Đêm trước Giáng sinh Astorre đến dự buổi dạ tiệc do Nicole tổ chức. Khách mời là các đồng nghiệp, thành viên của nhóm pro bono và “Phong Trào Chống Án Tử Hình” yêu quý của nàng.
Astorre thích các buổi tiệc tùng. Chàng khóai tán dóc với những người khác biệt với chàng. Thỉnh thoảng chàng gặp những người đàn bà thú vị và có những cuộc tình ngắn ngủi với họ. Mỗi lần chàng hy vọng được yêu là một lần chàng thất bại. Đêm nay, không rụt rè hay bỡn cợt mà với một thái độ vui vẻ Nicole đã nhắc chàng nhớ lại chuyện tình lãng mạn tuổi hoa niên của hai người.
– Anh đã làm tan nát trái tim tôi khi nghe lời cha tôi rồi sang châu Âu, nàng nói.
– Chắc thế, Astorre xác nhận. Nhưng nó cũng không ngăn được chị gặp gỡ những anh chàng khác.
Vì lý do nào đó đêm nay Nicole rất quan tâm dến chàng. Nàng cầm tay chàng tình tứ, nàng hôn lên môi chàng, quấn quýt bên chàng như thể nàng biết rằng chàng sắp sửa thoát khỏi nàng lần nữa.
Điều đó làm chàng bối rối bởi lẽ con người mềm yếu năm xưa của chàng lại được đánh thức. Nhưng chàng hiểu, quay lại với Nicole sẽ là một sai lầm khủng khiếp tại giao lộ này của đời chàng. Với những quyết định phải thực hiện chàng không thẻ quay lại với nàng được nữa. Cuối cùng nàng dẫn chàng đến với một nhóm người và giới thiệu chàng với họ.
Đêm nay ở đây có cả một ban nhạc sống và Nicole mời chàng thể hiện chất giọng nay đã khàn nhưng vẫn trầm ấm của chàng. Họ cùng hát một bản ballad trữ tình Italy.
Khi chàng hát đoạn dạ khúc, Nicole đứng sát vào chàng và nhìn sâu vào mắt chàng tìm kiếm một điều gì đó trong tâm hồn chàng. Rồi, với một nụ hôn buồn chung cuộc, nàng để chàng đi.
Sau đó, Nicole dành cho chàng một sự ngạc nhiên. Nàng dẫn chàng tới bên một phụ nữ có vẻ đẹp kín đáo cùng đôi mắt xám thông minh.
– Astorre à, nàng nói, Đây là Georgette Cilke, chủ tịch Phong Trào Chống Án Tử Hình. Chúng tôi thường cộng tác với nhau.
Georgette bắt tay chàng và khen ngợi giọng hát của chàng.
– Anh làm tôi nhớ tới một Sinatra còn trẻ.
Astorre lộ vẻ vui mừng.
– Cảm ơn, chàng nói. Ông ấy là thần tượng của tôi. Tôi thuộc lòng toàn bộ những bài hát của ông.
– Chồng tôi cũng là một người rất hâm mộ Sinatra, Georgette nói. Tôi cũng thích âm nhạc của ông ta, nhưng tôi không thích cách ông ta xử sự với mọi người.
Astorre thở dài vì biết rằng chàng đang ở thế bất lợi trong một cuộc tranh luận, nhưng dù sao chăng nữa, giống như một người lính, chàng không được bỏ cuộc.
– Vâng, nhưng chúng ta phải tách bạch giữa một nghệ sỹ và một con người.
Việc Astorre dũng cảm tự vệ làm Georgette kinh ngạc.
– Chúng ta phải làm vậy sao ? Chị hỏi, mắt ánh lên tinh nghịch. Tôi không cho rằng chúng ta phải tha thứ cho thái độ vô ý thức và thô lỗ như vậy. Về bạo lực thì không còn gì để nói.
Astorre nhận thấy Georgette sẽ không chịu thua trong vấn đề này nên tất cả những gì chàng có thể làm là cất giọng ngâm nga vài đoạn của một trong những bản tình ca nổi tiếng nhất của Chaiman. Chàng nhìn sâu vào đôi mắt chị trong khi vẫn lắc lư theo điệu nhạc, và chàng thấy chị bắt đầu nở nụ cười.
– Tuyệt lắm, chị nói. Tôi phải công nhận rằng bài hát rất hay. Nhưng tôi vẫn không thể tha cho ông ta được. Chị âu yếm đặt tay lên vai chàng trước khi bị cuốn đi. Từ lúc đó Astorre luôn quan sát chị. Vẻ đẹp tự nhiên và tấm lòng nhân hậu của chị loại trừ bất kỳ hiểm họa nào mà sắc đẹp mang lại. Như tất cả mọi người ở trong phòng, Astorre cũng phải lòng chị chút ít. Tuy nhiên chị dường như thực sự chẳng biết gì về ảnh hưởng mình gây ra cho mọi người. Chị hoàn toàn không phải là loại phụ nữ thích được tán tỉnh.
Trước đó Astorre đã đọc những tài liệu của Marcantonio về Cilke, một thám tử bướng bỉnh trong việc truy lùng tội phạm, một người có năng lực trong công tác. Chàng cũng đọc được rằng vợ Cilke thực sự yêu ông. Quả là bí ẩn.
Giữa chừng buổi dạ tiệc Nicole tới bên chàng và nói nhỏ rằng Aldo Monza đang có mặt trong phòng lễ tân.
– Tôi xin lỗi, Nicole. Astorre nói. Tôi phải đi rồi.
– Ok, Nicole đáp. Tôi đang hy vọng anh sẽ tìm hiểu Georgette kỹ hơn. Chị ấy là một phụ nữ thông minh nhất và tốt nhất mà tôi từng gặp.
– Ừ, nàng đẹp thật, Astorre nói, và chàng thầm nghĩ chàng vẫn còn dại gái làm sao – mới chỉ một lần gặp gỡ mà đã mơ mộng như thế rồi.
Khi Astorre vào phòng lễ tân, chàng thấy Aldo Monza đang ngồi không yên trên một trong những chiếc ghế bành mảnh dẻ nhưng rất đẹp và quý giá của Nicole. Monza nhổm dậy và thì thầm với chàng:
– Chúng tôi đã tóm được hai thằng anh em sinh đôi. Bọn nó đang chờ cậu.
Astorre cảm thấy chán nản. Việc đó bắt đầu rồi đây. Thế là chàng một lần nữa được thử thách.
– Mất bao lâu mới lên tới đó? Chàng hỏi.
– Ít nhất là ba tiếng. Chúng mình gặp bão tuyết đấy.
Astorre nhìn đồng hồ. Đã mười rưỡi đêm.
– Ta đi thôi, chàng nói.
Khi họ rời tòa nhà tuyết rơi đầy trời, những chiếc ô tô bị tuyết vùi phân nửa. Chiếc xe Buick đen to đùng của Monza đang nằm đợi.
Monza cầm lái, Astorre ngồi cạnh hắn. Trời rất lạnh, và Monza bật hệ thống sưởi. Dần dần chiếc xe biến thành một cái lò nướng sặc mùi thuốc lá và rượu.
– Ngủ đi, Monza bảo Astorre. Chúng mình có một chuyến đi dài phía trước và một đêm bận rộn đấy.
Astorre để mặc thể xác chàng thư giãn và tâm trí chàng chìm vào những giấc mơ. Tuyết che mờ con đường. Chàng nhớ cái nóng như thiêu như đốt của Sicily và khoảng thời gian mười một năm ông Trùm đã chuẩn bị chàng cho nhiệm vụ cuối cùng này. Chàng biết rằng định mệnh của chàng là bất khả kháng.
Khi Astorre Viola mười sáu tuổi, ông Trùm Aprile thu xếp cho cậu đến London học tập. Astorre không hề ngạc nhiên. Lão đã gửi tất cả con cái mình tới các trường tư và để chúng lớn lên trong trường đại học. Làm như thế không chỉ vì lão tin vào hệ thống giáo dục mà còn vì lão muốn giữ chúng cách ly với việc làm và lối sống của riêng lão.
Ở London, Astorre sống cùng một đôi vợ chồng khá giả. Họ từ Sicily di cư đến và hình như có một cuộc sống rất dễ chịu ở Anh quốc. Họ ở độ tuổi trung niên và khong có con cái. Họ đã đổi tên mình từ Priola thành Pryor. Trông họ cực kỳ giống người Anh. Khí hậu Anh quốc đã làm nước da họ trở nên trắng trẻo. Cách ăn mặc và đi đứng của họ không còn dáng dấp Sicily. Khi đi làm ông Pryor đội chiếc mũ quả dưa và mang theo chiếc ô gấp, bà Pryor mặc những bộ đầm hoa và đội mũ trùm như những phụ nữ Anh mộc mạc.
Riêng ở nhà mình họ lại trở về với gốc gác của mình. Ông Pryor mặc những chiếc quần vá víu rộng thùng thình và những chiếc sơ mi đen cổ lọ, trong khi bà Pryor mặc một bộ váy áo đen rất rộng và nấu ăn theo kiểu Italy. Ông gọi bà là Marizza và bà gọi ông là Zu.
Ông Pryor là chủ tịch hội đồng quản trị của một nhà băng tư nhân, chi nhánh của nhà băng khổng lồ Palermo. Ông đối xử với Astorre như một đứa cháu họ yêu quý của mình nhưng vẫn giữ khoảng cách với cậu. Bà Pryor cho cậu ăn uống thỏa thuê và dành cho cậu tình yêu thương như thể cậu là thằng cháu đích tôn của bà vậy.
Ông Pryor giao cho Astorre một chiếc xe và một khoản sinh hoạt phí hậu hĩnh. Việc học hành đã được ấn định tại một ngôi trường nhỏ tối tăm gần London chẳng những nổi tiếng về đào tạo các chuyên ngành kinh doanh và ngân hàng mà còn cả trong lĩnh vực nghệ thuật.
Astorre ghi tên vào chương trình bắt buộc nhưng niềm say mê đích thực của cậu là học hát và diễn xuất. Cậu hoàn thiện thời khóa biẻu của mình với hai môn tự chọn là âm nhạc và lịch sử. Trong thời gian ở London, cậu quay ra say mê hình tượng môn thể thao săn cáo – không phải cậu mê việc bắn giết hay rượt đuổi mà là vẻ lộng lẫy của nó – những chiếc áo choàng đỏ, những con chó nâu và những chú ngựa ô.
Tại một trong các lớp diễn xuất, Astorre quen một cô gái trạc tuổi cậu, Rosie Connor. Nàng cực kỳ xinh xắn với một dáng vẻ ngây thơ có thể hủy diệt những chàng trai trẻ và khích động cả những người có tuổi. Nàng là người thông minh và đóng vài vai chính trong các vở diễn do lớp dàn dựng. Astorre ngược lại được phân những vai nhỏ hơn. Cậu cũng khá điển trai nhưng có cái gì đó trong cá tính ngăn cậu giãi bày cùng khán giả. Rosie không hề có vấn đề như vậy. Nàng diễn cứ như đang mời gọi từng khán giả quyến rũ nàng.
Họ còn học cùng tại các lớp xướng âm, và Rosie ngưỡng mộ giọng hát của Astorre. Hiển nhiên tay giáo viên không được nàng để ý đến, thế là y khuyên Astorre bỏ các khóa học nhạc lý. Ngoài giọng nói dễ chịu ra y chẳng có gì, tệ hại hơn, y chẳng hiểu quái gì về âm nhạc.
Chỉ sau hai tuần Astorre và Rosie đã là một cặp tình nhân. Trong việc này nàng có phần chủ động hơn cậu, dù lúc đó cậu yêu nàng điên cuồng – yêu điên cuồng như mọi chàng trai mười sáu tuổi. Cậu hoàn toàn quên Nicole. Rosie xem ra ngạc nhiên nhiều hơn là vui mừng. Nhưng vốn là một người tràn đầy sức sống, nàng vẫn thích cậu mỗi khi hai người bên nhau; ở trên giường nàng rất nồng nàn và luôn luôn hào phóng. Một tuần sau khi đã cặp với nhau nàng mua cho cậu một món quà tặng đắt tiền. Một chiếc áo khoác đi săn màu đỏ cùng một chiếc mũ da mềm màu đen và một chiếc roi da rất đẹp. Nàng tặng chúng phần nào cũng chỉ để rỡn chơi.
Như những cặp tình nhân trẻ vẫn làm, họ kể cho nhau những chuyện đời mình. Rosie kể với cậu rằng cha mẹ nàng sở hữu một khu nhà lớn ở Nam Dacota, rằng nàng đã trải qua thời thơ ấu tại thị trấn Plains tẻ nhạt. Cuối cùng nàng phải năn nỉ xin đi học kịch nghệ ở Anh quốc để thoát khỏi nơi đó. Tuy nhiên tuổi ấu thơ của nàng không hoàn toàn chỉ là mất mát. Nàng đã học cưỡi ngựa, đi săn và trượt tuyết, và ở trường trun học nàng là một ngôi sao của câu lạc bộ kịch nghệ cũng như sân quần vợt.
Astorre mở lòng mình ra với nàng. Cậu nói cậu muốn trở thành ca sỹ, cậu yêu lối sống Anh với những kiến trúc thời trung cổ, với quang cảnh tráng lệ huy hoàng của nó, với những trận đấu polo (1) và săn cáo. Nhưng cậu không hề hé răng với nàng về ông bác của mình, Trùm Raymonde Aprile, và những lần viếng thăm Sicily của cậu thời thơ ấu.
Nàng bắt cậu mặc bộ đồ đi săn và rồi lại cởi đồ của cậu ra.
– Anh đẹp quá, nàng nói. Có lẽ anh là một nam tước người Anh thuở trước cũng nên.
Đây là vai diễn duy nhất của nàng làm Astorre khó chịu. Nàng thực tâm tin vào sự đầu thai. Nhưng rồi khi làm tình với cậu nàng quên hết sự đời. Có vẻ như cậu chưa bào giờ hạnh phúc đến thế, trừ quãng thời gian sống ở Sicily.
Nhưng rồi cuối năm ông Pryor gọi Astorre vào phòng riêng để báo cho cậu vài tin xấu. Ông mặc quần dài và áo khoác của nông dân, đội một chiếc mũ lưỡi trai kẻ ca rô kéo trễ xuống tận mắt.
Ông bảo Astorre:
– Chúng tôi rất vui được có cậu ở cùng. Bà nhà tôi thích nghe cậu hát. Nhưng bây giờ rất tiếc chúng tôi phải nói lời từ biệt. Ngài Raymonde đẽ yêu cầu cậu phải đến Sicily sống cùng người bạn tốt Bianco của ngài. Có vài việc cậu phải học ở đó. Ngài muốn cậu trở thành một người Sicily. Cậu biết việc đó có ý nghĩa như thế nào rồi.
Tin này làm Astorre bị sốc nhưng cậu không bao giờ thắc mắc về những gì cậu phải chấp hành và mặc dù mong mỏi được trở lại Sicily, cậu vẫn không thể nào chịu đựng nỗi ý nghĩ sẽ không bao giờ gặp lại Rosie. Cậu hỏi ông Pryor:
– Nếu như mỗi tháng tôi đến London một lần, liệu tôi có thể về ở cùng hai bác?
– Tôi sẽ bị mếch lòng nếu cậu không làm thế, ông Pryor nói. Nhưng tại sao hả?
Astorre kể về Rosie, bày tỏ tình yêu của cậu với nàng.
– À, ông Pryor buông một tiếng thở dài nhẹ nhõm. Cậu thật may mắn được chia tay với người mình yêu. Sướng thật. Còn cô bé đáng thương đó, làm sao cô ấy sẽ chịu đựng được đây. Nhưng cứ đi đi, đừng lo lắng gì. Cứ để lại cho tôi tên và địa chỉ, tôi sẽ trông nom cô ấy.
Astorre và Rosie có một cuộc chia tay đầy nước mắt. Cậu hứa mỗi tháng sẽ bay về London một lần để gặp nàng. Nàng hứa sẽ không bao giờ nhìn một người đàn ông nào nữa. Đó là một cuộc chia xa đầy thú vị. Astorre lo lắng về nàng. Ngoại hình của nàng, tính tình nhí nhảnh của nàng, nụ cười của nàng luôn luôn mời chào quyến rũ. Chính những phẩm chất mà vì chúng cậu đã yêu nàng lại luôn luôn là một mối nguy hiểm. Cậu đã thấy nó nhiều lần. Như những người đang yêu khác, cậu tin rằng tất cả đàn ông trên đời đều thèm muốn người đàn bà cậu yêu, rằng họ cũng bị sắc đẹp, trí thông minh và vẻ hoạt bát của nàng hấp dẫn.
Ngay ngày hôm sau Astorre đáp máy bay đi Palermo. Bianco đón cậu. Lão đã thay đổi nhiều. Người đàn ông to lớn bây giờ mặc bộ đồ vét bằng lanh cắt may và đội một chiếc mũ trắng rộng vành. Lão ăn mặc như vậy cho hợp với địa vị của mình vì bây giờ cosca của Bianco thống lĩnh phần lớn công cuộc xây dựng tại chiến địa Palermo. Mảnh đất này đã khấm khá lên nhưng lại phức tạp hơn nhiều so với ngày xưa. Lão phải mua chuộc cá quan chức thành phố và cả ở Rome, đồng thời phải bảo vệ lãnh thổi của mình trước các cosca thù địch như cosca hùng mạnh Corleone.
Octavious Bianco làm Astorre bối rối. Lão nhắc lại vụ bắt cóc nhiều năm trước rồi nói về chỉ thị của ông Trùm Raymonde. Astorre phải được huấn luyện thành vệ sỹ của Bianco và phải học các hợp đồng kinh doanh. Việc này sẽ kéo dài ít nhất năm năm, đến lúc đó Astorre hẳn đã trở thành một người Sicily chính cống, hoàn toàn xứng đáng với niềm tin của ông bác cậu. Cậu có một lợi thế ban đầu: Vì đã tới đây hồi nhỏ nên cậu có thể nói thổ ngữ Sicily như tiếng mẹ đẻ.
Bianco sống trong một biệt thự khang trang ngay tại ngoại ô Palermo cùng những người hầu và một đội bảo vệ suốt ngày đêm. Nhờ giàu sang và đầy quyền lực, giờ đây lão có quan hệ gần gũi với tầng lớp thượng lưu Palermo. Ban ngày Astorre được học bắn súng và chất nổ, được hướng dẫn cách giết người bằng dây thừng. Tối tối Bianco đưa cậu đi gặp gỡ bạn bè tại tư gia của họ và tại các quán cà phê. Thỉnh thoảng họ tới dự các vũ hội nơi Bianco là bồ bịch của những bà góa giàu có và Astorre hát những bản tình ca mượt mà cho đám con gái họ.
Cái làm Astorre ngạc nhiên nhất là một vụ hối lộ công khai các quan chức cấp cao ở Rome.
Vào một ngày chủ nhật, bộ trưởng bộ Tái thiết đến thăm và vui vẻ, không hề có một biểu hiện ngượng ngập nào, cầm lấy chiếc cặp đựng đầy tiền mặt. Ông ta cảm on Bianco hết lời. Bằng một giọng đầy hối lỗi ông ta giải thích rằng một nửa số tiền phải nộp cho đích thân ngài thủ tướng Italy. Sau đó, khi Astorre và Bianco trở về nhà, Astorre thắc mắc liệu chuyện đó có thực hay không.
Bianco nhún vai.
– Một nửa thì không, nhưng ta hy vọng cũng có chút ít. Âu cũng là vinh dự được biếu ĐỨC ÔNG một ít tiền tiêu vặt.
Năm sau Astorre thường tới London thăm Rosie, mỗi lần cả đi lẫn về hết một ngày đêm. Đó là những đêm tràn đầy hạnh phúc đối với cậu.
Cũng năm đó cậu lần đầu tiên được thử lửa. Một cuộc ngưng chiến được sắp đặt giữa Bianco và cosca Corleone. Thủ lĩnh đám Corleone tên là Tosci Limona, một người mắc bệnh ho nặng. Limona có cái nhìn dữ tợn và cặp mắt sâu. Ngay cả Bianco cũng ít nhiều e sợ lão.
Cuộc hội kiến giữa hai thủ lĩnh phải diễn ra trên phần đất trung lập và có sự góp mặt của một trong những thẩm phán cấp cao nhất Sicily.
Vị thẩm phán, được gọi là “Sư tử xứ Palermo” rất tự hào về những việc làm đồi bại của mình. Y giảm án cho những tên mafia phạm tội và từ chối cho phép các cuộc điều tra được tiếp tục. Y không hề giấu diếm tình bạn của y với cosca Corleone và Bianco. Y có một khu dinh thự đồ sộ nằm cách Palermo mười dặm. Và cuộc hội kiến được trù tính sẽ diễn ra ở đó nhằm bảo đảm rằng bạo lực sẽ không được sử dụng.
Hai thủ lĩnh được phép mang theo mỗi người bốn vệ sỹ. Đồng thời họ phải trả lệ phí cho “Sư tử” vì đã thu xếp cuộc hội kiếm và phải chịu trách nhiệm về việc đó, và đương nhiên cả vì phải thuê nhà y.
Với bờm tóc trắng rậm rịt gần như che kín khuôn mặt, “Sư tử” quả là hình ảnh về ngành luật đáng tôn kính.
Astorre chỉ huy nhóm vệ sỹ của Bianco, và mối thịnh tình giữa hai thủ lĩnh đã gây ấn tượng với cậu. Limona và Bianco dành cho nhau những cái ôm hôn và bắt tay rõ chặt. Họ cười và thì thầm thân mật trong suốt bữa tối thịnh soạn mà “Sư tử” đã khoản đãi họ.
Vì thế cậu rất ngạc nhiên khi bữa tiệc kết thúc, chỉ còn Bianco và cậu bên nhau, Bianco bỗng nói với cậu,
– Chúng ta phải hết sức cẩn thận. Thằng con hoang Limona này đang tính hạ tất cả chúng ta đấy.
Và hóa ra Bianco đã đúng.
Một tuần sau, một thanh tra cảnh sát có tên trong danh sách trả lương của Bianco bị ám sát khi rời nhà cô bồ của mình. Hai tuần sau vụ đó, một trong những nhân vật nổi bật của xã hội ở Palermo, một khách hàng trong lĩnh vực xây dựng của Bianco, bị giết bởi một nhóm người đeo mặt nạ. Bọn người này xông vào nhà và hạ thủ y bằng nhiều phát đạn.
Bianco đáp lại bằng việc tăng cường thêm vệ sỹ và áp dụng những biện pháp đặc biệt để bảo vệ những chiếc xe lão thường sử dụng. Cánh Corleone nổi tiếng về kỹ năng sử dụng thuốc nổ nên cuối cùng Bianco cũng chẳng muốn đi đâu xa, chỉ quanh quẩn nơi biệt thự của lão.
Nhưng rồi một ngày Bianco phải đi Palermo để hối lộ hai viên chức cấp cao của thành phố và lão quyết định ăn tối tại một nhà hàng yêu thích của mình. Lão chọn một chiếc Mercedes và một lái xe kiêm vệ sỹ hàng đầy. Astorre ngồi ở băng sau cùng lão. Một chiếc xe chạy trước, một chiếc chạy sau, mỗi xe ngoài tài xế còn có hai người đàn ông có vũ trang.
Khi họ đang đi trên con đường rộng rãi có trồng cây ở giữa thì bất thình lình một chiếc xe mô tô chở hai người từ một lề đường lao rút ra. Tên ngồi sau cầm khẩu súng trường Kalashnikov nhả đạn về phía chiếc xe Mercedes. Nhưng Astorre đã kịp đẩy Bianco xuống sàn xe và bắn trả khi chiếc môtô lao vút qua. Nó lăn xuống phía bên kia đường rồi biến mất.
Ba tuần sau, một đêm tối trời, năm gã đàn ông đã bị bắt và đưa về biệt thự của Bianco, ở đây chúng bị trói chặt và tống vào hầm chứa.
– Chúng là bọn Corleone đấy, Bianco bảo Astorre. Hãy xuống hầm chứa cùng ta.
Những kẻ xấu số bị trói theo kiểu nông dân của Bianco, chân tay bị khóa chặt. Những người gác có vũ trang đứng bên trên chúng. Bianco giật lấy một trong những khẩu súng của đám lính gác rồi không nói không rằng bắn vào gáy cả năm.
– Ném chúng ra đường phố Palermo, lão ra lệnh. Sau đó lão quay sang Astorre, khi cậu đã quyết định giết người thì không được nói năng gì với chúng. Điều đó sẽ làm cho cả hai bên đều bối rối.
– Họ có phải là bọn đi mô tô không? Astorre hỏi.
– Không, Bianco trả lời. Nhưng chúng sẽ được việc đấy.
Và đúng như vậy. Từ đó trở đi hòa bình đã ngự trị giữa hai cosca Palermo và Corleone.
Đã hai tháng rồi Astorre chưa quay lại London thăm Rosie. Một sớm cậu nhận được điện thoại của nàng. Cậu đã cho nàng số điện thoại chỉ để sử dụng trong trường hợp khẩn cấp.
– Astorre, giọng nói của nàng rất bình tĩnh. Anh có thể về ngay được không?
– Nói anh nghe có chuyện gì vậy? Astorre hỏi.
– Em không thể nói qua điện thoại được. Rosie đáp. Nhưng nếu anh thực sự yêu em, anh sẽ về.
Khi Astorre xin phép Bianco cho cậu lên đường, lão nói, mang tiền đi. Rồi lão đưa cho cậu một gói tiền bảng to tướng.
Khi Astorre gõ cửa căn hộ của Rosie, nàng cho cậu vào rất nhanh rồi cẩn thận khóa cửa lại. Mặt nàng trắng bệch, nàng khoác một chiếc áo choàng rộng thùng thình trước đây cậu chưa từng nhìn thấy. Nàng trao cho cậu một nụ hôn chứa đựng lòng biết ơn.
– Anh sẽ giận em mất thôi, nàng buồn rầu nói.
Lúc đó Astorre nghĩ rằng nàng có mang, và cậu nói nhanh.
– Em yêu, anh không bao giờ giận em cả.
Nàng ôm chặt lấy cậu.
– Anh đi biền biệt hơn một năm. Em đã cố gắng chờ đợi. Nhưng anh đi lâu quá.
Ngay lập tức Astorre hiểu ra vấn đề. Cậu như bị dội một gáo nước lạnh. Một lần nữa lại là sự phản bội. Nhưng ở đây còn có gì hơn thế nữa. Tại sao nàng lại muốn cậu về ngay như vậy chứ?
– Được rồi, cậu nói, tại sao anh lại phải về?
– Anh phải giúp em, Rosie nói, rồi nàng dẫn cậu vào phòng ngủ.
Có một cái gì đó trên giường. Astorre lật tấm khăn trải giường ra và thấy một người đàn ông trung niên đang nằm ngửa, hoàn toàn trần truồng nhưng với một dáng vẻ trang nghiêm, một phần là bởi chòm râu dê bạc trăng, nhưng hơn cả có lẽ bởi những đường nét tao nhã trên mặt ông ta. Cơ thể ông ta gầy gò, có một mớ lông rậm rì vắt ngang trên ngực, và lạ lùng hơn cả, ông ta đeo một chiếc kính mạ vàng và trên đôi mắt vẫn mở trừng trừng. Mặc dù cái đầu quá to so với thân hình nhưng ông ta vẫn là người điển trai. Ông ta hình như đã chết tuy trên người không hề có thương tích. Chiếc kính bị cong và Astorre cầm lên nắn lại cho thẳng.
Rosie thì thầm
– Chúng em đang làm tình thì anh ấy lên cơn co thắt dữ dội. Hẳn là anh ấy bị bệnh tim.
– Chuyện xảy ra khi nào? Astorre hỏi. Cậu hơi bị choáng.
– Đêm qua, Rosie trả lời.
– Sao em không gọi cấp cứu? Astorre hỏi. Đó có phải là lỗi của em đâu?
– Anh ấy đã có vợ và có lẽ em cũng có lỗi. Bọn em xài amyl nitrate. Anh ấy có trục trặc trong việc đạt khoái cảm. Nàng nói ra điều đó mà không hề bối rối.
Sự bình tĩnh của nàng làm Astorre kinh ngạc. Nhìn vào xác chết, cậu có một niềm thương cảm kỳ lạ, bống thấy cần phải mặc đồ cho nó. Ông ta quá già để mà trần truồng, ít nhất cũng năm mươi – cứ để thế này thật không phải. Cậu hỏi Rosie với một thái độ ngờ vực của giới trẻ.
– Em cần cái gì ở thằng cha này?
– Anh ấy là giáo sư sử học của em, Rosie nói. Anh ấy thực ngọt ngào và tốt bụng. Đây chỉ là một việc bốc đồng. Mà cũng chỉ mới là lần thứ hai. Em cô đơn quá. Nàng ngừng lại, rồi nhìn thẳng vào mắt cậu, anh phải giúp em.
– Có ai biết lão ta hú hý với em không? Astorre hỏi.
– Không.
– Anh vẫn nghĩ chúng mình phải gọi cho cảnh sát.
– Không được. Nếu anh sợ em sẽ tự lo liệu việc này.
– Thay đồ đi, Astorre nói với một cái nhìn nghiêm khắc. Cậu kéo tấm ra đắp lên xác người đàn ông.
Một tiếng sau họ có mặt tại nhà Pryor, đích thân ông ra mở cửa. Không nói một lời, ông dẫn họ vào phòng riêng và chăm chú lắng nghe câu chuyện của họ. Ông rất có cảm tình với Rosie. Ông vỗ nhẹ tay nàng an ủi, và thế là Rosie òa khóc. Pryor bỏ mũ ra rồi tắc lưỡi thông cảm.
– Đưa chìa khóa căn hộ cảu cháu cho ta, ông bảo Rosie. Đêm nay ở lại đây. Ngày mai cháu có thể về nhà và mọi thứ sẽ đâu vào đấy như cũ. Người bạn của cháu lúc đó đã biến mất. Cháu sẽ ở lại đây một tuần trước khi về Mỹ.
Ông chỉ phòng ngủ cho họ cứ như thể ông cho rằng những gì vừa xảy ra chẳng hề làm hoen ố cuộc tình của họ. Và rồi ông bỏ họ lại để đi lo công việc của mình.
Astorre nhớ mãi đêm hôm đó. Cậu nằm trên giường với Rosie, an ủi nàng, lau nước mắt cho nàng.
– Đấy mới chỉ là lần thứ hai, nàng thì thầm với cậu. Em chẳng cần gì cả. Chúng mình thân thiết với nhau thế cơ mà. Em nhớ anh. Em chỉ ngưỡng mộ trí tuệ của anh ấy, và rồi một đêm chuyện đó xảy ra. Anh ấy không đạt được khoái cảm, mà em ghét phải nói điều này về anh ấy, nhưng anh ấy thậm chí không thể duy trì tình trạng cương cứng. Thế là anh ấy đòi dùng nitrate.
Nàng tỏ ra quá tổn thương, quá đau khổ, quá suy sụp tinh thần bởi toàn bộ tấn bi kịch này. Astorre chỉ còn nước an ủi nàng. Nhưng có một cái gì đó kẹt lại trong tâm trí cậu. Nàng đã ở trong nhà cùng một xác chết hơn hai mươi tư tiếng đồng hồ cho đến khi cậu tới. Đấy là một điều bí ẩn, và nếu đã có một điều bí ẩn thì có thể còn những bí ẩn khác. Nhưng rồi cậu vẫn lau sạch nước mắt nàng, hôn lên má nàng để làm nàng yên lòng.
– Anh có còn gặp lại em không? Nàng hỏi cậu, đồng thời nàng áp mặt vào vai cậu, làm cho cậu cảm nhận được cơ thể mềm mại của nàng.
– Tất nhiên anh sẽ gặp lại em, Astorre đáp. Nhưng trong thâm tâm cậu không dám chắc lắm.
Sáng hôm sau ông Pryor lại xuất hiện và bảo Rosie rằng đã có thể trở về căn hộ của nàng. Ông nồng nhiệt nhận cái ôm tỏ lòng biết ơn của Rosie. Một chiếc xe của ông đang chờ nàng.
Sau khi nàng đi rồi, ông Pryor, đường hoàng với chiếc mũ quả dưa và cây dù xếp, đưa Astorre ra sân bay.
– Đừng lo lắng về cô gái, ông Pryor nói. Chúng tôi sẽ quan tâm đến tất cả mọi cái.
– Cho tôi biết đi, Astorre đề nghị.
– Tất nhiên rồi. Đây là một cô gái tuyệt vời. Một nữ Mafiso. Cậu phải tha thứ cho chút tội lỗi của cô ấy.
(1) Polo: Môn thể thao người chơi ngồi trên ngựa sử dụng những câu sào dài để đưa banh vào gôn.