Cánh cửa thang máy vừa mở, Brolin đã lao vụt về phía trước. Lloyd Meats ở ngay sau lưng anh mà khó khăn lắm mới theo kịp.
– Josh, đợi đã, không thể ập tới nhà Milton như thế này được!
Brolin đang mở khóa cửa xe Mustang.
– Tôi sẽ không để xảy ra nguy cơ đó chính là lão ta và Juliette đang ở trong tay lão! Anh vừa hét to vừa chui vào xe.
Meats đập vào nóc xe và miễn cưỡng ngồi phịch vào ghế trước.
– Tốt nhất là anh xuống đi, Brolin ra lệnh.
– Nếu anh phải đấm nhau với Milton Beaumont, thì tôi cũng thích có mặt. Đi thôi.
Cỗ máy gầm rú như điên trong các đường ngầm và bánh xe rít lên trên mặt đường nhựa khi chiếc xe Mustang lao đi trong đám khói cao su cháy.
– Hy vọng là anh ý thức được rằng chúng ta không có lệnh bắt giam, việc anh sắp làm là bất hợp pháp, Meats nhắc nhở. Không bắt được quả tang!
– Trừ khi Juliette có ở đó.
– Thế thì đội đặc nhiệm phải can thiệp, đó là việc của họ, không phải của chúng ta!
– Lloyd, anh biết rất rõ rằng họ không thể đến hiện trường được trước một tiếng. Tôi có linh cảm xấu.
Phó Phòng điều tra tội phạm gõ dồn dập vào mặt bảng điều khiển, miệng lầm bầm. Anh chỉ yên tâm một nửa khi thấy chiếc xe tuần tra đang lao nhanh bám theo họ với Salhindro ngồi sau vô lăng.
Cỗ máy V8 phóng vù vù như tên lửa khi vượt quá tốc độ 180 km/h trên đường liên bang số 84. Chưa đầy hai mươi phút sau, họ đã tới thác Multnomah tuyệt đẹp và rời khỏi đường liên bang để đi vào những con đường nhỏ hơn, nguy hiểm hơn, ngay sát bờ vực.
Họ rời khỏi trụ sở cảnh sát trung tâm được nửa tiếng thì điện thoại di động của Lloyd Meats đổ chuông. Bentley Cotland gọi tới, anh vẫn tiếp tục tìm kiếm qua Internet. Meats bật loa điện thoại để Brolin tham gia được vào câu chuyện.
– Thanh tra Meats, tôi tìm được một thông tin không thể tưởng tượng nổi! Bentley phấn khích kêu lên. Tôi tìm trên Newsweb với từ khóa là tên của bố mẹ Leland. Tôi muốn nói bố mẹ thật sự của hắn, Kate và Stephen Phillips. Tôi tìm được một bài báo ra tháng Bảy năm 1980. Người ta cho biết nhà Phillips có một cậu con trai nhỏ tên là Josh, giống như thanh tra Brolin, và thằng bé bị bắt cóc trong một siêu thị. Anh hiểu không? Họ đã gửi đứa con đầu của họ vào một trung tâm bảo trợ xã hội khi nó vừa chào đời năm 1976, và giữ lại đứa con thứ hai để nuôi, nhưng bốn năm sau, đứa thứ hai này lại bị bắt cóc!
Đột nhiên, một mảnh ghép nữa lồng khít vào bức tranh.
– Bentley, có thấy nói là tìm thấy xác của đứa bé không? Brolin hỏi.
– À… không, người ta chỉ nói bị bắt cóc, nhưng chưa bao giờ tìm thấy xác cả.
Brolin chửi thề và kêu lên:
– Hiển nhiên rồi! Chuyện này lý giải cho mẫu ADN.
– Gì cơ? Lý giải cho cái gì? Meats hỏi.
– Hãy suy luận đi: Kate Phillips mang bầu, không may lại sinh đôi. Vì những lý do cá nhân, Kate và Stephen Phillips gửi một trong hai đứa bé cho trung tâm bảo trợ xã hội năm 1976. Hai năm sau, nhà Beaumont đã nhận chính đứa bé này làm con nuôi. Năm 1980, đứa bé thứ hai, đứa mà nhà Phillips giữ lại, bị bắt cóc. Hoàn toàn có khả năng nó vẫn còn sống.
– Thế thì có mối liên hệ gì với ADN?
– Carl DiMestro đã nói rằng mẫu ADN của một người là duy nhất, trừ trường hợp anh em sinh đôi cùng trứng.
– Anh muốn nói là Leland chết thật rồi, nhưng chính em sinh đôi của hắn đã gây ra án mạng?
– Sao lại không chứ? Dễ chấp nhận hơn chuyện người chết sống lại, anh thấy thế không?
Meats nhún vai.
– Vậy thì thật điên rồ! Anh lý giải thế nào về chuyện bị bắt cóc qua nhiều năm mà không được tìm thấy? Mà tại sao hắn lại làm thế? Để trả thù cho anh trai ư? Không phù hợp!
Brolin tăng tốc, đèn pha của chiếc Mustang xuyên thủng màn đêm với tốc độ thách thức các luật lệ an toàn.
Thay vì trả lời lan man về các giả thiết vô bổ, Brolin chỉ im lặng, tập trung vào đường sá. Phải nhanh chóng hành động.
Chiếc xe tuần tra do Salhindro cầm lái đã bị bỏ xa từ lâu, nó phải mất thêm mười phút nữa mới tới được nhà Milton Beaumont. Vì thế họ sẽ chỉ có hai người.
Vài phút sau, chiếc Mustang vượt qua một bức tường dương sỉ để tiến đến gần hang ổ của Milton. Trước khi đèn pha kịp làm họ bị lộ, Brolin tắt tất cả và đậu xe giữa đám bụi cây nhỏ.
Tay cầm đèn pin và khẩu Glock, anh đi lên đường. Meats ra khỏi xe, khi thấy anh bạn đồng nghiệp đi xa dần với khẩu súng trong tay, anh cũng làm như vậy và thở dài.
Đi trong bóng tối không hề dễ dàng, rất nhiều đá lổn nhổn, đám cành cây ranh ma luôn sẵn sàng móc vào mắt cá chân. Hai thanh tra mỗi người đi theo một lối mòn và sải bước thật dài. Một con chim lợn hú lên khi họ đi qua, khiến Brolin nhớ lại thú huấn luyện chim săn mồi của Leland. Anh hy vọng là con chim kia không được huấn luyện để báo động mỗi khi có người đến, mặc dù với anh chuyện đạt đến mức độ thuần hóa đó là rất khó.
Một chút ánh sáng nhợt nhạt hiện ra ở chỗ ngoặt gần một cây thông Douglas to.
Khi lại gần, hai thanh tra nhận thấy ánh sáng đó phát ra từ một ngôi nhà. Thật ra, họ đã nhanh chóng tới nơi tập hợp các xe moóc, các khúc gỗ tròn, tôn và đá xây tường tạo nên “điền gia” Beaumont. Một ô cửa sổ gần cửa trước – nhưng liệu đó có phải là cửa trước duy nhất không? – tỏa ánh sáng mờ nhạt ra bên ngoài. Brolin ra hiệu cho đồng nghiệp của mình rằng anh sẽ đi vòng đằng trước, còn Meats đi vòng đằng sau. Anh định ra lệnh cho Meats phải thận trọng và chú ý đề phòng chó, nhưng rồi anh chọn cách giữ nguyên sự im lặng. Vả lại, chẳng có gì chứng tỏ ở đây có chó cả, dù sao thì những sợi lông tìm thấy ở nhà Camelia cũng thuộc họ nhà chó, nên có thể chúng là của một con cáo nào đó mà tên giết người vừa mới nhồi da. Lần đến đây gần nhất, Brolin cũng không thấy dấu hiệu gì của chó cả.
Anh chạy hết tốc lực, đi từ chỗ vỏ ô tô tới thùng phuy đầy nước mưa được đậy kín, rồi ra đến cửa. Anh đánh liều nhìn nhanh vào bên trong bằng cách nhô đầu lên trước ô cửa sổ.
Căn phòng hẹp nhưng dài, được chiếu sáng bằng một chiếc đèn bão đặt trên bàn. Không có ai cả.
Brolin xoay nắm cửa bước vào. Cánh cửa chống muỗi rít lên khi đóng lại sau lưng anh, anh vội nấp ngay sau một chiếc ghế bành tồi tàn. Trong ba giây, anh đã ở phòng tiếp theo, mũi súng chĩa xuống đất nhưng sẵn sàng nhả đạn. Trong bếp cũng không có ai. Brolin đi tiếp, hai thái dương giật giật.
Anh vào một phòng ngủ.
Chiếc giường rộng, phủ một tấm chăn len dường như không hề được thay từ nhiều năm nay. Có một cái tủ và một cái gương, trên tường không có gì ngoài một cây thánh giá dài treo trên đầu giường. Căn phòng buồn tẻ và không sự sống, thế nhưng Brolin tin chắc đây là phòng ngủ của Milton. Anh im lặng lại gần chiếc giường, đi vòng quanh nó để nhìn qua cửa sổ.
Có điều gì đó không ổn. Điện sáng, nhưng lại không có dấu vết nào của Milton.
Trừ khi lão nghe thấy tiếng chúng ta đến và đang lặng lẽ kiên nhẫn chờ đợi trong một xó xỉnh, cho tới lúc một trong hai chúng ta đi qua và lão sẽ dùng que cời lửa và giáng cho chúng ta một phát vào đầu!
Bên ngoài không có gì. Với lại trời tối quá nên không nhìn thấy gì cả. Brolin quay nửa vòng và chợt dừng lại. Anh quay đầu sang bên phải và nhìn thấy thứ mà ánh mắt anh chạm vào. Góc của một tờ giấy được giấu giữa tấm đệm và giát giường. Anh kéo nó ra, đây là các bản sao chép lại những bức vẽ của Botticelli trên khổ giấy A4.
“Địa ngục” của Dante.
Rất nhiều bản in li tô nhỏ màu nâu đỏ minh họa cho chín tầng địa ngục.
Brolin quỳ xuống, lùa tay vào sâu hơn dưới tấm đệm. Các ngón tay anh chạm vào một bề mặt cứng. Anh kéo ra một cuốn sách đã cũ nát. Một cuốn sách cổ, tinh xảo, bìa bọc da. Brolin mở trang đầu tiên, tựa sách hiện ra trong kiểu chữ gotic: Necronomicon. Một cuốn sách thánh về ma thuật.
Lần này thì không còn nghi ngờ gì nữa.
Milton Beaumont là một kẻ điên rồ.
Nhưng là một kẻ điên rồ vô cùng quỷ quyệt.