chỉ đơn giản hỏi cô về cái cách mà ông nghiên cứu những tờ báo cũ, như thể chúng là một thứ gì đó cực kì mới mẻ và gây tò mò vậy.

Cô lau nước mắt rồi vội vã đứng dậy.

– Tôi sẽ dọn dẹp – cô nói – sau đó tôi nghĩ là mình nên đi ngủ.

Cô dọn dẹp đống đĩa của bữa tối, mang vào trong bếp.

– Julia – ông gọi – tên của anh ta là gì? Chồng cô ấy?

– Richard! Anh ta là chồng cũ của tôi.

– Cô vẫn còn yêu anh ta đúng không?

– Không. – Cô trả lời nhẹ nhàng.

– Vậy thì tại sao cô lại khóc, vì anh ta làm gì cô sao?

Câu hỏi rất lôgic của Henry như một mũi tên trúng đích.

– Bởi gì tôi là một kẻ ngốc nghếch. – Cô đáp.

Ở đâu đó trong nhà, có tiếng chuông điện thoại kêu.

Julia nghe tiếng ông Henry lê bước qua cửa phòng cô ngủ, cây gậy ba toong cũng nện từng tiếng theo mỗi bước chân của ông. Ai đó đang gọi điện chắc đã biết rằng ông ấy cần thêm thời gian để tới chỗ điện thoại, bởi vì phải đợi tới tiếng chuông thứ mười hai thì ông ta mới nhấc máy. Cô lắng tai nghe tiếng ông trả lời điện thoại.

– Alô? – Khoảng vài giây sau. – Đúng, bây giờ cô ấy đang ở đây. Bọn tôi đang tìm trong mấy cái hộp. Thực ra tôi vẫn chưa quyết định gì cả.

Quyết định chuyện gì? Ông ấy đang nói chuyện với ai vậy nhỉ?

Cô cố gắng lắng nghe những gì ông nói, nhưng giọng ông như rơi vào không khí. Tất cả những gì cô có thể nghe được lúc này chỉ là tiếng thì thầm không rõ ràng. Một lúc sau thì im lặng, ông không nói gì nữa, và cô chỉ nghe thấy những âm thanh của biển ở bên ngoài cửa sổ, tiếng kẽo kẹt của ngôi nhà cũ.

Sáng hôm sau, khi những tia sáng đầu tiên của ngày mới xuất hiện, thì cuộc gọi đó dường như chẳng còn ai lo lắng được nữa.

Cô ra khỏi giường, mặc quần jeans với cái áo phông mới vào người rồi đến bên cửa sổ. Hôm nay, cô cũng chẳng thấy cảnh đẹp nào. Nếu có chăng chỉ là sương mù trông còn dày hơn, phủ kín cửa kính, nên cô nghĩ, nếu cô có thò tay ra ngoài cửa sổ, thì nó cũng sẽ nuốt chửng cánh tay cô, trông chúng như đám kẹo bông màu xám vậy. Mình đã lái xe suốt dọc đường đến Maine, cô nghĩ, mình thậm chí còn chưa hề nhìn thấy biển.

Có tiếng rõ ràng ở cửa làm cô giật mình quay lại.

– Julia. – Ông Henry gọi. – Cô đã dậy chưa?

– Tôi vừa mới dậy.

– Cô phải xuống nhà ngay đi.

Giọng khẩn cấp của ông làm cô lập tức chạy qua phòng và mở cửa ra.

Ông đang đứng trong hành lang, khuôn mặt rạng rỡ đầy phấn khích.

– Tôi đã tìm thấy bức thư khác.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.