Tôi thấy thi thể Na vương trong quan tài đã xảy ra thi biến, hìnhdạng đúng như ác mộng trong bức họa thì vô cùng sợ hãi, một nỗi kinhhoàng tràn ngập toàn thân từ đầu đến chân, sợ tới hồn bay phách lạc,không dám nhìn thêm một giây nào, tôi cùng hai người kia khiêng Điếu bát chạy vội vào đường hầm, cố gắng đóng kín cánh cửa đá rồi chạy thục mạng trong đường hầm ngoằn ngoèo gập ghềnh lúc cao lúc thấp, đánh rơi đènpin cũng không dám dừng lại nhặt, cứ vậy vừa chạy vừa vấp ngã trongđường hầm tối đen. Một lúc lâu sau, khi thấy sau lưng không còn có độngtĩnh gì mới dám dừng lại. Ba người ngồi bệt xuống đất thở không ra hơi,tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Khi hơi thở đã hơi ổn định, tôi đưa mắt nhìn xung quanh, nhưng chẳngthấy được gì trong bóng đêm đen kịt, mò trong túi lấy được chiếc đèn pin dự phòng, ánh sáng vừa bật lên thì mặt Mặt dày hiện ra trước mắt tôi.
Lão ta nói: “Mẹ cha nó, kinh khủng thật, bọn mình… vẫn chưa chết sao?”
Tôi lắc đầu bất lực, quay sang thấy Điếu bát đã hôn mê bất tỉnh, mặttrắng như tờ giấy, tình hình có vẻ nguy kịch, không khỏi lo cho anh talỡ ba dài hai ngắn thì nguy tới tính mạng. Tại sao lại nói “ba dài haingắn”, khi người chết nhập quan, quan tài chưa đóng nắp thì ta thấy bamiếng ván dài hai miếng ván ngắn, nên dùng từ này để ám chỉ người sắpphải vào quan tài rồi. Tôi suy nghĩ: “Không biết người chết trong quantài là yêu ma hay là quỷ quái, nhưng chắc chắn là không thể đối phó được với nó. Cố tìm đường mà chạy thoát, sống thêm được ngày nào hay ngàyđó, không thể để Mặt dày và Điền Mộ Thanh bỏ mạng ở đây.”
Tôi dùng đèn pin soi sáng, thấy Điền Mộ Thanh đã lấy khăn tay băng bó vết thương, nhưng vì vết cứa quá sâu nên chảy khá nhiều máu. Tôi bỗngbuột miệng hỏi: “Cô là ai?”
Điền Mộ Thanh nhìn tôi khó hiểu. “Anh hỏi gì lạ lùng thế?”
Tôi nói: “Không phải tôi hỏi lạ lùng, mà sự việc có gì đó không đúng. Rõ ràng bọn nhện đã cắn chết bọn Hoàng phật gia, nhưng khi tiến gần đến chúng ta thì đột nhiên bỏ đi. Lúc đó, tôi thấy tay cô bị chảy máu nhỏxuống cả sàn nhà, bọn nhện ăn thịt người không nhả xương đó trông thấylà bỏ chạy tán loạn, có phải cô cố tình làm đứt tay không? Tại sao bọnnhện lại sợ máu của cô?”
Điền Mộ Thanh giải thích: “Anh đa nghi quá đấy, tôi chỉ không may cứa đứt tay thôi.”
Mặt dày lên tiếng: “Tôi thấy cậu sợ quá đâm ra lẩn thẩn, nếu nói là chảy máu thì Điếu bát chẳng phải chảy còn nhiều hơn sau?”
Tôi nói với Mặt dày: “Chuyện này không đơn giản như vậy đâu. Chỉ nghe thấy cuộc nói chuyện của tôi và Lư mặt rỗ ở trên tàu mà cô ấy thân gáimột mình dám đi vào nơi rừng hoang núi thẳm này. Tôi thấy cô ấy gặpchuyện vẫn giữ được bình tĩnh, còn to gan hơn cả Điếu bát, lúc nào cũngmang vẻ mặt đầy tâm trạng, có điều cô ấy lại rất sợ hai cỗ quan tàitrong địa cung, dường như cô ấy biết không ít bí mật về ngôi mộ cổ trong núi Hùng Nhĩ này. Nhưng dù sao đây cũng chỉ là cảm giác của tôi, chotới lúc tôi nhìn thấy cô ấy bị đứt tay chảy máu khiến bọn nhện sợ hãi bỏ chạy thì tôi càng thấy…”
Điền Mộ Thanh nói: “Các anh cứu thoát tôi từ tay bọn Hoàng phật gia,tôi cảm tạ vô cùng. Còn chuyện tôi là ai thì tùy anh muốn nói gì thìnói.” Nói đến đó, mắt Điền Mộ Thanh đỏ hoe, cô gần như sắp khóc.
Mặt dày quay sang trách tôi: “Đang lúc gay go tới tính mạng mà cậucòn làm cho cô ấy khóc nữa”, rồi quay sang an tủi Điền Mộ Thanh: “Côđừng chấp thằng đó, nó xem phim ‘Liêu trai’ nhiều quá nên bị ngộ rồi,đêm nào cũng nằm mơ thấy ma quỷ về bắt mình.”
Tôi nói: “Ma quỷ trong phim ‘Liêu trai’ ai nấy đều mặt hoa da phấn, có gì mà sợ, chẳng bằng một góc trong tiểu thuyết kinh dị.”
Mặt dày nói: “Phim ‘Liêu trai’ thành tiểu thuyết từ lúc nào đấy? Sao tôi lại không biết?”
Tôi không thèm đôi có với Mặt dày, quay sang nói với Điền Mộ Thanh:”Cô có khóc cũng không có tác dụng gì, tôi không nhìn nhầm đâu, nhữnglời tôi nói hôm nay nếu sai nửa chữ thì tôi…”
Vừa nói tới đó, tôi chợt nhớ lại mấy hôm trước, lúc chúng tôi nghỉchân tại quán trọ bỏ hoang ở Thảo Hài Lĩnh, may nhờ mấy chiếc mặt nạ của xác chết nên mới đuổi được con rắn mối khổng lồ, hóa ra trên mặt nạ vỏcây có thạch hoàng, thứ đó đuổi được rắn. Chúng tôi sợ sau này dọc đường lại gặp phải rắn mối nên đã cạy mấy viên thạch hoàng, rồi mang theo bên mình. Vừa nãy trong địa cung gặp phải lũ nhện ăn thịt người, khôngchừng cũng chính nhờ có thạch hoàng nên đã đuổi được lũ nhện đó đi, nếuđúng vậy thì chẳng phải tôi đã trách oan Điền Mộ Thanh rồi sao?
Nên chưa nói hết câu tôi đã vội ngậm miệng lại, đổi giọng: “Nếu tôicó nói sai thì coi như tôi chưa nói gì, không phải tôi coi cô là ngườingoài, giờ chúng ta không còn phân biệt người trong người ngoài nữa rồi, tôi thấy chỗ này không tiện ở lâu, chúng ta nghỉ cũng kha khá rồi, phải đi tiếp thôi.”
Điền Mộ Thanh chẳng hiểu tại sao tôi lại đổi giọng nhanh thế, nhưngcũng không có ý trách tôi. Chúng tôi vẫn sợ thây ma trong chính điệntiếp tục đuổi theo nên chỉ dám nghỉ ngơi một chút rồi lại cõng Điếu bátlên lưng tiếp tục tháo chạy theo lối đường hầm. Khi chạy tới cuối đườnghầm, chúng tôi thấy một cánh cửa đá rất thấp, chui qua cánh cửa đó rangoài, chỉ thấy phía trước mờ mịt sương mù, cỏ dại mọc um tùm, phía sauchúng tôi là một đồi đất cao không nhìn thấy ngọn. Hóa ra chúng tôi đãra khỏi địa cung nhưng không biết tự lúc nào, mặt hồ đã biến mất khôngnhìn thấy nữa, những mái nhà xung quanh bị vùi trong bùn đất nhấp nhônhư những ngôi mộ.
Cả ba chúng tôi đều điếng người, cũng không dám đứng lâu trong ngôilàng ma quỷ này, vội vã len lỏi trong những dãy nhà để thoát ra khỏithôn làng.
Ngôi mộ cổ trên núi Hùng Nhĩ chỉ có phần nấm mồ là nhô lên khỏi mặtnước, người dân trong vùng gọi đó là Tiên Đôn, chúng tôi vào đây rồi mới biết, thực ra đó chính là một ngọn núi, dưới chân núi là nhà dân, đó là số người dân ở lại nơi đây canh lăng tẩm, sau đó cả vùng này bị nhấnchìm xuống đáy hồ, chỉ còn ngọn núi là nhô lên khỏi mặt nước, phía bắcchính là động Ngư Khốc, Thảo Hài Lĩnh.
Giờ chúng tôi nên đi về hướng bắc, bỗng nghe thấy tiếng sấm dội bêntai, trời bỗng đổ mưa, mây mù có tan đi phần nào. Tầm nhìn tốt hơn,chúng tôi trông thấy phía trước là rừng, cây cối rậm rạp, phía trước làmột màu tối đen vô tận.
2
Mưa mỗi lúc một to và dày hạt hơn, đang lúc giữa tiết mùa thu, thờitiết trong núi lạnh lẽo, tê buốt không thể chịu được, chúng tôi ướtnhẹp, dò dẫm từng bước đi về phía ven rừng. Chúng tôi nhìn thấy mấy gian nhà cổ dưới một gốc cây đã chết khô, trong nhà không đèn không đómnhưng làm chỗ trú mưa cũng được, chúng tôi đành phải vào trong lánh tạm, đợi tới sáng mai rồi đi tiếp vậy. Lại gần mới thấy, căn nhà lớn này tận dụng nguyên liệu ngay tại vùng, được xây bằng những viên đá khối xẻtrong núi, trát bằng đất và vôi, cột gỗ cái nào cái nấy to lớn, chắcnịch, hết sức kiên cố. Chúng tôi bước vào gian nhà to đầu tiên, chỉ thấy bên trong trống tuềnh trống toàng, trên tường có vài cái hốc để đặtđèn, khắp nơi bám đấy bụi bặm, vì đã lâu không có người sinh sống, nênmùi ẩm mốc lẫn với mùi thối rữa của cây cối bốc lên vô cùng khó chịu.
Chúng tôi tháo ba lô ra, tìm chỗ đặt Điếu bát nằm xuống, vần mấy viên đá bịt kín cửa ra vào, trong ba lô Mặt dày còn một túi nến nữa, anh tathắp một cây đặt ở góc nhà.
Tôi thấy Điếu bát vẫn đang hôn mê nhưng hơi thở vẫn đều đặn nên cũngyên tâm phần nào. Tôi lấy ra hai điếu thuốc lá, vứt cho Mặt dày mộtđiếu, hai người ngồi dựa lưng vào tường rít mấy hơi liền. Nghĩ lại cảnhtượng vừa rồi trong địa cung, cánh tay cầm thuốc của tôi vẫn run lên sợhãi.
Mặt dày lật xem tấm bản đồ của Điếu bát, hỏi: “Cậu nhìn xem, trên bản đồ sao không có chỗ này?”
Tôi nói: “Chúng ta ra khỏi địa cung đi theo hướng Bắc, phía Bắc chính là động Ngư Khốc, nhưng sao lúc tới đây bọn mình không nhìn thấy khurừng này nhỉ? Đúng là gặp ma rồi, cái nơi quỷ quái này lại còn vừa mưavừa sương mù, chắc phải chờ trời sáng mới phân biệt được vị trí, mong là đừng xảy ra chuyện.”
Mặt dày nói: “Đã ra khỏi khu mộ cổ rồi còn sợ gì nữa? Chuyến này bọnmình thu được chiếc vương miện vàng và dây lưng bằng ngọc nhưng lạichẳng thuận lợi chút nào, lần sau xuất hành phải xem ngày giờ mới được,không thể đi vào ngày kỵ động thổ.”
Tôi nói: “Ông đúng là chẳng biết gì, động thổ là chỉ chuyện hạ huyệtdời mộ, liên quan gì đến đổ đấu? Có ai đi đào mộ trộm đồ còn xem ngàyxem giờ không? Kiếm cơm bằng cái nghề đổ đấu này chỉ dựa vào gan tokhông mê tín, chẳng kiêng kỵ gì sất. Đương nhiên vẫn có những tay trộmmộ mê tín, nhưng không phải là chuyện xem ngày giờ, bọn họ thường nghetheo Xuất ngữ.”
Mặt dày không hiểu: “Xuất ngữ à? Là cái gì?”
Tôi giải thích: “Cũng giống như dân giang hồ hay nói tới khái niệmcon số may mắn, nó có hơi hướng giống như phong tục ngày Tết, ngày mồngmột ra đường thường để ý tới người đầu tiên nói chuyện với mình, theoquan niệm mê tín của người xưa thì trong câu nói đầu tiên của năm mớinày ẩn chứa hung cát, chính là dự báo cho vận hạn của năm mới. Lão Nghĩa mù nhà tôi lúc còn sống rất tin vào điều này. Vào đêm ba mươi, sau khiđã ăn tối, thắp hương cúng bái xong là đi ra ngoài để nghe Xuất ngữ. Màcũng không phải thích đi hướng nào thì đi đâu, phải thỉnh ý kiến của Sưtổ, mà bài vị của Sư tổ nào có biết nói, đành mượn cái thìa chỉ hướngvậy, kính cẩn đặt cái thìa trước bài vị xong xoay một vòng, chiếc thìachỉ vào hướng nào thì xuất hành theo hướng đó. Nếu chỉ về hướng đông thì ra cửa xuất hành theo hướng đông, nếu hướng đó là một ngõ cụt, khôngcòn cách nào khác phải quay về thì phải thỉnh ý kiến Sư tổ một lần nữa,lần này là hướng bắc, vừa vặn hướng bắc là chỗ trú chân của một tên ănmày. Đêm ba mươi thì ăn mày không ra đường ăn xin, bụng rỗng thì đànhphải đi ngủ sớm, canh tư mò dậy đi tiểu, đúng lúc lão Nghĩa mù đi ngangqua, nghe tiếng nước chảy thì mừng thầm trong bụng, cứ cho rằng gặp nước là phát tài, thật là một điềm may, trong năm nay ắt thu được nhiều mónhời. Nếu không đi ra ngoài thì canh năm dậy đốt pháo rước thần tài,tiếng pháo nổ có đẹp hay không cũng là điềm báo cho năm mới. Lão Nghĩamù rất tin vào những điều này, có đúng hay không tôi cũng không biết,nhưng bản thân tôi thì chẳng mấy tin vào những thứ đó.”
Dù sao tôi cũng không yên tâm về ngôi nhà không có trong bản đồ này,nói chuyện với Mặt dày vài câu bỗng thấy càng ngày càng lạnh, dặn dò Mặt dày và Điền Mộ Thanh trông nom Điếu bát, tôi ra ngoài kiếm ít củi vềđốt.
Điền Mộ Thanh lạnh run cầm cập, cô không chịu nổi gian nhà to âm u lạnh lẽo này, cứ đòi đi theo tôi.
Tôi nghĩ ngợi một lúc rồi cũng đồng ý, mang theo súng săn và đèn pin, giao cho Điền Mộ Thanh một cây nến, chúng tôi đẩy cửa vào gian phòngthứ hai, gian phòng này còn to hơn gian trước, sáu cột năm dầm, bệ cộtđá hình hoa sen, trông như một gian điện, mấy bức tượng giữa phòng đã bị đổ sập, trên tường chi chít bích họa, đều phủ dày bụi bặm, màu sắc mờnhạt nhưng vẫn còn xem được nội dung.
Tôi nhất thời không nói được gì, thần người ra một lúc mới lên tiếng: “Thần thổ địa lấy ráy tai xây tường chắc – vô lý thật! Đây chính làđiện thờ Na thần.”
Điền Mộ Thanh kinh ngạc: “Hóa ra chúng ta vẫn chưa ra khỏi ngôi làng.”
Tôi nói: “Lạ thật, tại sao ở đây lại không có dấu hiệu bị chìm trong nước.”
Điền Mộ Thanh nói: “Từ số bức bích họa kia có thể nhận biết nơi đâycó phải là miếu thờ Na thần không…” nói rồi cô soi đèn lại gần, phủilớp bụi phía trên, cúi đầu nghiên cứu những bức tranh.
Tôi cũng đang định tới xem thì chợt thấy ớn lạnh, không phải do trong ngôi miếu cổ này ẩm thấp lạnh lẽo mà là lạnh từ bên trong lạnh ra khiến toàn thân nổi da gà.
Tôi nghĩ thầm: “Trong này có gì sao?”, dùng đèn pin soi khắp gianphòng, thì thấy cánh cửa thông sang gian phòng thứ ba đang khép hờ, quakhe cửa tôi nhìn thấy khuôn mặt một bé gái khoảng mười tuổi đang nấp ởphía trong nhìn chúng tôi, hai mắt chớp chớp rất linh hoạt, khi ánh đènpin chiếu tới, thì cô bé lập tức trốn vào trong bóng tối.
Tôi kinh hãi nghĩ: “Giữa nơi thâm sơn cùng cốc này tại sao lại xuấthiện đứa bé? Là trẻ con của dân làng gần đây sao?” Tôi vội tới gần rồimở đẩy cánh cửa ra, bên trong là gian phòng thứ ba cũng giống như haigian phòng vừa rồi, sàn nhà phủ đầy bụi bặm, trên tường mạng nhện chăngđầy, phía trước tuyệt nhiên không một dấu chân người.
3
Điền Mộ Thanh hỏi tôi: “Anh sao thế, sao lại đứng thẩn ra vậy?”
Tôi chỉ vào chỗ cửa hỏi: “Cô không nhìn thấy gì sao? Chỗ này…”
Điền Mộ Thanh thấy vậy liền cầm đèn pin đi ra giữa gian miếu thờ. “Trong đó có gì đâu, tôi chẳng trông thấy gì cả.”
Tôi nghĩ đứa bé đột nhiên biến mất, giờ nói ra cũng chẳng có bằngchứng gì, làm sao mà người ta tin được, đành nói: “Tôi thấy trên tườnggian nhà trong có bàn thờ, mấy gian nhà này chính là miếu thờ đấy.”
Điền Mộ Thanh hỏi: “Bàn thờ à? Trông bộ dạng anh vừa rồi, tôi cứ tưởng anh nhìn thấy gì không hay rồi chứ.”
Tôi thầm quan sát xung quanh, miệng lại nói: “Không có gì, trong miếu thờ thì không thể có ma được.”
Tôi quay đầu lại, vừa vặn nhìn thấy bức tranh Điền Mộ Thanh vừa phủiđi lớp bụi bên trên, trong tranh vẽ hình một cô gái với dáng vẻ yêukiều, tuy bức tranh đã bị bay màu, hình thù có phần mờ nhạt nhưng vẫn có thể khẳng định không phải là hình ảnh người đeo mặt nạ vỏ cây thườnggặp như trong Na giáo, tôi chợt nghĩ: “Nơi đây cũng chưa hẳn là miếu thờ Na thần.”
Điền Mộ Thanh hỏi: “Trong miếu thờ mới có tượng thờ và bích họa chứ, anh cho rằng đây không phải là nơi thờ cúng Na thần?”
Tôi nói: “Trên núi Hùng Nhĩ có ngôi chùa cổ tên là Pháp Hoa, nghe nói trong ngôi chùa cổ này có bức bích họa vẽ một mỹ nhân với sắc đẹp đượcmệnh danh là có một không hai, hay là chúng ta đã tới ngôi chùa Pháp Hoa đó…”
Nhưng nghĩ lại cũng không ổn, núi Hùng Nhĩ dài mấy chục cây số, chùaPháp Hoa cách Thảo Hài Lĩnh xa như vậy, quần sơn cách trở, làm sao cóthể tới nhanh như thế được, hơn nữa những gian nhà lớn này đều được xâytừ đá, không mang vẻ nguy nga lộng lẫy theo phong cách chùa cổ, khả năng là miếu thờ Na thần, chỉ có điều rất hiếm thấy có hình ảnh người bìnhthường không đeo mặt nạ vỏ cây xuất hiện trong miếu thờ của Na thần.
Điền Mộ Thanh rất hiếu kỳ với bức tranh vị nữ bồ tát mà tôi vừa nhắctới, cô hỏi: “Trong chùa cổ Pháp Hoa tại sao lại vẽ tranh mỹ nữ? Ngườitrong tranh đúng là rất đẹp sao?”
Tôi nghĩ: “Điền Mộ Thanh rất thích thú với hội họa, hơn nữa một côgái trực tiếp nghe lời khen ngợi một cô gái khác trước mặt mình thìkhông tránh khỏi có chút ghen tị.” Tôi đành nói với cô ấy: “Hoàng đếthời Tống rất sùng đạo Phật, đã hạ chỉ cho xây chùa Pháp Hoa tại núiHùng Nhĩ, còn lệnh vẽ bích họa trong chùa, đã chỉ định vị họa sỹ giỏinhất thời đó đảm đương công việc vẽ tranh, tuy sức yếu nhiều bệnh, nhưng người này vẫn bị ép đến làm việc, con gái ông ta lo lắng cho sức khỏecủa cha già đã giả thành nam nhi tới núi Hùng Nhĩ trà trộn trong đám thợ để chăm sóc cho cha mình. Hàng ngày làm các công việc giặt giũ quần áo, cơm nước cho đám thợ nên ai cũng quý mến. Trong bảo điện thì đươngnhiên phải có tranh Bồ tát, nhưng lúc đó không tài nào vẽ nổi, tuy bứctranh đã đẹp rồi nhưng chưa đạt được vẻ thoát tục. Tên đốc công do triều đình phái đến lo sợ sẽ ảnh hưởng tới tiến độ thi công đã nổi giận lôiđình, lệnh cho quân lính phạt roi các thợ vẽ tranh, trong đó có ông họasỹ già, nếu phải chịu số đòn roi đó thì coi như mất mạng. Lúc này, congái của lão họa sỹ già xuất hiện nguyện thay cha mình chịu đòn. Tên đốccông thấy cô dung mạo tuyệt vời nhận ra là gái giả trai, liền ép cô phải cởi hết quần áo để chịu phạt. Cô gái biết số mình không may, chỉ quayđầu lại nhìn cha mình và đám thợ vẽ tranh lần cuối rồi mỉm cười nhảy vào chỗ lò nung thép đúc tượng. Ngay lập tức cô hóa thành đám mây trắng bay lên trời, nhưng dung mạo thần thái của cô đã in đậm trong tâm trí củađám thợ, họ đã vẽ thành công bức bích họa đại từ đại bị cứu khổ cứu nạncủa Quan thế âm Bồ tát. Chính vì vậy bức họa trong ngôi chùa này kháchẳn với những ngôi chùa khác, đáng tiếc qua sự bào mòn của thời gian, đã không còn giữ được vẻ đẹp nguyên thủy của bức tranh nữa.”
Điền Mộ Thanh lớn tiếng thở dài, một lúc sau vẫn còn im lặng trầm tư.
Tôi thì chẳng có tâm trạng nào mà thông cảm cho người xưa, hơn nữacâu chuyện này vừa nghe đã biết là bịa đặt, cô gái kia giả trai mà cũngkhông biết làm cho giống lên một chút, bôi ít nhọ nồi cho mặt đen đichẳng hạn, đúng là ngốc hết chỗ nói.
Tôi vừa nói vừa phủi lớp bụi trên tường đi, dựa vào ánh sáng của ngọn nến, tôi xem xét một lượt những bức họa. Các bức họa tại bức tường phía đông đã bị bong tróc nặng khó nhìn ra hình gì, nội dung không cònnguyên vẹn, chỉ lờ mờ nhận ra khuôn mặt của mấy cô gái, phía sau có mộtsố đồng nam đồng nữ người cầm kiếm người cầm gương, không hiểu là để làm gì. Bức tường phía Tây vẫn còn tương đối nguyên vẹn, bức bích họa nhưmột bức hoành phi vẽ lại một ngọn núi lớn cao chạm mây xanh, trong lòngnúi ẩn hiện những cung điện nguy nga, xung quanh chi chít nhà cửa vớihàng vạn người sinh sống, ba phía đông, tây và bắc đều là núi, ở ngọnnúi phía bắc có một hang động, giữa cửa hang và ngôi làng là một gốc cây to đã chết khô và mấy gian nhà đá, phía tây ngôi làng là bãi tha ma,phía đông là bệ đá lớn, phía nam có tấm bia đá đặt trên mai co bí hí[1], trong bức tranh còn có vài đường kẻ màu đen mờ nhạt không rõ ràng, cònphía trên bức tranh là một vị Na tướng quân diện mạo rất hung dữ.
[1] Bí hí hay còn gọi là Quy phu, bề ngoài khá giống con rùa, thíchmang nặng, có thể cõng cả tam sơn ngũ nhạc không bao giờ mệt mỏi vì thếtượng Bí hí cõng trụ đá, cõng bia thường bị nhầm thành con rùa.
Tôi nói với Điền Mộ Thanh: “Mấy gian nhà này đúng là có liên quan tới Na thần, giờ chúng ta đang ở vị trí này, chỉ cần đi xuyên qua khu rừnglà tới được động Ngư Khốc, con đường đó lúc vào đây chúng ta đã đi qua.”
Trong bức bích họa còn có một số chữ cổ ghi chú cho một số vị trí,tôi chẳng biết chữ nào nhưng Điền Mộ Thanh thì có thể đọc được một ít,cô chỉ cho tôi thấy: “Chỗ đụn đất ở chính giữa là núi Huyền Cung, HuyềnCung chính là địa cung, ngôi làng dưới núi là thôn Thiên Cổ Dị Đế, hangđộng phía bắc là động Ngư Khốc, tấm bia đá trước cổng làng được gọi làbia Tầm Na, gốc cây khô đó là cây Na, dưới gốc cây là Na miếu, phía tâyngôi làng là nơi cúng tế của người Quỷ Phương (Đất quỷ), có một conđường hầm thông với thôn làng, phần phía đông có rất nhiều mồ mả khôngrõ tại sao lại không thấy chú thích. À đúng rồi, phần lớn mộ là mộ củangười dân trong làng. Nhưng hàng nghìn năm trước, nơi này bị chìm sâudưới nước, sao bây giờ lại nổi lên được nhỉ?”
4
Tôi lắc đầu không hiểu, việc này nghĩ tới nghĩ lui vẫn không thông,còn tấm bia trước cổng làng nữa chứ, sao lại gọi là bia Tầm Na mà lạikhông gọi thẳng luôn là bia Na đi?
Điền Mộ Thanh giải thích: “Bia đá thường dùng để ghi lại các sự việc, nghe anh Điếu bát nhà anh nói, tầm Na là nói tới phong tục đuổi ma trừtà, là một nghi thức từ cổ xưa. Có thể trên bia đá ghi chép lại nghithức đó của người dân trong làng.”
Tôi nghĩ cũng phải, hình ảnh tấm bia Tầm Na trong bức tranh là mộttấm bia đá rất to được đặt trên mai bí hí, trong dân gian gọi đó là “Rùa cõng bia đá”. Bí hí là con cháu của rồng, có thể cõng được những vậtrất nặng, thời cổ làm bia đá bí hí thường có hai đặc điểm nhận dạng, một là rất cao to, hai là nội dung viết trên bia hết sức quan trọng. Vìvậy, chắc chắn là tấm bia đá kia ghi chép lại những sự việc quan trọngđã xảy ra trong ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế. Nếu tôi không muốn bị cơn ácmộng trong ngôi mộ cổ nhà Liêu dày vò cho đến chết thì buộc phải biếttrên tấm bia đá đó viết những gì. Nhưng ngặt nỗi Điếu bát sống chết chưa biết thế nào, sớm rời khỏi nơi này thì anh ta còn có thêm tia hi vọngsống. Trong thời điểm quan trọng này, tôi không thể chỉ nghĩ tới mạngsống của mình, hơn nữa tôi cũng chẳng gan đâu mà dám bước chân vào ngôimộ đó một lần nữa. Chuyện đã tới nước này đành phải nghe theo sự sắp đặt của ông trời vậy, phải thoát ra khỏi đây trước đã.
Lúc này, Mặt dày đi tới nói với chúng tôi: “Bên ngoài tạnh mưa rồi,sương mù lại dày đặc hơn, bọn mình phải nghĩ cách gì đi chứ, tiếp tụcnán lại đây hay là tìm đường thoát ra ngoài?”
Tôi nói: “Nếu bên ngoài đã tạnh mưa rồi thì chúng ta tiếp tục đi vềhướng bắc, xuyên qua khu rừng này là tới động Ngư Khốc, tới đó có thểtheo đường cũ quay về. Hai người đi thu dọn đồ đạc, bó thêm vài bó đuốcdự phòng, tôi ở đây xem mấy bức bích họa này một lát nữa.”
Mặt dày tìm mấy cành cây to bó lại, lấy mấy bộ quần áo rách xé nhỏthành sợi đưa cho Điền Mộ Thanh buộc vào bó củi, chấm dầu trên váchtường làm đuốc.
Tôi tắt đèn pin để sau cần còn dùng, cầm ngọn nến Điền Mộ Thanh vừađưa cho, một mình đi sâu vào bên trong Na miếu, phủi đám mạng nhện vàbụi bặm giăng trước mặt, tôi dò xét khắp nơi.
Cứ nghĩ tới khuôn mặt cô bé phía sau cánh cửa thì nổi bất an lại tràn về, không biết do tôi nhìn nhầm hay gặp ma thật, cho dù là ma hay người thì cũng chỉ là một con nhóc tì, sợ gì cơ chứ.
Tôi tự trấn an mình rồi tiến tới chỗ bức bích họa sau hậu đường. Miếu đường quay mặt sang hướng nam, bích họa được vẽ ở hai bức tường phíađông và tây. Phía đông vẽ hình ngôi bảo điện nguy nga tráng lệ, bên cạnh có một con cá rất to. Tôi vừa nhìn thấy bức tranh đã nghĩ tới lần lãoNghĩa mù gặp nạn. Năm đó khi Đả thần tiên Dương Phương và Đồ Hắc Hổ cùng mắc kẹt trên nóc điện dưới lòng sông Hoàng Hà, cũng có nét tương đồngvới họa tiết trong bức họa này. Với bản lĩnh của Thôi lão đạo và DươngPhương cũng không thể xác định được ngôi bảo điện bị chìm trong hố cátdưới sông Hoàng Hà thuộc thời đại nào, chỉ đoán khoảng thời Tùy hoặcĐường, không ngờ lại có liên quan tới thôn Thiên Cổ Dị Đế này, không lẽngôi làng này cũng bị chìm xuống hồ vào khoảng thời Tùy, Đường?
Tôi quan sát một lúc lâu không thu được kết quả gì, cũng không rõ làchúng có mối quan hệ như thế nào với nhau. Nhìn sang bức bích họa đốidiện là mấy chục vị Na tướng quân đeo mặt nạ, họ đang khống chế mộtngười và mổ bụng người đó, người bị mổ bụng nằm sóng soài dưới đất, tóctai rũ rượi, phèo ruột lổn nhổn trên mặt đất, người đó vẫn chưa chết,đang cố gắng vùng vẫy thoát thân, quang cảnh máu me khủng khiếp, giốnghệt như những gì Điếu bát miêu tả về lễ bắt ma hoàng.
Tôi nghĩ: “Với cỗ quan tài và số đồ tùy táng quý giá trong địa cungthì người đó chính là Na vương. Nếu là Na vương, tại sao lại bị Na tướng quân giết chết và hậu táng tại địa cung, rồi để cho âm hồn bất tán trởthành quái vật? Làng này đã từng xảy ra sự việc phản loạn? Việc này liên quan gì tới con cá khổng lồ dưới sông Hoàng Hà không? Cô gái Khiết Đantrong bộ Liêu chết vào thời Đường, Tống, tại sao trong mộ cô ta lại cóbức tranh về ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế này? Không lẽ đó chính là cơn ácmộng của cô gái kia khi còn sống? Tại sao trải qua nhiều năm như vậy,tôi lại có cùng giấc mơ với cô gái Khiết Đan? Thôn Thiên Cổ Dị Đế khônglẽ đã bị vướng vào một lời nguyền đáng sợ nào đó?”
Tôi đứng thất thần trước bức bích họa, các ý nghĩ đan xen vào nhau,đột nhiên sống lưng ớn lạnh, ánh nến chập chờn, cảm giác ớn lạnh từngcơn lại trỗi dậy, tôi quay đầu lại nhìn, chính là cô bé đó đang đứngtrong góc tường, cô bé thấy tôi tiến lại gần liền quỳ sụp xuống khócthút thít, miệng lẩm bẩm như đang nói gì đó.
Tôi nghe đứt đoạn không được rõ, dường như cô bé đang nói: “Nhiềunăm… không dễ dàng gì… hôm nay gặp nạn… xin cứu giúp… xin đừngđộng vào…”
Tôi thất kinh, hỏi lại: “Cháu nói gì? Đừng động vào đâu?”
Đúng lúc đó, Mặt dày vỗ mạnh vào vai tôi, mồm oang oang: “Cậu gặp maà? Tự dưng đứng một mình nói chuyện với bức tường? Đang tán tỉnh với emma nào thế?”
Tôi giật bắn người, thiếu nước nhảy dựng lên, Mặt dày đã chuẩn bịxong đuốc, tới để giục tôi lên đường. Tôi bị anh ta làm cho hết hồn, vừa hoàn hồn nhìn lại thì trong góc tường đã trống trơn không có gì nữa.
5
Vừa nãy chỉ trong khoảnh khắc, ánh nến lại mờ ảo nên không nhìn rõđược đứa bé gái, chỉ thấy mờ mờ hình bóng một người, chớp mắt đã khôngthấy đâu, góc tường không để lại chút dấu vết, trừ phi chỉ là cái bóngthì mới làm được như vậy.
Tôi chỉ thấy cô bé đó dường như là oan hồn trong ngôi miếu này, nhưng cô bé nói quá nhỏ, tôi nghe không được rõ cho lắm, tại sao tự nhiên lại quỳ xuống lạy tôi, lời cô bé nói có ý gì? Cô bé đang cần cầu cứu tôigiúp đỡ chăng? Cô bé đó đã chết như thế nào?
Mặt dày lại vỗ vào vai tôi: “Vẫn còn đứng đực mặt ra đó à? Cậu trúng tà thật hả?”
Tôi hỏi Mặt dày: “Ông đừng có giật đùng đùng lên sau lưng tôi thế, định dọa chết người à?”
Mặt dày ngạc nhiên ngắm nghía bức tường một lúc, hỏi tôi: “Cậu nhìn thấy gì thế?”
Tôi nói: “Chẳng có gì cả, mau rời khỏi đây thôi.”
Mặt dày còn chưa tin: “Điêu! Vừa nãy tôi thấy mắt cậu gian lắm, chắc chắn là chưa nói thật, chỗ này có món hời gì à?”
Tôi hạ thấp giọng: “Trong Na miếu này có ma, tin hay không tùy ông, không tin thì ông ở đây chờ mà xem, tôi đi trước đây.”
Mặt dày nói: “Sợ ma mà còn dám đi đào trộm mộ?”, anh ta không tin,đốt đuốc lên xoa tay phủi lớp bụi trên tường, phát hiện ra mấy viên gạch chỉ chạm nhẹ vào đã lung lay, hắn hiếu kỳ cạy viên gạch đó ra thì thấybên trong tường là một đường hầm.
Tôi ngẩn người ngạc nhiên, vội ngăn lại: “Đừng vào, trong đó có ma đấy!”
Mặt dày nào chịu nghe lời tôi, anh ta chắc mẩm trong đó có bảo vật, hất cánh tay tôi ra chui vào trong.
Tôi chửi thầm trong bụng, lại lo anh ta xảy ra chuyện đành phải đánh liều đi theo.
Bên trong là một gian thạch thất chật hẹp âm u, tôi và Mặt dày soiđuốc lên thì thấy một bé gái đang ngồi bất động ở góc tường, cô bé đangôm một thứ gì đó trong lòng, chân mang hài anh vũ màu xanh, mặc bộ quầnáo giống như diễn viên tuồng trên sân khấu, cũng chẳng biết đã chết baolâu nhưng diện mạo và màu sắc quần áo vẫn tươi mới, chẳng khác gì ngườisống cả, không hiểu sao lại có thể bảo tồn tốt như vậy.
Mặt dày chỉ vào xác chết nói: “Chỉ là một người chết thôi mà, ma đâu mà ma.”
Tôi nhìn cô bé khoảng tầm tám, chín tuổi, chết trong gian thạch thấtnày không dưới nghìn năm, vậy mà vẫn như người còn sống, lại hiện hồntrước mắt tôi, chắc chắn có nội tình gì đây, cô bé dặn tôi không đượcđộng vào thứ gì chứ?
Mặt dày nói: “Cô bé này chết cũng đã lâu rồi mà không thay đổi chútnào, hay là biến thành cương thi mất rồi, bọn mình bỏ xác cô bé ở đâykhông quản cũng không đành, hay là mang đi chôn, tránh sau này tácquái.”
Tôi nói: “Đưa người chết nhập thổ là yên, đây cũng là việc tốt nhưngông đừng có sồn sồn lên thế, để tôi xem xét rõ ràng đã rồi tính.”
Mặt dày nói: “Lắm chuyện, mau làm đi, đào cái hố chôn cho xong để còn lên đường, ra khỏi cái chốn này cho sớm”, nói rồi anh ta xồng xộc tiếnvề phía xác đứa bé, thấy trong tay cô bé cầm chiếc gương đồng thì mữngrỡ kêu lên: “Còn có một tấm gương đồng này”
Tôi dặn Mặt dày đừng động vào chiếc gương đó, dù sao thì chiếc gươngđó cũng không thể dùng được nữa. Tới lúc chết, cô bé vẫn cầm chiếc gương trong tay, hơn nghìn năm nay chưa hề thay đổi, chiếc gương đó soi xácchết hơn nghìn năm qua, giờ mà soi người sống thì quá là xui xẻo, ai màdám chường mặt mình vào chiếc gương đó chứ, ông có biết là soi vào sẽnhìn thấy gì không?
Mặt dày cãi lại: “Cậu cứ đứng đó mà tự dọa mình, để tôi xem xem soivào thì thấy gì nào…”, nói rồi gỡ lấy chiếc gương trong tay cô bé ra.Kể cũng lạ, chiếc gương vừa rời khỏi tay thì diện mạo và quần áo cô bébỗng tối sầm xám xịt, trong phút chốc tất cả chỉ còn lại đống tro tàn.
6
Hai chúng tôi thất kinh, không hiểu tại sao vừa lấy đi chiếc gương thì thi thể cô bé đã hóa thành tro bụi.
Tôi cầm lấy chiếc gương đồng, chính giữa mặt sau, chiếc núm gương làhình con rắn đang cuộn tròn, còn có hoa văn chim thần đang bay lên trời, chiếc gương không hề có hiện tượng hoen rỉ, cầm trong tay chắc nịchlạnh lẽo, ánh sáng vàng phát ra từ chiếc gương khiến người xem ớn lạnh,nó chính là cổ vật từ thời Hán. Tới lúc này, tôi mới vỡ lẽ, không chừngđây là một tấm gương báu, đặc biệt là hình con chim thần đúc ở mặt saucủa gương có tên là “Bách Lao điểu”, người xưa thường gọi là chimQuyết[2]. Truyền thuyết kể rằng, con chim đó là do người tên Bách Kỳbiến thành, sau khi mẹ của Bách Kỳ qua đời, bố đi lấy vợ khác, mẹ kếsinh được người con trai, vì muốn lấy lòng chồng, để chồng yêu thươngcon trai mình nên người mẹ kế đó đã lời ngon tiếng ngọt với chồng, người bố tin lời vợ lẽ cho rằng Bách Kỳ có tâm địa không tốt, đã đem cậu vứtnơi đồng hoang. Cậu bé gieo mình xuống sông tự vẫn, biến thành chim Bách Lao, tấm lòng trong sáng như gương, có thể phân biệt thiện ác. Chiếcgương có đúc hình chim thần chắc chắn không phải là tầm thường. Dựa theo tình hình tôi phỏng đoán, cô bé chính là nô lệ của chiếc gương, trongNa miếu cũng có vẽ hình của cô bé, năm đó cô cầm gương chết trong gianthạch thất này, thi thể cô đã được đón nhận linh khí từ chiếc gương, vìthế nên thi thể cô hơn nghìn năm qua không bị rữa nát.
[2] Chim Quyết hay còn gọi là chim Bách Thiệt, trong truyền thuyết loài chim này có thể hót lên trăm thứ tiếng khác nhau.
Tôi hối hận vô cùng, đáng lẽ ra không nên để Mặt dày lấy mất chiếcgương đồng của cô bé. Vừa rồi cô bé hiện hồn về, có thể là đã biết ngàyhôm nay gặp kiếp nạn, cầu xin tôi đừng động vào chiếc gương. Tôi lạikhông nghe rõ ràng, tới khi hiểu ra thì đã quá muộn, xem ra, đó là ýtrời. Tôi kể vắn tắt chuyện này cho Mặt dày nghe.
Anh ta vội nói: “Thì cứ coi như cô bé đó sớm được siêu thoát sớm, điđầu thai. Giữ mãi chiếc gương đó cũng có tác dụng gì đâu…”, nói rồianh giật lấy chiếc gương trên tay tôi lau chùi lớp bụi bên trên, nângniu không nỡ rời tay. Xem chừng anh ta định nhét chiếc gương này vào cái túi da rắn luôn đây.
Tôi bỗng nghĩ lại, thấy lời nói của cô bé rất lạ. Nếu là ma thì tạisao lại lo sợ việc động vào chiếc gương sẽ khiến thân xác biến thành tro bụi. Người thì đã chết rồi, thi thể có bị phân hủy thì cũng còn ý nghĩa gì nữa đâu, cũng đâu hồi sinh chuyển thế được, vậy tại sao cứ phải giữkhư khư chiếc gương không được động vào?
Tôi nghĩ hình ảnh cô bé mà tôi gặp trước đó không phải là ma. Tươngtruyền “Nghìn năm có bóng, tích bóng thành hình”, xác chết đó soi bóngvào trong gương hơn một nghìn năm qua không thay đổi, chiếc bóng tronggương dần có ý thức, có thể chỉ cần thêm vài trăm năm nữa nó có thể tích bóng thành hình, nhưng đạo trời không cho phép, vậy nên cô bé mới nóinhiều năm tu luyện không dễ dàng gì, lại có linh tính sẽ gặp phải kiếpnạn nên tới cầu cứu tôi đừng động vào chiếc gương và xác chết kia, chẳng phải là cô bé đã biết khó tránh khỏi kiếp nạn này rồi sao? Giờ đây thithể đã hóa ra tro, chiếc bóng trong gương cũng không còn cơ hội để tuluyện thành hình nữa rồi, không chừng chỉ cần qua vài năm nữa thì chiếcbóng đó cũng tiêu tan, cô bé nhất định sẽ rất hận chúng tôi, giờ này còn mang theo chiếc gương chẳng phải tự rước họa vào thân.
Nghĩ vậy, tôi nói Mặt dày đừng tham nhặt chiếc gương, vội giành lạinó từ tay anh ta, tôi vốn định đặt chiếc gương lại trên mặt đất, nhưngkhi cúi xuống đã vô tình thấy mặt tôi hiện ra trong gương.
Chiếc gương cổ vẫn giữ được vẻ sáng, bóng, không cần soi đèn vẫn nhìn thấy rõ mặt người, rõ đến từng cọng tóc, tôi thấy khuôn mặt cô bé xuấthiện phía sau tôi, đôi mắt ánh lên vẻ hận thù.
Mắt tôi chạm vào ánh mắt của cô bé, bỗng cảm thấy lạnh buốt toànthân, mồ hôi lạnh vã ra như tắm, quay đầu nhìn lại thì không thấy gì,tôi biết chắc là hồn ma trong chiếc gương, đanh định vứt chiếc gươngxuống đất thì thấy như có hai bàn tay đang bóp lấy cổ mình khiến tôikhông thở được, vội đưa tay sờ lên cổ thì không thấy gì, cúi xuống nhìnchiếc gương, thấy trong gương hiện ra hình ảnh tôi đang bị hồn ma bópcổ.
Tôi kinh hãi vô cùng, vứt toẹt chiếc gương xuống đất, nhưng trên cổvẫn cảm nhận được đôi bàn tay lạnh lẽo đang sít ngày một chặt hơn. Tuyhồn ma trong chiếc gương chỉ là một bóng ma, nhưng đã được hưởng linhkhí của chiếc gương hơn một nghìn năm qua đâu phải là chuyện đơn giản.Trong địa cung của hầm mộ Na vương nguy hiểm như vậy chúng tôi cũngthoát ra được rồi, không lẽ lại chết trong gian mật thất này?
Tôi bắt đầu cuống, nghĩ vội mấy cách để thoát thân, nhưng toàn thâncứng đơ không thể động đậy được, chỉ có hai mắt còn có thể chuyển động,giờ cho dù có bản lĩnh bằng trời cũng không tài nào dùng nổi.
Mặt dày trông thấy bộ dạng của tôi thì chẳng hiểu mô tê gì, hỏi: “Cậu lại gặp ma rồi à?”
Tôi nói thầm trong bụng: “Hồn ma này bóp chết tôi xong rồi cũng tớilượt ông, còn không mau chạy đi?” khổ nỗi không thể nào lên tiếng được,chỉ biết kêu khổ trong lòng, cổ tôi bị bóp ngày càng mạnh, không thể nào thở nổi, hai mắt bắt đầu trắng dã. Đúng lúc đó, tôi bỗng thấy cổ mìnhnhẹ hẳn, vội vàng hớp lấy hớp để không khí, trong lòng thắc mắc tại saohồn ma đó lại đột nhiên tha cho tôi.
Nhìn lại thấy cô bé đã quỳ mọp ở góc tường, mặt biến sắc, quay vềphía chúng tôi vái lạy sì sụp, rồi bỗng chốc tan biến. Tôi thấy lạ liềncầm chiếc gương lên xem, hình ảnh cô bé trong gương không còn nữa, chiếc gương đồng cũng tối sậm lại. Khi tôi quay người lại thì thấy Điền MộThanh đang đứng ngay phía sau, mặt cô trắng bệch như người chết.