Lá Bài Thứ XII

Chương 41



“Quả là một khung cảnh đẹp”, Thomp nói.

Lincoln Rhyme nhìn ra bên ngoài cửa sổ phía dòng sông Hudson, những vách đá của dãy Palisades trên bờ bên kia và những ngọn đồi xa xa của New Jersey. Có thể là của Pennsylvania nữa. Anh quay đi ngay lập tức, vẻ biểu cảm trên mặt giải thích rằng cái khung cảnh rộng bao la, giống như mọi người vẫn nói, khiến anh cảm thấy nhàm chán không cảm xúc.

Họ đang ở trong văn phòng tổ chức Sandford của William Ashberry, hắn đã chết trên nóc cùa tòa nhà Hiram Sanford trên phố 82 về phía tây. Phố Wall vẫn còn đang xôn xao tin tức về cái chết của người đàn ông và việc ông ta liên quan tới hàng loạt vụ phạm tội trong những ngày vừa qua. Cộng đồng tài chính không hề mất đi động lực để hoạt động, so với những gì xảy ra đối với các cổ đông và nhân viên của tập đoàn Enron và Global crossing[1], cái chết của nhà điều hành của một công ty đầy lợi ích không chấn động đến mức như thế.

[1] Tên hai công ty của Mỹ với hai vụ bê bối rất lớn về gian dối và sai lầm của lãnh đạo trong tổ chức hoạt động.

Amelia Sachs đã khám nghiệm kỹ lưỡng văn phòng, lấy đi những bằng chứng kết nối Ashberry với Boyd và dùng băng dính dán tách riêng những phần nhất định trong căn phòng. Cuộc họp diễn ra trong một khu vực đã được dọn dẹp sạch sẽ, với những cửa sổ được lau sạch các vết ố bẩn và những tấm bảng từ gỗ hồng sắc.

Ngồi bên cạnh Rhyme và Thomp là Geneva Settle cùng luật sư Wesley Goades. Rhyme cảm thấy thích thú vì có đôi lúc đã thực sự nghi ngờ sự đồng lõa của Goades trong vụ việc – do sự xuất hiện bất ngờ của ông ta ở căn hộ của Rhyme, tìm kiếm Geneva, và tình tiết về Tu chính án số 14; viên luật sư hẳn phải có một động cơ lớn lao để chắc chắn rằng không có gì gây nguy hiểm tới một vũ khí quan trọng cho những người ủng hộ tự do. Rhyme cũng đã từng tự hỏi có phải lòng trung thành của người đàn ông với công ty bảo hiểm trước đây đã khiến ông ta phản bội Geneva không.

Nhưng Rhyme không hề chia sẻ sự nghi ngờ về viên luật sư và do đó không có gì để xin thứ lỗi cả. Sau khi Rhyme và Sachs phát hiện ra rằng vụ án đang chuyển sang hướng không mong đợi, nhà tội phạm học đã gợi ý Goades ở lại chờ xem chuyện gì sẽ din ra tiếp theo. Tất nhiên là, Geneva Settle, hoàn toàn ủng hộ việc nhờ ông ấy giúp đỡ.

Bên kia chiếc bàn cà phê bằng cẩm thạch là Gregory Hanson, Chủ tịc

h ngân hàng Sanford, thư ký của ông, Stella Tumer, và một cộng sự cấp cao ở công ty luật Sanford, một luật sư có dáng vẻ gọn gàng tầm bốn mươi tuổi tên là Anthony Cole. Họ đều tỏ ra không thoải mái, mà Rhyme cho là đã xuất hiện từ ngày hôm qua khi anh gọi cho Hanson để đề nghị một buổi họp nói về “vấn đề Ashberry”.

Hanson đồng ý nhưng thêm vào một cách nhanh chóng và ngán ngẩm rằng ông ta thực sự rất sốc như những người khác khi biết về cái chết của Ashberry trong một vụ nổ súng ở Đại học Columbia vài ngày trước. Ông ấy không biết gì về điều đó – hay về bất cứ vụ cướp hàng trang sức cũng như tấn công khủng bố nào cả – ngoại trừ những gì đọc trên báo. Vậy thì chính xác là Rhyme và cảnh sát muốn gì?

Rhyme đưa ra một lời đậm ngôn ngữ của cảnh sát: “Chỉ là câu trả lời cho một vài câu hỏi thủ tục thôi”.

Giờ, họ đã xong phần mào đầu câu chuyện, Hanson hỏi: “Anh có thể nói cho chúng tôi biết đó là gì không?”.

Rhyme đi thẳng vào vấn đề luôn: Anh giải thích rằng William Ashberry đã thuê Thompson Boyd, một sát thủ chuyên nghiệp, giết Geneva Settle.

Ba người thảng thốt nhìn về phía cô bé mảnh khảnh ngồi đối diện. Cô bé bình tĩnh nhìn từng người một.

Nhà tội phạm học tiếp tục thêm vào rằng Ashberry cảm thấy một điều hiển nhiên là không một ai biết lý do mà hắn muốn cô bé chết nên đã cùng với Boyd dựng lên một vài động cơ giả cho cái chết của cô bé. Lúc đầu thì vụ giết người được dàn dựng sao cho giống với một vụ hiếp dâm. Dù vậy, Rhyme đã nhìn xuyên qua âm mưu đó ngay lập tức, và khi tiếp tục tìm kiếm kẻ giết người, anh và đồng đội đã tìm ra lý do thật sự cho vụ án là: Geneva có thể nhận dạng kẻ khủng bố lên kế hoạch vụ tấn công.

“Nhưng lại có vài vấn đề với lý do này: Kẻ đánh bom đã chết có thể kết thúc toàn bộ yêu cầu cần phải giết Geneva. Nhưng không như thế. Đồng phạm của Boyd tiếp tục cố gắng một lần nữa. Chuyện gì đang diễn ra? Chúng tôi lần ra gã đã bán quả bom cho Boyd, một tên phóng hỏa đốt nhà ở New Jersey. FBI đã tóm cổ hắn. Chúng tôi thấy sự liên hệ giữa những tờ đô la của hắn với ngôi nhà ẩn náu của Boyd. Điều đó khiến hắn trở thành đồng lõa cho vụ giết người này và hắn đã đồng ý với một thỏa thuận. Hắn nói với chúng tôi rằng mình đã giúp cho Boyd và Ashberry biết nhau…”

“Dù sao thì, tên khủng bố này”, viên luật sư của ngân hàng nói một cách ngờ vực, với một tiếng cười chua chát: “Bill Ashberry và khủng bố ư? Nó…”.

“Dẫn đến kết cục đó”, Rhyme nói, với giọng chua chát không kém. Có lẽ còn hơn. Anh tiếp tục giải thích: Những lời khẳng định của tên chế tạo bom không đủ để đưa ra lệnh bắt giữ Ashberry. Nên Rhyme và Sellito phải quyết định rằng họ cần phải khiến hắn ra mặt. Họ đã gài một cảnh sát ở trường của Geneva, một người đàn ông giả vờ là phó hiệu trường. Bất cứ ai gọi điện hỏi về Geneva sẽ được nói rằng cô bé đang ở Đại học Columbia với một giáo sư luật. Vị giáo sư thật đã đồng ý để họ sử dụng không chỉ tên ông ta mà cả văn phòng nữa. Fred Dellray và Jonette Monroe, một cảnh sát với vỏ bọc một nữ sinh giang hồ ở trường trung học của Geneva, đã rất vui khi đóng vai vị giáo sư và cô nữ sinh. Họ đã thực hiện nhiệm vụ một cách nhanh chóng và triệt để nhằm dựng lên màn kịch, tạo vài bức ảnh giả bằng photoshop của Dellray với Bill Cliton và Rudy Giuliani, để bảo đảm rằng Ashberry không đoán ra họ đang giả dạng.

Rhyme lúc này giải thích những sự kiện cho Hanson và Cole, thêm vào các chi tiết về vụ cố tình giết người ở văn phòng của Mathers.

Anh lắc đầu. “Tôi đáng ra phải đoán được hung thủ có liên quan tới ngân hàng. Hắn đã có thể rút một lượng lớn tiền mặt và giả mạo vài báo cáo. Nhưng…”, Rhyme hất đầu về phía vị luật sư, “Hắn định làm gì mới được? Tôi biết là những người theo Thiên Chúa giáo chẳng bao giờ ủng hộ cho mầm mống khủng bố cả.”

Chẳng một ai cười. Rhyme nghĩ rằng, người làm ngân hàng, luật sư, chẳng ai có khiếu hài hước cả. Anh tiếp tục: “Bởi vậy tôi quay trở lại với các bằng chứng và để ý thấy có điều gì đó khiến mình cảm thấy băn khoăn: Không có bộ điều khiển phát tín hiệu vô tuyến để kích nổ quả bom. Nó đáng lẽ phải nằm trong các mảnh vụn cùa chiếc xe tải, nhưng lại không hề có.”

“Tại sao không? Hoặc kết luận ở đây là Boyd và cộng sự của mình đã đặt quả bom lên đó và giữ bộ kích nổ để điều khiển quả bom như một sự đánh lạc hướng để lôi chúng ta không tìm ra động cơ thật sự cho việc giết Geneva.”

“Được rồi”, Hanson nói. “Động cơ thật sự. Là gì mới được?”

“Phải suy nghĩ kỹ về nó. Lúc đầu tôi nghĩ rằng có thể Geneva đã nhìn thấy vài người thuê nhà bị đuổi một cách bất hợp pháp khi đang tẩy xóa các hình vẽ graffiti khỏi các tòa nhà cũ cho một công ty phát triển đầu tư. Nhưng tôi nhìn vào nơi mà s việc đó diễn ra và tìm ra rằng ngân hàng Sanford không hề liên quan tới các tòa nhà đó. Vậy thì, nó đã bỏ rơi chúng ta ở đâu? Tôi chỉ có thể quay trở lại với nơi mà lúc đầu chúng tôi đã nghĩ đến…”

Anh giải thích về tờ tạp chí Tuần báo Minh họa dành cho người da màu mà Boyd đã lấy đi mất. “Tôi đã quên mất rằng có ai đó đã truy lùng tờ tạp chí trước khi Geneva được cho là đã nhìn thấy một chiếc xe tải và tên khủng bố. Tôi nghĩ tới khả năng Ashberry lao vào bài báo đó khi tổ chức Sanford nâng cấp lại kho lưu trữ của họ vào tháng trước. Hắn đã làm một vài nghiên cứu và phát hiện ra một việc gì đó thực sự phiền phức, một việc mà có thể phá hủy cả cuộc đời hắn. Hắn đã hủy bản copy của tổ chức và quyết định rằng phải phá hủy tất cả những bản sao của tờ tạp chí. Trong suốt vài tuần vừa qua, hắn đã tìm ra hầu hết các bản sao này – nhưng vẫn còn một cái sót lại trong khu vực: Người thủ thư ở bảo tàng Mỹ – Phi tại Midtown đang lấy bản copy trong kho lưu trữ và hẳn đã phải báo cho Ashberry, một cách ngẫu nhiên, rằng có một cô bé đang quan tâm tới cái chủ đề này. Ashberry biết mình sẽ phải phá hủy bài báo và giết Geneva, cùng với người thủ thư, vì ông ấy có thể liên hệ họ với nhau.”

“Nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao”, Cole, vị luật sư nói. Sự chua chát trong giọng nói giờ biến thành cáu gắt thực sự.

Rhyme giải thích nốt mảnh ghép cuối cùng của câu đố: Anh đề cập đến câu chuyện về Charles Singleton, trang trại ông ấy được tặng từ ông chủ của mình và vụ cướp ở Quỹ Nô lệ tự do – và sự thật về việc người cựu nô lệ có giữ một bí mật. “Đó là câu trả lời cho việc tại sao Charles bị dàn dựng vụ cướp vào năm 1868. Và đó là câu trả lời cho lý do Ashberry phải giết Geneva.”

“Bí mật?”, Stella, cô thư ký hỏi.

“Vâng, đúng. Cuối cùng tôi đã tìm ra nó là gì. Tôi nhớ đến điều mà cha của Geneva đã nói với chúng tôi. Ông ấy nói rằng Charles dạy miễn phí ở một ngôi trường dành cho người da đen ở gần nhà mình và ông ấy đã bán rượu táo cho những công nhân đóng tàu trên đường.” Rhyme lắc đầu mình. “Tôi đã đưa ra một giả định thiếu cẩn thận. Chúng tôi nghe nói rằng trang trại cùa ông ấy ở tiểu bang New York… Và đúng là nó ở New York. Trừ việc nó không phải là ở khu phía bắc của bang, như chúng ta vẫn nghĩ.”

“Không phải à? Vậy nó ở đâu?”, Hanson hỏi.

“Rất dễ để tìm ra”, anh tiếp tục. “Nếu anh vẫn nhớ rằng có những trang trại vẫn đang làm việc ở đây trong thành phố cho đến cuối những năm 1800.”

“Ý anh là trang trại của ông ta ở Manhattan?”, Stella hỏi.

“Không chỉ vậy”, Rhyme nói. “Nó ở ngay dưới tòa nhà này.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.